Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Hình thức hợp đồng dân sự một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.54 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ TRANG

HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG DÂN SỰMỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Minh Tuấn

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin được bày tò lòng biết ơn chân thành và sâu
sắc nhất tới Thầy giáo hướng dẫn- Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn, người
đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành Luận văn thạc sĩ cao học này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn các Thầy, Cô trong Khoa sau đại
học và Khoa pháp luật Dân sự đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong hai
năm học tập và nghiên cứu khoa học tại trường.
Cuối cùng, là lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người
luôn động viên, khích lệ và tạo điều kiện để em hoàn thành luận văn
thạc sĩ khoa học này.
Thái Nguyên, ngày … tháng … năm 2013


Học viên

Nguyễn Thị Trang


BẢNG TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật dân sự: BLDS
Hợp đồng dân sự: HĐDS
Hợp đồng: HĐ


MỤC LỤC
Stt
01
02

Nội dung
LỜI NÓI ĐẦU
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hình thức hợp
đồng dân sự.

Trang
1
6

03

1.1.Khái niệm hợp đồng dân sự.


6

04

1.2.Khái niệm hình thức HĐDS.

8

05

1.2.1 Khái niệm.

8

06

1.2.2 Phân loại hình thức HĐDS.

10

1.2.2.1 Căn cứ vào hình thức thể hiện nội dung của hợp
07

10

đồng.
1.2.2.2 Căn cứ vào thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.

08


1.2.3 Vai trò, ý nghĩa của hình thức HĐDS.

11
13

1.3 Hình thức HĐDS theo quy định của một số quốc gia trên
thế giới.

18

Chương II: Quy định của pháp luật Việt Nam về hình thức
hợp đồng dân sự.

22

2.1. Các quy định về hình thức HĐDS trong pháp luật dân sự Việt

22

Nam.

2.1.1 Hình thức không bắt buộc

23

2.1.1.1 Hình thức lời nói (miệng)

23

2.1.1.2 Hình thức hành vi cụ thể


25

2.1.2 Hình thức bắt buộc
2.1.2.1. Hình thức văn bản.

29
30


2.1.2.2. Những hợp đồng bắt buộc phải được lập thành
văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép.

36

2.2 Lựa chọn hình thức hợp đồng dân sự khi ký kết hợp
42

đồng.
2.3 Mối liên hệ giữa hình thức với hiệu lực của hợp đồng.

44

Chương III: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về
hình thức hợp đồng và phương hướng hoàn thiện quy định

50

của pháp luật về hình thức hợp đồng.
3.1 Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về hình thức

của hợp đồng dân sự.

50

3.2 Một số kiến nghị hoàn thiện qui định hiện hành về hình
thức hợp đồng .

61

3.2.1. Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 1 Điều 401
BLDS 2005.

61

3.2.2. Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 2 Điều 401
BLDS 2005.

63

3.2.3. Bổ sung qui định hình thức hợp đồng là điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng khi các bên có thỏa thuận.

65

3.2.4. Giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vi phạm
hình thức.

66

3.2.5 Một số giải pháp khác nhằm hoàn thiện quy định

pháp luật về hình thức HĐ.

67

KẾT LUẬN

68

TÀI LIỆU THAM KHẢO

70


1
LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chế định hợp đồng là một trong những chế định trung tâm của mọi hệ
thống pháp luật, là cơ sở pháp lý điều chỉnh các quan hệ dân sự - kinh tế
phát sinh trong đời sống xã hội, dựa vào đó hướng đến bảo đảm công bằng,
minh bạch và lành mạnh hóa các quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể.
Quan hệ hợp đồng là công cụ pháp lý chủ yếu để các chủ thể thực hiện
giao dịch thỏa mãn nhu cầu cuộc sống hàng ngày, cũng như thực hiện các
hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận. Trong mối quan hệ này các bên thỏa
thuận với nhau về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ nhằm đạt được mục đích nào đó, những thỏa thuận này là ý chí của chủ
thể trong quan hệ hợp đồng. Mà ý chí của chủ thể trong hợp đồng dân sự
thuộc phạm trù nội dung của hợp đồng, mà nội dung đó bao giờ cũng phải
thể hiện ra bên ngoài theo một hình thức nhất định [4,tr11], gọi là hình thức
chứa đựng thỏa thuận của các bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng hay còn
gọi là hình thức HĐ.

Hình thức HĐDS được quy định cụ thể trong BLDS năm 2005 (Điều
401). Quy định về hình thức của HĐDS trong BLDS năm 2005 có vai trò
trong quá trình lựa chọn hình thức giao kết hợp đồng của các chủ thế, trong
công tác kiểm soát giao dịch của cơ quan Nhà nước cũng như công tác xét
xử của cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, bên cạnh đó quy định của pháp luật
nước ta về hình thức HĐ còn nhiều điểm bất cập, chưa rõ ràng, thống nhất,
chứa đựng những sơ hở, tạo điều kiện cho các chủ thể lợi dụng trong quá
trình giao kết HĐ dẫn đến những tranh chấp phát sinh liên quan đến hình
thức HĐ đặc biệt là những tranh chấp liên quan đến hình thức HĐ là một
trong những điều kiện để hợp đồng có hiệu lực xảy ra ngày càng nhiều, cơ
quan xét xử cũng gặp nhiều vướng mắc khi áp dụng pháp luật để giải quyết
các tình huống tranh chấp có liên quan đến hình thức HĐ trên thực tế.


2
Hiện nay, Nhà nước đang tiến hành sửa đổi, bổ sung BLDS năm 2005,
trong đó có nhiều ý kiến, đóng góp cũng như hội thảo khoa học đề cập đến
việc sửa đổi Điều khoản luật liên quan đến hình thức HĐ, do vậy, việc tham
gia đóng góp ý kiến làm tư liệu tham khảo cho các nhà làm luật trong việc
nghiên cứu, sửa đổi quy định về hình thức HĐ là hết sức cần thiết.
Với những nguyên do trên, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “ Hình
thức hợp đồng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm luận văn
thạc sĩ khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, pháp luật về HĐ nói chung và hình thức của
HĐDS nói riêng được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với các quan hệ xã
hội xã hội chủ nghĩa, theo đó quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản của công
dân được coi trọng. Có thể thấy, vấn đề hình thức HĐ đã được nhiều nhà
khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu.
Vấn đề hình thức HĐ đã được nghiên cứu ở một số cuốn sách có tình

chất chuyên khảo như: “Hợp đồng dân sự và các tranh chấp thường gặp”
của Ths.LS. Lê Kim Chung, …, một số công trình nghiên cứu khoa học như:
“Quyền tự do hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam -Những vấn
đề lý luận và thực tiễn” Luật án tiến sĩ Luật học của Phạm Hoàng
Giang,“Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp
luật hiện hành” Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Trần Thị Nhường; “Hình
thức của hợp đồng dân sự và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vi phạm
quy định hình thức” Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Thơm…,
và một số bài viết khoa học trên các tạp chí: “Sự ảnh hưởng của yếu tố hình
thức đối với hợp đồng” của tác giả Lê Minh Hùng, “Hình thức văn bản, văn
bản có chứng thực là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng” của đồng tác giả
Dương Anh Sơn và Lê Minh Hùng. Nhìn chung những công trình nghiên


3
cứu này đã có những nhìn nhận về quy định của pháp luật dân sự đối với
hình thức HĐ, tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
chuyên sâu về những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn các quy định của các
quy định về hình thức HĐ, vì vậy tác giả đã lựa chọn đề tài làm công trình
nghiên cứu khoa học của mình cũng như mong muốn đóng góp các ý kiến
khoa học cho quá trình xây dựng và hoàn thiện BLDS.
3.Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lý luận chung về hình thức HĐ;
quy định của pháp luật dân sự Việt Nam và một số nước về hình thức HĐ;
thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về hình thức HĐ ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm tất cả các vấn đề liên quan
đến hình thức HĐ như: khái niệm, vai trò, việc lựa chọn hình thức HĐ khi
tham gia giao dịch dân sự, hậu quả pháp lý của hợp đồng vi phạm hình thức.
Các quy định về hình thức HĐ được quy định tại BLDS năm 2005, bên cạnh
đó tác giả còn tìm hiểu quy định của một số quốc gia về hình thức HĐ trên

cơ sở tìm hiểu có sự so sánh, học hỏi để đề xuất và hoàn thiện các quy định
của pháp luật về hình thức HĐ. Bên cạnh việc nghiên cứu lý luận, tác giả
cũng nghiên cứu và đưa ra một số tình huống thực tiễn liên quan đến áp
dụng quy định của pháp luật dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp liên
quan đến hình thức HĐ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở các phương pháp nghiên
cứu khoa học như: Tổng hợp, phân tích, so sánh, suy diến logic…
5.Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về
hình thức HĐ, nội dung các quy định hiện hành của pháp luật về hình thức
HĐ và thực tiễn áp dụng, từ đó tìm gia các phương hướng để hoàn thiện các
quy định pháp luật về hình thức HĐ.


4
Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu được xác
định như sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về hình thức HĐnhư: khái niệm, vai
trò, phân loại hình thức HĐ.
- Phân tích, đánh giá các quy định của BLDS năm 2005 về hình thức
HĐ.
- Tìm hiểu quy định pháp luật một số nước về hình thức HĐ.
- Cách thức lựa chọn loại hình thức HĐ khi tham gia giao dịch dân sự.
- Xác định các trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm hình
thức và cách thức xử lý khi hợp đồng dân sự vi phạm hình thức.
- Tìm hiểu thực tế áp dụng quy định của pháp luật về hình thức HĐ
trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật dân sự về
hình thức HĐ.
6.Những điểm mới của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên
quan đến hình thức hợp đồng. Trong luận văn có những điểm mới sau đây:
- Xây dựng khái niệm hình thức hợp đồng.
- Phân tích một cách chi tiết, hệ thống từng loại hình thức hợp đồng,
cách thức lựa chọn hình thức hợp đồng sao cho đúng quy định khi
tham gia giao dịch giảm thiểu việc hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do vi
phạm hình thức.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 03 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần nội dung gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hình thức hợp đồng của dân sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật dân sự về hình thức của hợp đồng dân
sự.


5
Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về hình thức của hợp
đồng dân sự và phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về hình
thức của hợp đồng.


6
NỘI DUNG
Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÌNH THỨC
HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
1.1.Khái niệm hợp đồng dân sự
Từ xa xưa, HĐDS là một phương thức cơ bản để các chủ thể thực hiện
việc lưu thông và trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Trong nền kinh tế hàng hóa thị
trường việc trao đổi, giao lưu kinh tế không chỉ diễn ra trong phạm vi quốc
gia mà được mở rộng ra phạm vi toàn cầu thì HĐDS ngày càng có vai trò

quan trọng. Để HĐDS trở thành một phương thức pháp lý, đảm bảo quyền
lợi chính đáng cho các chủ thể trong quá trình giao lưu dân sự, bất kỳ một
quốc gia nào cũng phải ban hành một hệ thống các quy phạm pháp luật quy
định về các loại HĐDS, xác định cách thức giao kết, cách thức thực hiện hợp
đồng, ghi nhận quyền, xác định nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng và đảm
bảo cho các quyền và nghĩa vụ đó được thực hiện.
Ở nước ta, HĐDS được quy định tại Điều 388 BLDS năm 2005: “
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Theo quy định tại Điều 388 BLDS về HĐDS nói trên thì HĐDS có
những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, HĐDS được hình thành từ hành vi có ý chí, có mục đích
của con người.
Các Mác đã từng nói: “ Tự chúng, hàng hóa không thể đi đến thị
trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau
thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí
nằm trong các vật đó” [2,tr163]. Hàng hóa không thể tự mình tham gia vào
các giao dịch để dịch chuyển từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác mà
phải nhờ đến chính chủ sở hữu đang chiếm hữu đem hàng hóa của mình
tham gia vào các quan hệ giao dịch. Các chủ thể thông qua hành vi để bày tỏ


7
ý chí về việc cùng nhau thiết lập một hợp đồng nhất định, nhằm thực hiện
việc mua bán, trao đổi, cho vay, tặng cho, thuê mượn tài sản hoặc thực hiện
cho nhau các dịch vụ nhất định.
Thứ hai, HĐDS là sự thỏa thuận , thống nhất ý chí giữa các bên chủ
thể.
Đặc điểm này cho thấy nếu các bên chủ thể đã thỏa thuận thống nhất
được ý chí với nhau thì việc trao đổi các lợi ích về vật chất hoặc là dịch vụ

mới được hình thành. Nếu chỉ một bên thể hiện ý chí của mình trong khi bên
chủ thể kia không chấp nhận thì không thể hình thành một quan hệ hợp đồng
để qua đó các chủ thể thực hiện việc chuyển giao tài sản hoặc thực hiện các
công việc cho nhau được. Như vậy, cơ sở đầu tiên và không thể thiếu được
để hình thành một HĐDS là sự thỏa thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên
chủ thể. Ngoài ra, đặc điểm này cho chúng ta nhận biết được nếu hợp đồng
được thiết lập mà nếu thiếu tính tự nguyện của các bên hoặc một bên chủ thể
thì hợp đồng đó có thể bị coi là vô hiệu, và đương nhiên cũng không làm
phát sinh quyền cũng như nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia hợp đồng.
Thứ ba, các bên chủ thể khi thiết lập quan hệ hợp đồng bao giờ cũng
hướng tới một hậu quả pháp lý nhất định: Xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
các quyền, nghĩa vụ dân sự.
Khi xác lập một quan hệ HĐDS các chủ thể sẽ hướng đến một hậu
quả pháp lý nhất định và thường là hướng đến làm phát sinh một quan hệ
pháp luật về nghĩa vụ, để qua đó các bên thực hiện nghĩa vụ đã cam kết đối
với nhau và đem lại cho nhau những lợi ích nhất định. Bên cạnh hậu quả làm
phát sinh nghĩa vụ, các chủ thể khi thiết lập quan hệ hợp đồng còn nhằm
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ mà họ đang có đối với nhau. Chẳng hạn
như hai bên chủ thể đang có mối quan hệ với nhau về hợp đồng thuê nhà với
thời hạn thuê là ba năm, nhưng được hai năm thì hai bên thỏa thuận chấm
dứt hợp đồng thuê nhà đó, như vậy thì quyền và nghĩa vụ giữa hai bên chủ


8
thể trong quan hệ hợp đồng chấm dứt, thỏa thuận chấm dứt hợp đồng thuê
nhà được coi là HĐDS. Ngoài ra, các bên trong hợp đồng có thể thỏa thuận
để thay một nghĩa vụ dân sự đang tồn tại bằng một nghĩa vụ khác.
Như vậy, các quan hệ hợp đồng phát sinh trong đời sống xã hội nếu có
đủ ba dấu hiệu nói trên đều là quan hệ HĐDS. Do vậy, HĐDS được định
nghĩa như sau:

HĐDS là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm
dứt các quyền, các nghĩa vụ dân sự giữa các bên chủ thể trong quan hệ hợp
đồng nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của họ.
Mặc dù trong quan hệ hợp đồng các bên chủ thể được “ tự do, tự
nguyện, cam kết thỏa thuận” nhưng những ý chí thỏa thuận đó không được
trái với các quy định của Nhà nước và đạo đức xã hội, tức là những thỏa
thuận đó phải được đặt trong giới hạn lợi ích của Nhà nước, lợi ích của cộng
đồng xã hội cũng như lợi ích chính đáng của người khác.
1.2.Khái niệm hình thức HĐDS
1.2.1 Khái niệm
Hình thức HĐDS là một yếu tố pháp lý quan trọng của HĐDS, có
quan hệ biện chứng với bản chất, nội dung, giá trị hiệu lực, thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng, và là phương tiện để diễn đạt ý chí của các bên, cũng
như để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng. Người ta sẽ không biết đến sự
tồn tại của hợp đồng, nếu nó không được thể hiện dưới một hình thức xác
định. Với ý nghĩa đó, hình thức HĐDS được thừa nhận và quy định trong
pháp luật của hầu hết các quốc gia, tuy nhiên, cho đến hiện nay chưa có một
khái niệm nhất quán về hình thức HĐDS mà hình thức HĐDS chỉ được đề
cập đến dưới dạng liệt kê các hợp đồng cụ thể.
Theo quy định tại Điều 121 BLDS năm 2005 thì hợp đồng là một loại
giao dịch dân sự, mà bản chất của nó là sự thỏa thuận giữa các bên, và hợp
đồng chỉ có thể được tạo lập khi các bên chủ thể có sự gặp gỡ nhau về ý


9
tưởng thiết lập quan hệ hợp đồng. Để thiết lập được một HĐDS thì yếu tố
quan trọng nhất chính là ý chí của chủ thể, tuy nhiên, khi có ý chí rồi thì ý
chí đó phải được thể hiện ra bên ngoài và phải có sự thống nhất giữa ý chí
của chủ thể với nội dung ý chí đó được thể hiện ra bên ngoài. Ý chí là “ suy
nghĩ có định hướng” của con người, tồn tại dưới dạng vô hình mà người

khác không thể nhìn thấy hay nghe thấy được. Do đó, để các bên có thể biết
được và chấp nhận ý chí của nhau để đạt được thỏa thuận khi giao kết hợp
đồng thì các chủ thể cần phải thể hiện ý chí đó ra bên ngoài dưới một hình
thức khách quan nhất định. Hay nói cụ thể là những điều khoản thỏa thuận
của các bên về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng phải được bộc lộ
ra bên ngoài . Đó chính là hình thức thể hiện của hợp đồng.
Theo đại từ điển tiếng việt do tác giả Nguyễn Như Ý làm chủ biên,
hình thức được hiểu là “cái bên ngoài, cái chứa đựng nội dung” [23,tr809],
trong cuốn Từ điển luật học thì hình thức HĐDS được định nghĩa là “cách
thức thể hiện sự thỏa thuận giữa các bên” [22,tr363]. Nhiều chuyên gia
nghiên cứu luật pháp cũng có quan điểm đồng nhất rằng h hình thức HĐDS
là những biểu hiện bên ngoài của hợp đồng, mặc dù cách tiếp cận khái niệm
này theo nhiều hướng khác nhau như có tác giả cho rằng “hình thức của hợp
đồng là phương tiện ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã xác định” [21], có
nhà nghiên cứu lại cho rằng “hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi
nhận, lưu trữ, chuyển tải nội dung của hợp đồng” [7].
Nếu xét trên khía cạnh vai trò của hình thức HĐDS thì hình thức
HĐDS chính là công cụ để công bố ý chí của các bên tham gia hợp đồng, là
cách thức để truyền đạt thông tin giữa các bên tham gia hợp đồng cũng như
với người thứ ba về sự xác lập và tồn tại của hợp đồng đó.
Trên cơ sở những nhận định trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về
hình thức HĐDS như sau: “ Hình thức hợp đồng dân sự là sự biểu hiện ra
bên ngoài của nội dung hợp đồng, là sự công bố ý chí của các bên, ghi nhận


10
nội dung thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng và là biểu hiện cho sự tồn
tại của hợp đồng.”
1.2.2 Phân loại hình thức HĐDS
Trên cơ sở nghiên cứu quy định của các văn bản thực định liên quan

đến HĐDS có thể phân loại hình thức HĐDS theo hai căn cứ là căn cứ vào
hình thức thể hiện nội dung của hợp đồng và căn cứ vào thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng.
1.2.2.1 Căn cứ vào hình thức thể hiện nội dung của hợp đồng
Hình thức HĐDS là phương tiện để ghi nhận nội dung mà các chủ thể
đã cam kết thỏa thuận với nhau. Đối với HĐDS, tùy thuộc vào chủ thể của
từng loại hợp đồng, nội dung hợp đồng và tùy thuộc vào lòng tin lẫn nhau
của các bên giao kết mà họ có hể lựa chọn hình thức nào trong việc giao kết
hợp đồng cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể.
Hình thức HĐDS được BLDS năm 2005 quy định tương đối đa dạng
tại Điều 401 như sau:
“1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó
phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể
hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin
phép thì phải tuân theo các quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Theo quy định tại Điều 401 thì hình thức HĐDS bao gồm những loại
hình thức sau:


11
- Hình thức miệng: các chủ thể thỏa thuận miệng với nhau về những
nội dung cơ bản của hợp đồng. Hình thức này áp dụng khi các chủ thể có đã
lòng tin tưởng đối với nhau.
- Hình thức văn bản: các bên chủ thể thỏa thuận với nhau những nội
dung của hợp đồng và ghi những nội dung thỏa thuận vào tờ giấy rồi cùng
nhau ký xác nhận vào đó. Khi có tranh chấp , hợp đồng được giao kết bằng

văn bản có giá trị pháp lý cáo hơn so với hình thức bằng miệng.
- Hình thức bằng hành vi: chủ thể của hợp đồng giao kết với nhau
bằng những cử chỉ mà không nói với nhau, không viết ra giấy như ra hiệu,
đút xèng vào máy gọi điện thoại công cộng, mua hàng trong siêu thị…những
hành vi đó phải chứa đựng thông tin để các bên hiểu.
1.2.2.2 Căn cứ vào thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm bắt đầu sự ràng buộc
pháp lý giữa các bên, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng, mà kể từ thời điểm đó các bên không được đơn phương thay đổi hoặc
rút lại các cam kết trong hợp đồng và phải chịu trách nhiệm dân sự nếu
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ
hợp đồng. Hiện nay, BLDS 2005 không định nghĩa thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng, mà chỉ qui định cụ thể về các thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng, Điều 405 BLDS năm 2005 quy định như sau: “Hợp đồng được giao
kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Như vậy, theo quy định của Điều
405 thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chính là thời điểm giao kết hợp
đồng trừ trường hợp các bên có thỏa thuận và pháp luật có quy định khác,
bên cạnh đó theo quy định tại Điều 404 BLDS năm 2005:
“1. Hợp đồng dân sự được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận
được trả lời chấp nhận giao kết.


12
2. Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả
lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự
trả lời chấp nhận giao kết.
3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã
thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.
4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau

cùng ký vào văn bản”.
thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định dựa trên sự công bố ý chí của
các chủ thể, tức là dựa vào hình thức công bố ý chí thể hiện sự thỏa thuận
giữa các bên chủ thể tham gia quan hệ HĐDS. Cụ thể là:
- Hình thức miệng (lời nói): ngay sau khi các bên giao kết với nhau
bằng lời nói về những nội dung của hợp đồng thì nội dung thỏa thuận sẽ có
hiệu lực ngay.
- Hình thức văn bản do các bên xác lập: có hiệu lực khi bên sau cùng
ký vào văn bản, thể hiện nội dung của những hợp đồng có giá trị hiệu lực
trong một khoảng thời gian xác định hoặc đối với hợp đồng mà việc không
cùng với việc giao kết hợp đồng.
- Hình thức bằng văn bản có công chứng, chứng thực: Trong những
trường hợp đặc thù cần có sự kiểm soát chặt chẽ về thủ tục xác lập hợp đồng
và để bảo vệ các bên thiếu kinh nghiệm trước những quyết định bất ngờ, nhà
làm luật thường qui định hợp đồng phải được lập bằng các hình thức văn bản
có công chứng, chứng thực. Theo quy định tại Khoản 3, Điều 4 Luật công
chứng năm 2005: “Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công
chứng viên ký và có đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng” hợp đồng
bằng văn bản pháp luật quy định phải công chứng, chứng thực có hiệu lực kể
từ thời điểm công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công
chứng vào hợp đồng đó.


13
Nhìn chung thì hình thức HĐDS được pháp luật quy định tương đối
đa dạng, giúp các chủ thể có nhiều lựa chọn khi tham gia ký kết các HĐDS.
1.2.3 Vai trò, ý nghĩa của hình thức HĐDS
HĐDS là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền
và nghĩa vụ dân sự giữa các bên. Trong quá trình đàm phán, thương thảo để
ký kết hợp đồng, mỗi chủ thể đều có ý chí của mình. Khi ý chí của các bên

có sự trùng hợp thì coi là có sự thoả thuận và hợp đồng được ký kết. Sự
trùng hợp ý chí, hay nói cách khác sự thoả thuận của các bên được thể hiện
bằng những hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào ý chí của họ: có thể bằng lời
nói, có thể bằng hành vi và có thể bằng văn bản. Các hình thức thể hiện ý chí
đó được gọi là hình thức HĐDS. Các bên có quyền lựa chọn hình thức thể
hiện ý chí của họ và đó được coi là một trong những nội dung của nguyên
tắc tự do hợp đồng – tự do lựa chọn hình thức hợp đồng. Tùy điều kiện,
hoàn cảnh, giá trị, sự phức tạp của hợp đồng mà các bên lựa chọn hình thức
phù hợp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, vì nhiều lý do khác nhau mà
pháp luật khuyến nghị hoặc bắt buộc hình thức HĐDS phải bằng văn bản,
văn bản có chứng thực. Với chức năng là phương thức thể hiện ý chí của các
bên chủ thể khi giao kết hợp đồng, hình thức HĐ có vai trò và ý nghĩa đối
với các bên là chủ thể trong quan hệ hợp đồng, với người thứ ba và với cơ
quan Nhà nước.
Về vấn đề vai trò, ý nghĩa của hình thức hợp đồng cũng có nhiều quan
điểm khác nhau, có quan điểm thì cho rằng hình thức HĐDS có hai chức
năng: là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và là bằng chứng giao kết hợp
đồng, tác giả Vũ Văn Mẫu thì đưa ra bốn chức năng của hình thức HĐDS:
các hình thức trọng thể được ấn định cho một số hành vi quan trọng, cốt để
các đương sự chú trọng đặc biệt việc mình sắp làm; các hình thức chứng cứ
để dẫn chứng trước pháp luật (luật tố tụng trong trường hợp này chỉ chấp
nhận hai cách dẫn chứng: “chứng thư hợp đồng” và “sự thú nhận của


14
đương sự”); các hình thức cấp-tư-năng nhằm đảm bảo quyền định đoạt của
những người chưa hoàn toàn có tư cách chủ thể độc lập để tự mình xác lập
các giao dịch dân sự (ví dụ người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18
tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản của mình);
các hình thức công bố trong trường hợp có liên quan đến người thứ ba [14].

Với đặc điểm của hình thức HĐDS và trên cơ sở quan điểm đánh giá
về vai trò của hình thức HĐDS nêu ở trên thì chúng ta có thể thấy hình thức
HĐDS có vai trò và ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, hình thức HĐDS là bằng chứng tồn tại của HĐDS, hình
thức HĐDS là phương tiện để biểu đạt thỏa thuận của các chủ thể trong quan
hệ hợp đồng, khi các chủ thể thỏa thuận với nhau về nội dung của hợp đồng,
cam kết với nhau về quyền và nghĩa vụ thì những thỏa thuận này được các
chủ thể diễn đạt bằng lời nói hay bằng văn bản, ví dụ, hai chủ thể thỏa thuận
với nhau về việc thuê nhà với thời hạn thuê là dưới sáu tháng, hai bên tiến
hành lập hợp đồng thuê nhà dưới dạng văn bản, trong đó có ghi cụ về thời
gian thiết lâp hợp đồng, thời gian có hiệu lực của hợp đồng, thông tin cá
nhân của hai bên, chi tiết cụ thể về nhà được dùng để cho thuê, quyền , nghĩa
vụ của bên thuê và bên cho thuê, giá cả, bồi thường thiệt hại khi có thiệt hại
xảy ra… sau đó hai bên ký vào hợp đồng, như vậy, hợp đồng thuê nhà dưới
hình thức văn bản đã được hình thành, những vấn đề liên quan đến việc thuê
nhà đã được ghi cụ thể trong văn bản, đó chính là hình thức chứa đựng nội
hợp đồng thuê nhà, chứng minh sự tồn tại của hợp đồng thuê nhà đã được
hai bên giao kết với những điều khoản cụ thể, như vậy, hình thức chứa đựng
nội dung thỏa thuận với những điều khoản cụ thể được hai bên chủ thể xác
nhận là bằng chứng cho thấy một HĐDS đã được hình thành và tồn tại trên
thực tế.
Thứ hai, HĐDS có ý nghĩa trong tố tụng dân sự, là chứng cứ xác nhận
quan hệ hợp đồng đã và đang tồn tại giữa các bên, từ đó xác định trách


15
nhiệm của mỗi bên khi có vi phạm xảy ra. Khi có yêu cầu giải quyết tranh
chấp phát sinh liên quan đến hợp đồng thì cái đầu tiên mà cơ quan tố tụng
yêu cầu đương sự phải cung cấp đó là bằng chứng chứng minh sự tồn tại mối
quan hệ giao kết hợp đồng giữa hai bên chủ thể, vậy thì người yêu cầu phải

chứng minh được sự tồn tại của hợp đồng đã giao kết dưới hình thức mà các
bên đã lựa chọn, còn nếu như không cung cấp được hình thức chứa đựng nội
thỏa thuận của các bên thì cơ quan tố tụng sẽ không có cơ sở để giải quyết
tranh chấp phát sinh.
Khi bên đương sự cung cấp được bằng chứng là văn bản chứa đựng
nội dung thỏa thuận (hợp đồng) thì cơ quan tố tụng sẽ có căn cứ để xác định
nội dung của tranh chấp, bên chủ thể nào vi phạm hợp đồng, vi phạm điều
khoản nào trên cơ sở đó xác định cách thức giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, hình thức HĐDS là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Theo
quy định tại Điều 122 và Điều 401 BLDS năm 2005 thì các bên được lựa
chọn hình thức HĐDS để giao kết, tuy nhiên, trong một số trường hợp pháp
luật quy định hợp đồng phải tuân thủ quy định về hình thức thì mới có hiệu
lực pháp luật. Ví dụ đối với hợp đồng thuê nhà pháp luật quy định: “Hợp
đồng thuê nhà ở phải được lập thành văn bản, nếu thời hạn thuê từ sáu
tháng trở lên thì phải có công chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác”( Điều 492 BLDS năm 2005), hợp
đồng thuê nhà phải lập thành văn bản nếu thời hạn thuê nhà dưới sáu tháng,
còn trên sáu thàng thì ngoài việc lập thành văn bản hợp đồng còn phải công
chứng hoặc chứng thực và còn phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, hay đối với hợp đồng đặt cọc, tại Khoản 1 Điều 358 BLDS năm 2005
quy định: “Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc
kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản đặt cọc)
trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân
sự.Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản”, hợp đồng đặt cọc cũng phải


16
được lập thành văn bản. Như vậy, đối với hai ví dụ hợp đồng vừa nêu thì nếu
như hợp đồng không được thiết lập theo đúng quy định về hình thức mà
pháp luật quy định thì hợp đồng đó dù các bên đã giao kết, và thực hiện phần

nội dung của hợp đồng thì khi có tranh chấp hợp đồng đó sẽ bị tuyên vô hiệu
về hình thức đầu tiên chứ chưa nói gì đến các các nội dung thỏa thuận khác.
Như vậy, trong một số trường hợp thì hình thức HĐDS là một trong những
điều kiện để HĐDS có hiệu lực.
Thứ tư, hợp đồng thiết lập dưới hình thức công chứng, chứng thực,
hoặc đăng ký thì có giá trị pháp lý ‘đối kháng’ với người thứ ba. Về nguyên
tắc, hợp đồng được lập bằng văn bản không có công chứng, chứng thực thì
không có giá trị đối kháng với người thứ ba, vì các bên có thể thông đồng để
lập hợp đồng giả tạo nhằm lừa dối người thứ ba. Ví dụ: Các giao dịch bảo
đảm, các hợp đồng chuyển nhượng tài sản đang cho thuê, hoặc tài sản đang
được dùng để bảo đảm, …, nếu được thể hiện bằng lời nói hoặc bằng “giấy
tay” thì không có giá trị ‘đối kháng’ với những người thứ ba có liên quan.
Trên cơ sở bảo vệ người thứ ba ngay tình và lợi ích của xã hội, phòng
ngừa các trường hợp lừa đảo, tẩu tán tài sản, để hợp đồng có giá trị đối
kháng với người thứ ba, nhà làm luật qui định một số hợp đồng phải tuân
theo những hình thức, thủ tục nhất định: công chứng, chứng thực hoặc đăng
ký. Các hợp đồng được lập theo thủ tục chứng thực, công chứng, đăng ký
thường có giá tri tin, Khoản 3 Điều 4 Luật Công chứng 2005 quy định: “Văn
bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và có đóng
dấu của tổ chức hành nghề công chứng”.
Giá trị của văn bản công chứng cũng được qui định tại Điều 6 của
Luật công chứng 2005: “Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với
các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa
vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định


17
của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thoả
thuận khác” (khoản 1) và “Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những
tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ

trường hợp bị Toà án tuyên bố là vô hiệu” (khoản 2). Theo đó, các hợp đồng
được lập thành văn bản công chứng thì có giá trị đối với các bên, với những
người khác có liên quan, được công nhận có giá trị chứng cứ và không cần
phải chứng minh, tức có giá trị “đối kháng” với người thứ ba. Các hợp đồng
được chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng có giá trị pháp lý
tương tự.
Cũng như việc công chứng, chứng thực hợp đồng, việc đăng ký hợp
đồng có ý nghĩa như là sự công bố chính thức hợp đồng và việc này được
xác nhận bởi cơ quan dịch vụ công. Bởi vậy, ngoài giá trị pháp lý đối kháng
với các bên tranh chấp khác, việc đăng ký hợp đồng còn có mục đích nhằm
tránh sự xung đột về quyền, lợi ích hợp pháp, quyền ưu tiên thanh toán giữa
các bên, cũng như để bảo vệ người thứ ba ngay tình. Ví dụ: khoản 3 Điều
323 BLDS 2005 qui định “Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký
theo quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối
với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký”, và theo qui định tại Nghị định
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ, thì việc thế chấp quyền
sử dụng đất; Thế chấp quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là
rừng trồng; Thế chấp tàu bay, tàu biển; Thế chấp một tài sản để bảo đảm
thực hiện nhiều nghĩa vụ…là những trường hợp phải được đăng ký (Điều 11
khoản 1 và Điều 12 khoản 1).
Như vậy, để được người thứ ba thừa nhận và tôn trọng giá trị pháp lý,
các giao dịch bảo đảm phải được lập thành văn bản và phải được đăng ký,
nếu pháp luật có qui định như các trường hợp vừa nêu. Thông qua việc đăng
ký, các bên trong hợp đồng đã thông tin cho người thứ ba biết về tài sản


18
dùng làm đối tượng bảo đảm đã được sử dụng vào việc bảo đảm. Mọi giao
dịch về tài sản đó sau thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm đều không có giá
trị pháp lý, hoặc có thứ tự ưu tiên kém hơn so với bên đã đăng ký giao dịch

bảo đảm trước đó.
Thứ năm, hình thức HĐDS có vai trò trong quá trình kiểm soát giao
dịch của cơ quan Nhà nước. Đối với hợp đồng có yêu cầu phải công chứng
hoặc chứng thực và phải đăng ký khi các bên chủ thể yêu cầu những cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền công chứng hoặc chứng thực, hoặc là tiến hành
đăng ký đối với những giao dịch bảo đảm tại cơ quan đăng ký thì thông qua
số liệu vụ việc mà các cơ quan này cung cấp Nhà nước sẽ nắm bắt được
phần nào thực tiễn số lượng các giao dịch hợp đồng, sự am hiểu các quy
định của pháp luật hợp đồng của người dân, qua đó có những điều chỉnh các
quy định của pháp luật hợp đồng, pháp luật về công chứng, chứng thực cũng
như pháp luật về đăng ký giao dịch để phù hợp với sự phát triển của các
quan hệ hợp đồng nói riêng và quan hệ xã hội nói chung.
1.3 Hình thức HĐDS theo quy định của một số quốc gia trên thế
giới.
Pháp luật của các nước có sự đánh giá về hình thức HĐDS không
giống nhau và không có pháp luật của nước nào quy định mọi trường hợp vi
phạm hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, là nguyên nhân dẫn
đến hợp đồng vô hiệu nhưng cũng không có hệ thống pháp luật nào miễn trừ
hoàn toàn các yêu cầu về hình thức.
Khi nói đến hình thức HĐDS thì phần lớn trong hệ thống pháp luật
của các nước chủ yếu đề cập đến hình thức văn bản và hình thức hợp đồng
thường được coi là chứng cứ để chứng minh hợp đồng đã được giao kết, tại
Điều 1341 BLDS Pháp năm 1804 có quy định: “ Hợp đồng có giá trị trên
5000 Frăng phải lập thành văn bản”. Pháp luật của Pháp coi trọng chức


19
năng chứng cứ của hình thức văn bản hơn là căn cứ để xác định hiệu lực của
hợp đồng, tức là thực hiện chức năng chứng cứ [5]. Việc không tuân thủ các
quy định về hình thức văn bản không dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng mà

chỉ làm cho việc chứng minh sự tồn tại của hợp đồng, nếu như không có
chứng cứ chứng minh hợp đồng đang tồn tại trên thực tế thì hợp đồng đó có
thể bị cơ quan có thẩm quyền tuyên bố là vô hiệu.
Đối với các quy định của pháp luật các bang của Hoa Kỳ ( trừ các
bang New Mexico, Marylan, Louisiane) thì các hợp đồng sau phải lập bằng
văn bản: hợp đồng có thời hạn trên một năm, hợp đồng về bất động sản, hợp
đồng xác lập biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ [6], ngoài ra, Điều 2-201
UCC quy định, hợp đồng mua bán có giá trị từ 5.000 USD phải được ký kết
bằng văn bản, nếu không tuân thủ hình thức văn bản thì hợp đồng vẫn có thể
có giá trị pháp lý nhưng các bên khó có thể bảo về được quyền lợi của mình
tại toà, bởi lẽ không có chứng cứ. Từ năm 1982 trong pháp luật Hoa Kỳ hình
thành nguyên tắc: hợp đồng về chuyển quyền sở hữu đối với đất đai vi phạm
yêu cầu về hình thức có thể không bị coi vô hiệu, nếu nguyên đơn có đầy đủ
cơ sở tin rằng hợp đồng đã được ký kết và đã làm phát sinh hiệu lực, và
trong trường hợp này, để đảm bảo sự công bằng, việc yêu cầu thực hiện hợp
đồng phải được chấp nhận [6]. Ở Mỹ, nếu vi phạm hình thức HĐDS thì bên
vi phạm không nhờ Tòa Án can thiệp buộc bên kia phải thực hiện nghĩa vụ
được. Trong trường hợp hai bên tự nguyện thi hành ( mặc dù hợp đồng đang
vi phạm quy định về hình thức) thì Tòa án cũng không tự ý mình mà can
thiệp vào quan hệ hợp đồng này được, trường hợp này, tuy có vi phạm về
hình thức, hợp đồng vẫn tồn tại và được thừa nhận trên thực tế. Như vậy,
hợp đồng vi phạm về hình thức không dẫn đến vô hiệu. Điều kiện về hình
thức hợp đồng của Mỹ có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý là bên có quyền
chỉ có thể yêu cầu Tòa Án giúp mình buộc bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng


20
thi hành các nghĩa vụ đã cam kết nếu các quy định về hình thức hợp đồng
được tuân thủ.
Nghiên cứu pháp luật của cộng hòa Liên Bang Nga thì thấy rằng nước

Nga coi trọng chức năng chứng cứ của hình thức văn bản hơn là chức năng
là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực. Điều 162 BLDS Liên bang Nga quy
định: “Hợp đồng không tuân thủ hình thức văn bản thông thường thì trong
trường hợp có tranh chấp các bên mất quyền viện dẫn đến sự tồn tại của
hợp đồng và các điều kiện của hợp đồng, tuy nhiên không làm các bên mất
quyền sử dụng các chứng cứ bằng văn bản và các chứng cứ khác, không
tuân thủ hình thức văn bản đơn giản làm cho hợp đồng vô hiệu nếu pháp
luật có quy định hoặc các bên có thoả thuận”. Điều 165 BLDS Liên bang
Nga quy định: “Hợp đồng không tuân thủ hình thức văn bản có chứng thực
và yêu cầu đăng ký nếu pháp luật có quy định thì vô hiệu; tuy nhiên nếu một
trong các bên đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ giao dịch, mà theo quy
định của pháp luật phải công chứng, chứng thực, và bên kia từ chối chứng
thực, toà án có quyền theo yêu cầu của bên đã thực hiện, công nhận hợp
đồng có hiệu lực. Trong trường hợp này hợp đồng không cần phải công
chứng”. Nếu hợp đồng cần phải đăng ký và đã được ký kết đúng hình thức,
nhưng một trong các bên từ chối đăng ký, theo yêu cầu của bên kia, toà án
có quyền ra quyết định về việc đăng ký hợp đồng. Trong trường hợp này
hợp đồng được đăng ký trên cơ sở quyết định của toà án, bên từ chối chứng
thực hoặc đăng ký hợp đồng không có căn cứ phải bồi thường thiệt hại cho
bên kia. Có thể nhận thấy quy định của pháp luật Liên bang Nga có nhiều
điểm tương thích với pháp luật các nước và trong một chừng mực nhất định,
rõ ràng và cụ thể hơn.
Từ việc xem xét phân tích quy định pháp luật và án lệ của một số
nước, có thể kết luận rằng, ở đa số các nước, rất ít khi hợp đồng bị tuyên vô


×