Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Căn cứ ly hôn một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.69 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NÔNG THỊ NHUNG

CĂN CỨ LY HÔN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH LẠNG SƠN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
MÃ SỐ: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN PHƯƠNG LAN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận văn

Nông Thị Nhung


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


DCCH

Dân chủ cộng hòa

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

DLBK

Dân luật Bắc kỳ

DLTK

Dân luật Trung kỳ

DLGYNK

Dân Luật giản yếu Nam kỳ

HN&GĐ

Hôn nhân và gia đình
Nghị quyết số 02/2000/NQ – HĐTP ngày

NQ số 02/2000/NQ-HĐTP


23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật
HN&GĐ năm 2000
Sắc lệnh của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ

Sắc lệnh 159/SL

cộng hòa số 159/SL ngày 17/11/1950 quy định
về vấn đề ly hôn

TA

Tòa án

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ................................................. 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ..................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài. ................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài................................................................ 4

5. Kết cấu luận văn:..................................................................................... 4
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LY HÔN VÀ CĂN CỨ
LY HÔN ........................................................................................................ 5
1.1. Khái niệm chung về ly hôn ................................................................... 5
1.1.1. Quyền yêu cầu ly hôn ........................................................................ 5
1.1.2. Khái niệm ly hôn ............................................................................... 7
1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn ....................................................................... 9
1.3. Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn trong pháp luật ............................ 11
1.4. Ý nghĩa việc quy định căn cứ ly hôn................................................... 17
1.5. Khái quát căn cứ ly hôn trong hệ thống pháp luật Việt Nam............... 19
1.5.1. Căn cứ ly hôn trong pháp luật phong kiến Việt Nam................... 19
1.5.2. Căn cứ ly hôn trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc ....................... 21
1.5.3. Căn cứ ly hôn trong pháp luật từ năm 1945 đến nay ................... 23
CHƯƠNG 2. CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HN&GĐ NĂM 2000 VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÁC TOÀ ÁN CỦA TỈNH LẠNG SƠN .... 28
2.1. Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000 ...................................... 28
2.1.1. Căn cứ ly hôn phản ánh tình trạng khách quan của quan hệ hôn
nhân…………………………………………………............……….28
2.1.2. Ly hôn khi một bên vợ hoặc chồng bị mất tích. ............................... 32
2.2. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn tại các tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn................................................................................................... 34


2.2.1. Áp dụng căn cứ ly hôn phản ánh tình trạng khách quan của quan hệ
hôn nhân .......................................................................................... 34
2.2.2. Giải quyết ly hôn khi một bên vợ hoặc chồng bị mất tích tại các toà
án của tỉnh Lạng Sơn. ..................................................................... 47
2.2.3. Ảnh hưởng của phong tục tập quán trong việc áp dụng căn cứ ly hôn
tại các toà án của tỉnh Lạng Sơn.. ..................................................... 49
CHƯƠNG 3. NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC ÁP DỤNG CĂN CỨ

LY HÔN TẠI CÁC TOÀ ÁN TỈNH LẠNG SƠN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ LY HÔN................................... 54
3.1. Những vướng mắc trong việc áp dụng căn cứ ly hôn tại các toà án của
tỉnh Lạng Sơn. .................................................................................... 54
3.1.1. Bất cập, vướng mắc từ các quy định của pháp luật về căn cứ ly
hôn……………………………………………………...... ................. 54
3.1.2. Những tồn tại, hạn chế trong nhận thức pháp luật và thực hiện,
áp dụng căn cứ ly hôn......................................................................58
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật về
căn cứ ly hôn ..................................................................................... 59
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn ............................................. 59
3.2.2. Nâng cao trình độ, kỹ năng và đạo đức của người xét xử................. 63
3.2.3. Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật về ly hôn và căn cứ ly
hôn cho người dân ............................................................................ 64
KẾT LUẬN ................................................................................................. 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 69


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, “Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân
của xã hội là gia đình”[21]. Gia đình có vai trò quan trọng, là môi trường bảo
tồn văn hoá truyền thống, giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách con người,
đồng thời giúp mỗi cá nhân ngày càng hoàn thiện về thể chất, trí tuệ, tinh thần
chuẩn bị hành trang hoà nhập vào cộng đồng xã hội... Hôn nhân và gia đình là
những hiện tượng phát sinh trong quá trình phát triển của loài người. Trong
đó, kết hôn là tiền đề, điều kiện xác lập quan hệ vợ chồng và quan hệ gia đình
theo quy định của pháp luật. Ngược lại, ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân

của vợ chồng, làm tan vỡ quan hệ gia đình và gây ra những hậu quả xấu
không những cho xã hội, cho mỗi gia đình, đặc biệt là những hậu quả bất lợi
đối với phụ nữ và trẻ em.
Cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội, quan hệ giữa con người với
con người, trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình cũng vận động theo sự
thay đổi đó. Xã hội phát triển, “tế bào” gia đình cũng theo đó mà phát triển.
Sự du nhập, giao lưu văn hoá, lối sống giữa các nước đã mang lại một sắc
màu “văn hoá hôn nhân” trong thời đại mới. Chính những tư tưởng, quan
điểm sống cũng như các nhu cầu thể hiện bản thân ngày một nhiều làm cho
cái “tôi” của mỗi người ngày một lớn. Sự hiểu biết khác nhau, sự nhận thức
chênh lệch nhau làm cho mối quan hệ trong hôn nhân dần dần không tìm
được tiếng nói chung, dẫn đến những mâu thuẫn đối kháng và sự tan vỡ gia
đình diễn ra phổ biến.
Theo số liệu thống kê của toà án các cấp, trong cả nước, hằng năm số
lượng các vụ án giải quyết về hôn nhân và gia đình liên tục tăng, chủ yếu là ly
hôn. Số lượng các vụ kiện ly hôn ngày càng nhiều, việc giải quyết ly hôn


2

cũng hết sức phức tạp. Cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết ly hôn
cần phải đưa ra những phán xét chính xác hợp lý trong việc bác đơn xin ly
hôn hay chấp nhận yêu cầu ly hôn của vợ chồng. Để làm được điều đó, một
trong những yêu cầu là phải có các văn bản pháp luật hướng dẫn chặt chẽ cụ
thể, hợp lý đối với việc thực hiện và áp dụng căn cứ ly hôn trong xét xử ly
hôn. Các văn bản hướng dẫn phải thể hiện được tính đa dạng, phức tạp trong
quan hệ hôn nhân, đồng thời phải có tính khả thi để đảm bảo thực thi một
cách đúng đắn về quyền yêu cầu ly hôn của các đương sự.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (viết tắt là Luật HN&GĐ) có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01-01-2001. Luật HN&GĐ đã góp phần quan trọng

trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, bảo đảm ổn định cuộc sống gia đình trong xã hội. Tuy
nhiên, qua giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình của ngành Tòa án cho
thấy, một số quy định của Luật HN&GĐ không phù hợp với thực tiễn, có
những quy định mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác, có
những quy định chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp), hoặc chưa đầy đủ,
thiếu rõ ràng dẫn tới những cách hiểu khác nhau; có những quy định chưa bảo
đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Một số vấn đề mới phát
sinh trong xã hội chưa được pháp luật về hôn nhân và gia đình điều
chỉnh…Việc nghiên cứu đề tài: “Căn cứ ly hôn – Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn áp dụng tại tỉnh Lạng Sơn” sẽ góp phần làm rõ thêm về lý luận và
thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn xuất phát từ đặc thù của tỉnh Lạng Sơn, là
một tỉnh miền núi với nhiều đồng bào các dân tộc sinh sống, chịu những ảnh
hưởng khác nhau của các phong tục tập quán đa dạng của các dân tộc trong
việc ly hôn. Ngoài ra, trong chừng mực nhất định việc nghiên cứu đề tài cũng
góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về căn cứ ly hôn và việc áp dụng
căn cứ ly hôn để giải quyết các vụ việc ly hôn.


3

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
* Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là phân tích về mặt lý luận căn cứ ly hôn,
phân tích các căn cứ ly hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000
cũng như việc áp dụng căn cứ ly hôn trong thực tiễn giải quyết ly hôn tại
các Toà án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
* Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Phân tích, làm rõ về mặt lý luận căn cứ ly hôn, phân tích căn cứ ly hôn
theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, có sự so sánh với các quy định

của hệ thống pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn.
- Phân tích việc áp dụng căn cứ ly hôn theo quy định của Luật
HN&GĐ năm 2000 qua thực tiễn xét xử tại các Toà án trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn.
- Đưa ra những kiến nghị và hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
* Đối tượng nghiên cứu:
- Những vấn đề lý luận về căn cứ ly hôn.
- Căn cứ ly hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000.
- Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn qua một số bản án, quyết định giải
quyết ly hôn tại các Toà án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
* Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đề tài nghiên cứu các căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000, có
sự so sánh với các quy định trong hệ thống pháp luật và dự thảo Luật
HN&GĐ sửa đổi về căn cứ ly hôn .
- Đánh giá và phân tích thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết ly
hôn tại các Toà án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn qua các bản án từ khi Luật
HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực đến nay.


4

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp nghiên cứu cụ thể là phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và phương pháp thống kê...
5. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có bố cục 3
chương như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về ly hôn và căn cứ ly hôn
Chương 2: Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000 và thực tiễn áp
dụng tại các Toà án của tỉnh Lạng Sơn
Chương 3: Những vướng mắc trong việc áp dụng căn cứ ly hôn tại các Toà
án tỉnh Lạng Sơn và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn


5

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LY HÔN VÀ CĂN CỨ LY HÔN
1.1. Khái niệm chung về ly hôn
1.1.1. Quyền yêu cầu ly hôn
Quyền kết hôn và quyền yêu cầu ly hôn là một trong những quyền cơ bản
của cá nhân mỗi công dân, là quyền nhân thân gắn chặt với cá nhân không thể
chuyển giao cũng như không thể uỷ quyền cho người khác thực hiện thay.
Cha, mẹ bên vợ hoặc bên chồng hay bất cứ người nào khác không thể yêu cầu
TA giải quyết cho ly hôn mà chỉ có vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có
quyền yêu cầu ly hôn.
Quyền yêu cầu ly hôn là một trong những quyền dân sự cơ bản của công
dân được quy định trong Bộ luật Dân sự (BLDS) và Luật HN&GĐ. Điều 42
BLDS năm 2005 quy định: “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu
Toà án giải quyết việc ly hôn”. Luật HN&GĐ năm 2000 cụ thể hoá về quyền
này tại khoản 1 Điều 85: “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà
án giải quyết việc ly hôn”. Như vậy, quyền yêu cầu ly hôn vừa là quyền riêng
của cá nhân vợ hoặc chồng, vừa là quyền chung của cả vợ chồng trong trường
hợp vợ chồng thuận tình ly hôn.
Về nguyên tắc, khi thực hiện quyền yêu cầu ly hôn kể cả trường hợp một
bên xin ly hôn hay trường hợp cả hai bên vợ, chồng đồng thuận ly hôn, mỗi cá
nhân đều phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản quy định trong Luật HN&GĐ.

Ngoài ra, để bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, pháp luật nước ta đã quy
định các điều cấm hay điều kiện hạn chế đối với cá nhân khi thực hiện quyền
yêu cầu ly hôn. Các bên không được vi phạm các điều cấm hay điều kiện hạn
chế mà pháp luật quy định. Trong trường hợp vi phạm thì quyền yêu cầu ly
hôn sẽ không được chấp nhận.


6

Quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng được thể hiện trên cơ sở ý chí tự
nguyện, phù hợp với tình cảm của vợ hoặc chồng hoặc cả hai người, phù hợp
tình trạng khách quan của quan hệ hôn nhân là không thể tiếp tục tồn tại và
duy trì đời sống chung được nên vợ hoặc chồng thể hiện mong muốn chấm
dứt hôn nhân. Nhà nước bằng pháp luật, không thể bắt vợ chồng phải chung
sống với nhau, phải duy trì quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó
giữa họ đã hết và mục đích của hôn nhân không thể đạt được. Việc giải quyết
ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ.
Vợ chồng bình đẳng về quyền yêu cầu ly hôn. Trong mọi khoảng thời
gian của thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng hoặc cả hai người đều bình đẳng về
quyền yêu cầu ly hôn (trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 85 Luật
HN&GĐ năm 2000). Vợ, chồng không được cưỡng ép, lừa dối, cản trở nhau
trong việc thực hiện quyền yêu cầu ly hôn. Người khác không được can thiệp,
không được lừa dối, cưỡng ép, bắt buộc hoặc cản trở vợ chồng ly hôn.
Như vậy, xét về bản chất thì quyền yêu cầu ly hôn là một trong những
quyền dân sự cơ bản và là quyền nhân thân của cá nhân được thực hiện trên
cơ sở các nguyên tắc thực hiện quyền dân sự. Tuy nhiên, là một quyền trong
các quyền về hôn nhân và gia đình, việc thực hiện quyền yêu cầu ly hôn lại có
những hạn chế nhất định. Khác với việc thực hiện các quyền dân sự cơ bản
khác, khi thực hiện quyền yêu cầu ly hôn, người chồng bị hạn chế trong
trường hợp người vợ có thai hoặc nuôi con dưới mười hai tháng tuổi. Điều

hạn chế này được quy định tại khoản 2 Điều 85 Luật HN&GĐ.
Với những phân tích, có thể hiểu quyền yêu cầu ly hôn là một trong
những quyền nhân thân cơ bản của cá nhân được pháp luật quy định và
được đảm bảo thực hiện khi quan hệ hôn nhân không thể tiếp tục được
nữa trên cơ sở yêu cầu giải quyết ly hôn của một bên vợ, chồng hoặc cả
hai vợ chồng.


7

1.1.2. Khái niệm ly hôn
Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết
định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng. Tòa án là cơ
quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, có vai trò quan trọng trong việc góp
phần tuân thủ, chấp hành các quy định của pháp luật.
Phán quyết ly hôn của Tòa án thể hiện dưới hai hình thức: Bản án hoặc
quyết định. Nếu hai bên vợ chồng thuận tình ly hôn thỏa thuận với nhau giải
quyết được tất cả các nội dung quan hệ vợ chồng khi ly hôn thì Toà án công
nhận ly hôn và ra phán quyết dưới hình thức quyết định công nhận thuận tình
ly hôn. Nếu vợ chồng có mâu thuẫn, tranh chấp thì Tòa án xét xử và ra phán
quyết ly hôn dưới dạng bản án.
Điều 8 Luật HN&GĐ có giải thích: “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân
do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả
hai vợ chồng”.
Xét về mặt xã hội, ly hôn chính là giải pháp giải quyết sự khủng hoảng
trong mối quan hệ vợ chồng. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng là mặt
không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ còn là hình thức, còn
thực chất mối quan hệ vợ chồng đã hoàn toàn tan vỡ, cuộc sống gia đình vợ
chồng đã mất hết ý nghĩa, vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau.
Trên quan điểm tự do hôn nhân, bao gồm tự do kết hôn và tự do ly hôn,

pháp luật không bắt buộc nam nữ kết hôn khi họ không yêu nhau thì cũng
không bắt buộc vợ chồng phải chung sống với nhau khi tình yêu giữa họ
không còn nữa. Việc ly hôn nhằm giải phóng cho vợ, chồng khỏi những mâu
thuẫn sâu sắc mà họ không thể giải quyết được. Trong trường hợp này, ly hôn
là một việc cần thiết cho cả vợ chồng và cho xã hội; vì nó giải phóng cho tất
cả mọi người, cho vợ chồng, các con cũng như những thành viên trong gia
đình thoát khỏi xung đột, mâu thuẫn bế tắc trong cuộc sống chung.


8

Xét về mặt pháp lý thì ly hôn là một sự kiện pháp lý làm chấm dứt các
nghĩa vụ, quyền giữa vợ và chồng trên cơ sở yêu cầu của vợ chồng và được
TA công nhận.
Khi vợ chồng ly hôn không những ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ tình
cảm vợ chồng, chấm dứt mọi quyền, nghĩa vụ của vợ chồng, mà còn ảnh
hưởng xấu tới quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên khác trong gia
đình, đặc biệt là quyền và lợi ích của con cái, lợi ích chung của gia đình và lợi
ích xã hội. TA với chức năng là cơ quan có thẩm quyền xem xét và quyết định
vợ chồng có thể được ly hôn hay có thể bác đơn ly hôn của họ. Việc chấp nhận
cho các đương sự ly hôn phải dựa trên cơ sở căn cứ ly hôn, tức là phải phù hợp
với thực trạng khách quan của quan hệ hôn nhân. Chỉ khi TA xét thấy các bên
không thể tiếp tục duy trì cuộc sống chung, quan hệ vợ chồng không thể hàn gắn
được thì TA mới giải quyết cho vợ chồng ly hôn.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu ly hôn là sự kiện pháp lý do Toà
án phán quyết bằng quyết định công nhận thuận tình ly hôn hoặc bằng bản
án ly hôn trên cơ sở căn cứ ly hôn theo luật định làm chấm dứt các quyền,
nghĩa vụ pháp lý của vợ, chồng trước pháp luật.
Việc Toà án quyết định cho vợ chồng ly hôn hay bác đơn yêu cầu của họ
phải dựa vào thực chất mối quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên, việc đánh giá thực

chất mối quan hệ vợ chồng là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Trong những
năm gần đây, số vụ ly hôn ở nước ta ngày càng tăng với những biểu hiện mâu
thuẫn vợ chồng rất đa dạng. Để đánh giá thực chất mối quan hệ vợ chồng, đòi
hỏi người Thẩm phán phải điều tra xác minh kỹ để tìm ra nguyên nhân dẫn
đến mâu thuẫn vợ chồng, phải tìm hiểu tâm tư tình cảm, nguyện vọng của vợ
chồng, đồng thời phải xác định diễn biến tâm lý của vợ chồng trong thời gian
tiến hành giải quyết vụ kiện. Tuy nhiên, dù tìm hiểu rõ nguyên nhân, lý do
hay động cơ ly hôn... khi quyết định cho vợ chồng ly hôn, Toà án phải dựa
trên các căn cứ ly hôn do luật định.


9

1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn
Trong xã hội có giai cấp, hôn nhân là hiện tượng xã hội mang tính giai
cấp sâu sắc. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội
khác nhau, giai cấp thống trị đều thông qua nhà nước, bằng pháp luật quy
định chế độ hôn nhân phù hợp với ý chí của nhà nước. Tức là nhà nước bằng
pháp luật quy định trong những điều kiện nào thì cho phép xác lập quan hệ vợ
chồng, đồng thời xác định trong những điều kiện, căn cứ nhất định mới cho
phép xoá bỏ (chấm dứt) quan hệ hôn nhân. Đó chính là căn cứ ly hôn được
quy định trong pháp luật của Nhà nước.
Căn cứ ly hôn là những tình tiết hay điều kiện được quy định trong pháp
luật và chỉ khi có những tình tiết (điều kiện) đó thì Toà án mới cho ly hôn [19].
Quan hệ hôn nhân không những liên quan đến lợi ích riêng tư của vợ
chồng, của gia đình mà còn ảnh hưởng đến lợi ích chung của nhà nước và
toàn xã hội. Vì thế, việc giải quyết ly hôn không thể thiếu sự kiểm soát của
nhà nước bằng pháp luật. Pháp luật công nhận vợ chồng có quyền được tự do
ly hôn, nhưng như vậy không có nghĩa là giải quyết ly hôn tuỳ tiện theo
nguyện vọng của vợ chồng. Giải quyết ly hôn một mặt phải đảm bảo lợi ích

của vợ chồng, mặt khác phải đảm bảo lợi ích của con cái, các thành viên khác
trong gia đình và lợi ích xã hội, do đó nhà nước phải kiểm soát việc ly hôn
bằng cách xác định những điều kiện cần và đủ để cho phép chấm dứt quan hệ
vợ chồng trước pháp luật.
Giai cấp tư sản coi hôn nhân như hợp đồng dân sự, kết hôn giống như
ký kết hợp đồng, còn ly hôn là việc chấm dứt hợp đồng. Căn cứ ly hôn
được quy định dựa trên “lỗi” của các bên vợ, chồng như ngoại tình, xúc
phạm nghiêm trọng đối với bên kia. Các điều kiện ly hôn này mang tính
chất hình thức, phản ánh một cách phiến diện một mặt nào đó trong quan
hệ vợ chồng chứ không phản ánh bản chất thực sự của hôn nhân.


10

Luật HN&GĐ của các nước xã hội chủ nghĩa quy định giải quyết việc ly
hôn đúng thực chất của vấn đề, hoàn toàn không dựa vào lỗi của vợ chồng,
trên cơ sở nhìn nhận khách quan, đánh giá đúng thực chất của quan hệ hôn
nhân đã hoàn toàn tan vỡ. Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền tự do ly
hôn chính đáng của vợ, chồng nhưng chỉ giải quyết cho vợ chồng ly hôn khi
quan hệ hôn nhân đã không thể đạt được, theo quan điểm: “Ly hôn chỉ là việc
xác nhận một sự kiện: Cuộc hôn nhân này là cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại
của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Đương nhiên, không phải sự tuỳ tiện của nhà
lập pháp, cũng không phải sự tuỳ tiện của những cá nhân, mà chỉ bản chất của
sự kiện mới quyết định được là cuộc hôn nhân đã chết hoặc chưa chết bởi vì,
như mọi người đều biết, việc xác nhận sự kiện chết tuỳ thuộc vào thực chất của
vấn đề, chứ không phải vào nguyện vọng của những bên hữu quan... Nhà lập
pháp chỉ có thể xác định những điều kiện trong đó hôn nhân được phép tan vỡ,
nghĩa là trong đó, về thực chất, hôn nhân tự nó đã bị phá vỡ rồi. Việc Toà án
cho phép phá bỏ hôn nhân chỉ có thể là việc ghi biên bản sự tan rã của bên
trong của nó”[16].

Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước quy định căn cứ ly hôn thật
sự khoa học, là biện pháp hữu hiệu củng cố các quan hệ gia đình, bảo vệ
lợi ích chính đáng của các đương sự. Ý chí của vợ chồng không phải là
điều kiện quyết định để phá bỏ hôn nhân mà việc giải quyết ly hôn phải
căn cứ vào các điều kiện – căn cứ pháp lý về ly hôn được quy định trong
Luật HN&GĐ. Nó phản ánh bản chất của hôn nhân đã tan vỡ, nghĩa là
hôn nhân đã “chết” rồi, việc Toà án xử cho ly hôn chỉ là việc công nhận
một thực tế khách quan: Hôn nhân không thể tồn tại được nữa.
Có thể đưa ra khái niệm căn cứ ly hôn như sau: căn cứ ly hôn là những
quy định pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước trong đó xác định những điều
kiện mà vợ chồng được chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp luật.


11

1.3. Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn trong pháp luật
Trong mọi xã hội, Nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong đó có
việc ly hôn bằng các quy phạm pháp luật. Nhà nước quy định các căn cứ ly hôn
để giải quyết việc ly hôn của các bên vợ, chồng. Việc quy định căn cứ ly hôn
dựa trên các cơ sở sau:
* Căn cứ ly hôn được quy định nhằm mục đích xây dựng gia đình phù
hợp với lợi ích của giai cấp thống trị
Pháp luật luôn thể hiện và bảo vệ ý chí của giai cấp thống trị. Nhà nước
thông qua pháp luật quy định những quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực để
bảo vệ các quan hệ xã hội – trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình – phù hợp
với lợi ích của giai cấp thống trị, phù hợp với mục đích xây dựng gia đình theo ý
chí của giai cấp thống trị. Để bảo vệ lợi ích của gia đình – tế bào cơ bản – một
thiết chế xã hội cơ bản – mọi nhà nước đều quy định các quy phạm pháp luật
điều chỉnh vấn đề ly hôn. Việc quy định căn cứ, cơ sở để cho phép chấm dứt hôn
nhân, cũng xuất phát từ lợi ích giai cấp trong các thời kỳ lịch sử.

Thời kỳ chiếm hữu nô lệ, quyền lực nằm trong tay chủ nô vì họ nắm giữ
toàn bộ tài sản. Vì thế mọi quy định, luật lệ đều do giai cấp chủ nô ban hành:
quyền lực thuộc về người đàn ông, vai trò của người phụ nữ trong gia đình chỉ
là thứ yếu. Thời kỳ này là giai đoạn phát triển của chế độ phụ quyền. Hình
thái hôn nhân quần hôn mờ nhạt và thay thế vào đó là xã hội thị tộc, bộ lạc
với người đứng đầu là người có tiếng nói quyết định, chính vì thế quyền hành
dù lớn tới nhỏ đều do người thủ lĩnh đặt ra. Điều đó củng cố thêm rằng,
những luật lệ đặt ra luôn là những quy định để bảo vệ quyền lợi giai cấp, hôn
nhân trong thời kỳ này cũng phản ánh điều đó. Người đàn ông được phép có
nhiều vợ và họ coi vợ là một “thứ tài sản” sở hữu chứ không phải người vợ
đích thực, họ có quyền mua, bán vợ như nô lệ. Trong xã hội thời kỳ này, chế
độ một vợ một chồng mang tính giả tạo, và nó chỉ được thực hiện đối với


12

người đàn bà. Sự hiện diện của các nô tỳ đã thuộc về chủ nô cả thể xác lẫn
tâm hồn thì người vợ của các chủ nô cũng chỉ còn là một nô lệ, một công cụ
giải trí và sinh đẻ đơn thuần. Trong quan hệ hôn nhân, lợi ích của người
chồng được đặt lên trên mọi thứ. Người vợ chỉ là một công cụ để thực thi và
buộc phải tuân thủ những quy định đó.
Hình thức “bán vợ” được coi là một trong những biện pháp chấm dứt
quan hệ hôn nhân, nó không được coi là căn cứ ly hôn nhưng được coi là một
tiền đề xác định hôn nhân chấm dứt, đương nhiên quyền chấm dứt này thuộc
về người đàn ông. Người đàn bà không có quyền bảo vệ hạnh phúc, không có
tiếng nói trong việc duy trì và bảo vệ hôn nhân của mình. Họ buộc phải chấp
nhận theo những phán quyết của người đàn ông trong gia đình và hôn nhân
cũng như ly hôn đều do sự sắp đặt, quyết định của người chồng.
Trong xã hội phong kiến, nhà nước duy trì chế độ đa thê và gia đình gia
trưởng, bảo vệ quyền gia trưởng của người chồng trong gia đình. Quyền gia

trưởng của người đàn ông gắn liền với mục đích xây dựng gia đình phong
kiến. Pháp luật phong kiến dành quyền chủ động ly hôn đối với người chồng
trên cơ sở bảo vệ lợi ích của gia đình phong kiến. Người chồng được yêu cầu
ly hôn khi vợ không có con, hay ghen tuông,... Căn cứ để cho người chồng
được ly hôn dựa vào “thất xuất”: người vợ không có con, ghen tuông, ác tật,
dâm đãng, không kính cha mẹ, lắm lời, trộm cắp. Các quy định này cho thấy
nhà làm luật đã đặt lợi ích, danh dự của gia đình lên trên lợi ích của cá
nhân vợ chồng.
Tuy nhiên, pháp luật phong kiến cũng bảo vệ quyền cho phụ nữ trong
vấn đề ly hôn. Trong trường hợp chồng bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại, nếu
đã có con thì một năm hoặc chồng mắng nhiếc cha mẹ vợ một cách phi lý.
Đây là căn cứ để xác định mối quan hệ thực chất của vợ chồng, ghi nhận một
biện pháp chế tài dành cho người chồng vi phạm nghĩa vụ đối với vợ. Nhìn


13

chung pháp luật vẫn đứng trên quan điểm giai cấp để bảo vệ lợi ích gia đình
và vì lợi ích gia đình.
Có thể nói, trong mỗi giai đoạn, mỗi hình thái kinh tế xã hội, tính
giai cấp thể hiện khác nhau nhưng pháp luật vẫn hướng tới mục đích bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị. Căn cứ ly hôn được đặt ra dựa trên lợi ích của
giai cấp nhằm điều chỉnh mối quan hệ gia đình phù hợp với lợi ích của giai
cấp thống trị.
* Căn cứ ly hôn bị chi phối bởi các tư tưởng, tôn giáo của xã hội
trong từng thời kỳ lịch sử
Các tư tưởng, tôn giáo thống trị trong xã hội không chỉ tác động lên đời
sống xã hội mà còn ảnh hưởng chi phối tới nhận thức cũng như quan điểm
làm luật của giai cấp thống trị. Các quan điểm tư tưởng của giai cấp thống trị
được phản chiếu thông qua các quy định pháp luật. Các quan điểm tôn giáo

cũng được thể hiện qua những luật lệ áp đặt, chi phối hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị trong xã hội. Những ảnh hưởng đó chi phối đến việc xây dựng các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong từng thời kỳ.
Xã hội phong kiến được xây dựng với hệ tư tưởng Nho giáo. Trong xã
hội phong kiến Phương Đông, Nho giáo được suy tôn là hệ tư tưởng thống trị
xã hội. Các chuẩn mực đạo đức, pháp lý được xây dựng trên cơ sở học thuyết
Nho giáo. Vì vậy, pháp luật được ban hành, điều chỉnh mọi quan hệ xã hội
cũng thấm nhuần tư tưởng Nho giáo. Nho giáo thể hiện tư tưởng trọng nam
khinh nữ một cách rõ ràng, nhằm bảo vệ quyền lợi của người đàn ông - người
gia trưởng trong gia đình. Chế độ gia trưởng trong gia đình được pháp luật
bảo vệ. Chế độ gia trưởng đã kìm hãm người phụ nữ trong quan hệ hôn nhân,
quan hệ gia đình. Đạo đức Nho giáo đòi hỏi người phụ nữ phải sống trong
“tam tòng, tứ đức”. Họ luôn phải sống vì gia đình, vì chồng con, theo thuyết
“tam tòng”: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử... Tư tưởng đó


14

đã trói buộc, cản trở người phụ nữ không cho họ quyền quyết định khi ly hôn.
Các duyên cớ ly hôn trong pháp luật phong kiến Việt Nam dựa trên cơ sở tư
tưởng Nho giáo, nên về cơ bản chỉ dành quyền ly hôn cho người đàn ông,
nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình phong kiến.
Đối với những nước chịu ảnh hưởng của tôn giáo thì theo kinh thánh –
hôn nhân là do sự tác thành của Chúa - không thể tự ý xóa bỏ được nên nhiều
nước chịu sự chi phối của tôn giáo không cho phép vợ chồng ly hôn. Căn cứ
ly hôn không được quy định mà thay vào đó pháp luật thừa nhận việc ly thân
của vợ chồng và quy định căn cứ ly thân. Dưới chế độ Ngụy Quyền của Ngô
Đình Diệm với Luật Gia đình ngày 02/01/1959 (Luật số I – 59) quy định vấn
đề ly thân nhưng lại cấm ly hôn. Nhưng dần dần vấn đề cấm ly hôn không còn
phù hợp với thực tế đời sống. Do đó, bên cạnh việc quy định căn cứ ly thân

pháp luật còn quy định căn cứ ly hôn. Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 và Bộ
luật Sài Gòn ngày 20/1/1972 có quy định cả căn cứ ly thân và ly hôn.
Như vậy có thể thấy, trong mọi chế độ xã hội, hệ tư tưởng tôn giáo có
ảnh hưởng không nhỏ đến các quy định của pháp luật, đặc biệt là vấn đề ly
hôn vì ly hôn là quan hệ tình cảm, bị chi phối bởi các tư tưởng tôn giáo của xã
hội đương thời.
* Căn cứ ly hôn được quy định trên cơ sở các điều kiện kinh tế, xã
hội, văn hoá trong từng thời kỳ lịch sử
Pháp luật là yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc, luôn bị chi phối và chịu
ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của xã hội đương thời.
Chế độ phong kiến đề cao bảo vệ quyền gia trưởng của người đàn ông.
Trách nhiệm của người đàn ông là phải nuôi nấng vợ con. Do đó, khi người
vợ chứng minh được người chồng không quan tâm chăm sóc mình thì có
quyền yêu cầu ly hôn. Điều 308 Bộ luật Hồng Đức quy định: “phàm người
chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại thì mất vợ. Nếu vợ có con thì một


15

năm...”. Đây là quy định nhằm ràng buộc trách nhiệm của người chồng. Việc
bỏ lửng vợ, không có trách nhiệm gia đình là không làm tròn bổn phận của
người chồng trong gia đình. Hơn nữa, điều này làm cho người chồng không
còn là trụ cột trong gia đình để người vợ có thể nhờ cậy. Như vậy, pháp luật
phong kiến quy định căn cứ ly hôn trên cơ sở đạo đức Nho giáo đặt ra đối với
người đàn ông với vai trò gia trưởng trong gia đình.
Khi đất nước ta bị thực dân đế quốc chiếm đóng, sự giao thoa văn hoá
giữa phương Đông và phương Tây đã làm cho sắc thái văn hoá ngoại lai xuất
hiện trong xã hội Việt Nam, các tư tưởng trọng nam khinh nữ dần dần đã
được loại bỏ. Pháp luật bảo vệ nhiều hơn quyền cho phụ nữ và trẻ em. Chủ
nghĩa dân chủ nhân dân ảnh hưởng tới từng gia đình, từng quy định pháp lý.

Luật cho phép thuận tình ly hôn trong trường hợp vợ chồng không hợp tính
tình. Đây là một căn cứ ly hôn khá mới mẻ so với truyền thống “tam tòng, tứ
đức” của Việt Nam. Nhưng sự công nhận đó cũng rất mờ nhạt bởi vì tư tưởng
phong kiến với chế độ gia trưởng đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người, vai
trò của người đàn ông trong gia đình với chế độ đa thê.
Căn cứ ly hôn thể hiện tính nhân văn, bảo vệ quyền và lợi ích của các
bên, được thể hiện rõ nhất qua việc quy định về căn cứ ly hôn trong thời kỳ
XHCN. Kinh tế đất nước ngày một phát triển, nền văn hoá mới tiếp thu những
tinh hoa, giá trị tốt đẹp của những nền văn minh trên thế giới vì thế vị trí của
người phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội được bình đẳng với người
đàn ông. Hôn nhân, trong đó chế định ly hôn được xây dựng dựa trên các giá
trị nhân văn của văn hoá – hôn nhân tiến bộ, tự nguyện và bình đẳng.
* Căn cứ ly hôn phản ánh thực trạng quan hệ vợ chồng hoặc lỗi
của vợ chồng.
Quan hệ hôn nhân là quan hệ tình cảm, việc tan vỡ, chấm dứt hôn nhân
xuất phát từ yếu tố tình cảm vợ chồng. Khi vợ chồng không còn tình cảm,


16

không thể tiếp tục sống chung với nhau sẽ dẫn tới ly hôn và ly hôn là cần
thiết. Pháp luật các nước đều có những quy định phản ánh thực tế khách
quan của quan hệ hôn nhân hoặc dựa vào yếu tố lỗi dẫn đến việc làm hôn
nhân tan vỡ.
Pháp luật quy định những điều kiện, căn cứ để trên cơ sở đó hôn nhân
được chấm dứt. Việc quy định những căn cứ ly hôn có thể khác nhau theo
quan điểm của pháp luật mỗi nước. Nhưng nhìn chung các nước đều quy định
việc giải quyết ly hôn dựa trên những căn cứ được cho là “lỗi” làm tan vỡ hôn
nhân. “Lỗi” đó có thể từ phía người chồng hoặc người vợ. Theo BLDS Pháp,
Điều 243 quy định: “Vợ hoặc chồng có thể xin ly hôn khi nêu ra toàn bộ

những sự việc bắt nguồn từ bên vợ hoặc chồng là cho cuộc sống chung không
thể tiếp tục”. Theo quy định này, một bên vợ hoặc chồng làm đơn đến TA xin
ly hôn trong đó có nêu lỗi của bên kia nếu bên kia thừa nhận lỗi trước Tòa thì
Tòa sẽ tuyên ly hôn.
Bên cạnh lỗi của vợ, chồng, pháp luật các nước đều quy định việc giải
quyết ly hôn sẽ được chấp nhận khi vợ chồng không thể chung sống tiếp tục
với nhau, khi quan hệ vợ chồng thực sự tan vỡ. Do đó bên cạnh việc quy định
“lỗi” là căn cứ ly hôn, pháp luật còn quy định căn cứ ly hôn dựa vào thực
trạng khách quan của quan hệ hôn nhân. Ở Canada, luật pháp về ly hôn có sự
kết hợp giữa căn cứ ly hôn trong việc xác định yếu tố lỗi và thực trạng hôn
nhân. Hôn nhân được coi là tan vỡ khi hai vợ chồng sống riêng rẽ đã hơn một
năm, lý do là hôn nhân bị rạn nứt, khi hai vợ chồng có quan hệ ngoại tình với
người khác hoặc khi vợ hoặc chồng có đối xử ngược đãi cả về tinh thần lẫn
thể chất làm bên kia không thể chịu đựng được. Trường hợp đó Tòa án sẽ cho
ly hôn [26].
Quy định căn cứ ly hôn dựa vào lỗi có ưu điểm là xác định căn cứ ly hôn
một chính xác, cụ thể, rõ ràng, thủ tục giải quyết ly hôn nhanh chóng. Bên


17

cạnh đó quy định căn cứ ly hôn dựa vào lỗi có hạn chế là lỗi chỉ là một mặt,
một khía cạnh của quan hệ hôn nhân, nó chỉ phản ánh được hình thức của hôn
nhân mà chưa phản ảnh được bản chất của quan hệ hôn nhân, thiếu sự toàn
diện, việc xét xử của TA có thể rập khuôn, máy móc. Điều đó có thể dẫn tới
ly hôn chưa chính xác với thực chất của quan hệ hôn nhân. Ví dụ: một bên
ngoại tình, bên kia có thể tức giận, tự ái, nông nổi bồng bột, cảm thấy là bị tổn
thương nên yêu cầu ly hôn ngay, nhưng thực tế tình cảm vợ chồng vẫn còn,
vẫn có thể đoàn tụ với nhau, quan hệ hôn nhân chưa hẳn đã tan vỡ.
Việc quy định căn cứ ly hôn dựa vào thực trạng quan hệ khách quan của

quan hệ hôn nhân có ưu điểm là đảm bảo việc giải quyết ly hôn dựa vào thực
chất quan hệ vợ chồng, đảm bảo được lợi ích của các bên vợ chồng, con cái.
Việc nhìn nhận, đánh giá và giải quyết ly hôn một cách toàn diện hơn. Tuy
nhiên, mặt hạn chế của việc quy định căn cứ ly hôn này là khó xác định
những căn cứ cụ thể, hôn nhân đã tan vỡ hay chưa vì nó là những quy định
chung chung, khó chứng minh, không định lượng được vì đây là quan hệ tình
cảm. Với căn cứ ly hôn có tính chất chung chung nên khi xét xử khi phụ
thuộc nhiều vào ý thức chủ quan của người thẩm phán.
Căn cứ ly hôn quy định trong pháp luật của các nhà nước khác nhau
nhưng đều bị chi phối bởi các yếu tố: giai cấp, tôn giáo, điều kiện kinh tế xã
hội, lỗi và thực trạng quan hệ hôn nhân.
1.4. Ý nghĩa việc quy định căn cứ ly hôn
Nhà nước luôn quan tâm điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình. Vì
vậy, pháp luật các nước luôn quy định về căn cứ ly hôn, đây là những căn cứ
pháp lý, là công cụ để tòa án có thể giải quyết yêu cầu ly hôn một cách chính
xác và thỏa đáng. Quy định căn cứ ly hôn trong pháp luật là cần thiết, có ý
nghĩa quan trọng được thể hiện ở một số điểm sau:
- Quy định căn cứ ly hôn đảm bảo lợi ích của giai cấp thống trị, của nhà
nước, của xã hội trong việc điều chỉnh quan hệ gia đình trong đó có quan hệ


18

vợ chồng. Nhà nước chỉ chấp nhận cho phép chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa
vợ và chồng khi việc ly hôn không trái với lợi ích gia đình. Ví dụ: trong pháp
luật phong kiến, lợi ích của vợ chồng được đặt ra và xếp sau lợi ích của gia
đình được pháp luật quan tâm bảo vệ, do đó khi có căn cứ làm ảnh hưởng đến
lợi ích gia đình thì vợ chồng được ly hôn. Như trường hợp người vợ không có
con, bị ác tật...
- Căn cứ ly hôn đảm bảo sự công bằng về lợi ích giữa các bên đương

sự. Bảo đảm quyền tự do ly hôn, giải thoát xung đột, bế tắc trong đời sống
hôn nhân, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên vợ chồng trong
việc yêu cầu ly hôn.
- Quy định căn cứ ly hôn giúp cho vợ chồng nhận thức rõ hơn việc có
thể tiếp tục duy trì hôn nhân được hay không, góp phần điều chỉnh hành
vi xử sự của vợ chồng. Điều này là biện pháp hữu hiệu nhằm củng cố
quan hệ gia đình, bảo vệ lợi ích chính đáng của các đương sự, và trên hết
là bảo vệ cuộc hôn nhân đã được xác lập vì chỉ có người trong cuộc mới
thực sự hiểu tình trạng thực tế của cuộc sống vợ chồng.
- Căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền xem xét
giải quyết việc ly hôn của vợ chồng khi có yêu cầu. Quyền yêu cầu ly hôn
là quyền của vợ chồng, tuy nhiên không phải cứ có yêu cầu là cơ quan có
thẩm quyền sẽ giải quyết cho đương sự ly hôn, tòa án chỉ giải quyết ly hôn
khi việc ly hôn là cần thiết, phù hợp với thực tế của quan hệ vợ chồng. Nhà
nước kiểm soát việc giải quyết ly hôn vì trong quan hệ hôn nhân, không chỉ
có lợi ích riêng của hai vợ chồng mà còn có lợi ích của các thành viên khác
trong gia đình, lợi ích của nhà nước và xã hội. Vì thế quy định căn cứ ly
hôn là cơ sở pháp lý để giải quyết ly hôn. Bảo đảm việc giải quyết ly hôn
một cách chính xác, khách quan, không tùy tiện. Nhà nước chỉ giải quyết ly
hôn khi có đủ những căn cứ theo quy định của pháp luật, và chỉ chấm dứt
hôn nhân khi thực sự cần thiết, đảm bảo sự thống nhất trong việc xét xử.


19

Dưới góc độ xã hội, căn cứ ly hôn nhằm bình ổn quan hệ hôn nhân,
bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của xã hội, góp phần củng cố chế độ một
vợ - một chồng, tự nguyện, tiến bộ, góp phần khẳng định nguyên tắc bình
đẳng giữa vợ và chồng.
1.5. Khái quát căn cứ ly hôn trong hệ thống pháp luật Việt Nam

1.5.1. Căn cứ ly hôn trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Trong pháp luật phong kiến Việt Nam, các căn cứ ly hôn thường
được biết dưới dạng “duyên cớ ly hôn” hay “các trường hợp ly hôn”. Các
duyên cớ ly hôn trong pháp luật phong kiến thấm nhuần sâu sắc tư tưởng
Nho giáo, được quy định dựa trên sự bất bình đẳng giữa vợ chồng và
nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi gia đình, gia tộc hơn là quyền lợi cá nhân.
Chính vì vậy mà duyên cớ ly hôn trong cổ luật được chia làm 3 loại: rẫy vợ,
ly hôn bắt buộc và ly hôn thuận tình.
Trường hợp rẫy vợ: rẫy vợ là việc người chồng được đơn phương bỏ
vợ. Điều 310 Bộ luật Hồng Đức quy định: “Vợ cả, vợ lẽ phạm phải điều
nghĩa tuyệt (như thất xuất) mà người chồng chịu giấu không bỏ thì xử tội
biếm, tùy theo nặng nhẹ”. Tuy Bộ luật Hồng Đức không thống kê rõ các
trường hợp nào được coi là “thất xuất”, nhưng trong Hồng Đức thiện
chính thư (Đoạn 164) và Bộ luật Gia Long (Điều 108) đã nêu rõ, đó là bảy
trường hợp sau:
- Vô tử: không có con, không có con là bất hiếu với cha mẹ nên phải bỏ vợ.
- Ghen tuông: ghen tuông cũng là một duyên cớ người chồng phải bỏ
vợ vì người đàn ông được quyền lấy nhiều vợ, sự ghen tuông gây nên sự
bại hoại trật tự trong gia đình.
- Ác tật (bị bệnh phong hủi): khi có việc cúng giỗ, người vợ không
làm được cỗ để cúng giỗ.
- Dâm đãng: người vợ có hành vi lẳng lơ, dâm đãng thì người chồng
buộc phải bỏ vợ, vì hành vi này làm bại hoại trật tự gia đình phong kiến.


20

- Không kính cha mẹ.
- Lắm lời: sự lắm lởi của người vợ có thể gây nên sự bất hòa giữa
những người thân thuộc trong gia đình.

- Trộm cắp: không bỏ vợ thì vạ lây đến nhà chồng.
Các quy định trên cho thấy nhà làm luật đã đặt lợi ích, danh dự của
gia đình lên trên lợi ích của cá nhân vợ chồng. Duyên cớ để người chồng
bỏ vợ chủ yếu quy vào lỗi của người vợ mà những lỗi này bắt nguồn từ
địa vị thấp kém của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Trường hợp ly hôn bắt buộc: ngoài trường hợp thất xuất, cổ luật Việt
Nam còn quy định khi việc kết hôn vi phạm các điều kiện của kết hôn thì
vợ chồng buộc phải ly dị. Luật không quy định bằng cách thống kê đâu là
các điều kiện thiết yếu của hôn nhân cũng như quyền và nghĩa vụ cụ thể
của vợ chồng, mà luật chỉ can thiệp khi có sự vi phạm các điều kiện hoặc
các nghĩa vụ này và ly hôn bắt buộc coi như là hình phạt cho sự vi phạm
ấy. Chẳng hạn, về sự vi phạm nghĩa vụ chung sống giữa hai vợ chồng.
Điều 308 Bộ luật Hồng Đức quy định: “phàm người chồng đã bỏ lửng vợ
5 tháng không đi lại thì mất vợ. Nếu vợ đã có con thì cho hạn một năm.
Vì việc quan phải đi xa thì không theo luật này”. Đây là quy định nhằm
ràng buộc trách nhiệm của người chồng.
Theo quy định của Điều 108 Bộ Luật Gia Long quy định: khi vợ
chồng phạm phải điều “nghĩa tuyệt” thì buộc phải ly hôn. “Nghĩa tuyệt”
có thể do lỗi của vợ (mưu sát chồng), lỗi của người chồng (chồng bán vợ)
hoặc là lỗi của hai vợ chồng. Riêng trường hợp nếu vợ phạm phải “nghĩa
tuyệt” mà chồng không bỏ, thì chồng cũng bị phạt 80 trượng. Nghĩa là ở
các trường hợp “nghĩa tuyệt” dù người phụ nữ cũng được quyền ly hôn
trong một số tình huống, địa vị pháp lý của họ cũng không được bình
đẳng với chồng.


×