Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Xác định tài sản riêng của vợ, chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.3 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THỊ HIỀN

XÁC ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG

Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cừ

HÀ NỘI - 2014


1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu trong Luận văn là hoàn toàn trung
thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào
khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Vũ Thị Hiền


2

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy giáo
TS.Nguyễn Văn Cừ, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời
gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các thầy, cô
Khoa Sau đại học - Trường Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và
truyền đạt cho chúng tôi nhiều kiến thức và kinh nghiệm quý báu trong suốt thời
gian qua.
Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè, đồng nghiệp đã luôn ở
bên động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập cũng như
nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình tôi, đặc biệt là cảm ơn ba mẹ
tôi - những người đã luôn bên cạnh chăm sóc, động viên, chia sẻ với tôi trong suốt
quá trình học tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2014
Học viên

Vũ Thị Hiền


3

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT…………………………...…………..….......……….5

MỞ ĐẦU………………………………………………………………..……..……….6
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG CỦA
VỢ, CHỒNG ............................................................................................. 11
1.1. Một số khái niệm cơ bản ......................................................................................... 11
1.1.1. Khái niệm tài sản và quyền sở hữu tài sản ..................................................... 11
1.1.2. Khái niệm thời kỳ hôn nhân ............................................................................ 15
1.1.3. Khái niệm tài sản riêng của vợ, chồng và xác định tài sản riêng của vợ,
chồng ............................................................................................................... 16
1.2. Sự cần thiết quy định tài sản riêng của vợ, chồng và xác định tài sản riêng của vợ,
chồng .................................................................................................................... 17
1.3. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật Việt Nam ............................ 20
1.3.1. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến .... 20
1.3.2. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật thời Pháp thuộc ........ 21
1.3.3. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật ở miền Nam nước ta
trước ngày thống nhất đất nước (1954-1975) ................................................ 23
1.3.4. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật Hôn nhân và gia đình
của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay ........................................................... 25
1.4. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng theo pháp luật một số nước trên thế giới ..... 27
Chương 2: XÁC ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH............................................................ 32
2.1. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng........................................................... 32
2.2. Những tài sản được xác định là tài sản riêng của vợ, chồng................................... 35
2.2.1. Tài sản mà vợ, chồng có được từ trước khi kết hôn ....................................... 36


4

2.2.2. Tài sản mà vợ, chồng được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn
nhân................................................................................................................. 37
2.2.3. Tài sản là đồ dùng, tư trang cá nhân. ............................................................ 38

2.2.4. Tài sản mà vợ, chồng có được từ việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân................................................................................................................. 41
2.2.5. Một số loại tài sản khác .................................................................................. 43
2.3. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng .......................................... 44
2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng với tư cách là chủ sở hữu tài sản ............. 44
2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng của chồng, vợ mình .51
Chương 3: THỰC TIỄN XÁC ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH TÀI
SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG ............................................................ 55
3.1.Thực tiễn xác định tài sản riêng của vợ, chồng........................................................ 55
3.1.1. Nhận xét chung ............................................................................................... 55
3.1.2. Một số vấn đề cụ thể về xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong thực tiễn
xét xử của Tòa án ............................................................................................ 60
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện về xác định tài sản riêng của vợ, chồng. ................... 67
3.2.1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật HN&GĐ về
xác định tài sản riêng của vợ, chồng. ............................................................. 67
3.2.2. Một số giải pháp về tổ chức thực hiện và áp dụng các quy định của pháp luật
HN&GĐ về xác định tài sản riêng của vợ, chồng .......................................... 70
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 76


5

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS:

Bộ luật dân sự.

Chỉ thị số 15/2000/CT-TTg:


Chỉ thị số 15/2000/CT – TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 09/8/2000 về việc
tổ chức thi hành Luật HN&GĐ năm 2000.

HN&GĐ:

Hôn nhân và gia đình.

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP:

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi
hành Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000.

Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP:

Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
ngày 20 tháng 01 năm 1988 hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Luật Hôn nhân
và gia đình.

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:


Tòa án nhân dân tối cao


6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trải qua gần ba mươi năm của công cuộc đổi mới, đất nước ta đang ngày càng
bước những bước đi vững chắc trên con đường phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và đã đạt nhiều thành tựu đáng kể. Dưới tác động của sự phát
triển kinh tế - xã hội, các quan hệ pháp luật cũng có sự biến đổi sâu sắc theo cả hai
hướng: tích cực và tiêu cực; trong số đó phải nhắc tới sự thích ứng của quan hệ
HN&GĐ. Có thể khẳng định rằng, trong xã hội Việt Nam hiện nay, việc vợ chồng
tham gia rộng rãi vào các giao dịch dân sự, kinh tế… đã là hiện tượng mang tính tất
yếu, khách quan; không chỉ thể hiện sự bình đẳng của vợ, chồng trong quan hệ
HN&GĐ mà còn góp phần không nhỏ cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của vợ,
chồng và của cả gia đình. Bên cạnh đó, việc pháp luật hiện hành ghi nhận và bảo hộ
quyền có tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân còn góp phần tạo ra hành
lang pháp lý để vợ, chồng chủ động tham gia vào các quan hệ pháp luật khác. Tuy vậy,
bên cạnh những mặt tích cực này thì các quy định của Luật HN&GĐ cũng bộc lộ một
số bất cập, đặc biệt là các tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng (tài sản chung,
tài sản riêng, nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng) ngày càng nhiều với tính chất phức tạp.
Sau hơn mười ba năm được thực thi trong đời sống, Luật HN&GĐ năm 2000 đã
góp phần không nhỏ trong việc xây dựng và điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ nói
chung, các quan hệ pháp luật liên quan đến tài sản của vợ chồng nói riêng. Trải qua quá
trình tổng kết, đánh giá các ý kiến trong báo cáo của các Bộ, ngành, tổ chức Trung
ương, các tỉnh, thành phố, các cơ quan tổ chức hữu quan, kết quả các Tọa đàm, hội
thảo… ngày 15/7/2013 Bộ tư pháp đã có Báo cáo số 153/BC-BTP Tổng kết thi hành
Luật HN&GĐ năm 2000 để đánh giá những thành tựu và những bất cập hạn chế trong
công tác thi hành Luật này và chủ trương xây dựng Luật HN&GĐ (sửa đổi) nhằm hoàn

thiện pháp luật về HN&GĐ trong đó có các quy định về xác định tài sản riêng của vợ,
chồng. Sau hơn một năm triển khai thực hiện, Luật sửa đổi, bổ sung đang dần được


7

hoàn thiện và công khai lấy ý kiến góp ý của các Bộ, ban, ngành, tổ chức và nhân dân.
Trong các quy định được bổ sung, sửa đổi lần này, các nhà làm luật đặc biệt chú trọng
sửa đổi các quy định về chế định tài sản của vợ chồng, đặc biệt là các quy định có liên
quan đến tài sản riêng của vợ, chồng. Điều này thể hiện ý nghĩa to lớn của vấn đề tài
sản riêng của vợ, chồng trong cả lý luận cũng như trong thực tiễn.
Trong những năm qua ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu liên quan
đến vấn đề tài sản của vợ chồng, tuy nhiên chưa có một công trình nghiên cứu độc lập
về tài sản riêng của vợ, chồng đặc biệt là về vấn đề xác định tài sản riêng của vợ, chồng
theo quy định của pháp luật HN&GĐ hiện hành. Bên cạnh đó, trong thực tiễn xét xử
của Tòa án, vì nhiều lí do khác nhau mà việc áp dụng các quy định về tài sản riêng của
vợ, chồng còn gặp nhiều vướng mắc, đặc biệt là trong việc xác định tài sản riêng của
vợ, chồng. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy việc đi sâu nghiên cứu về vấn đề xác
định tài sản riêng của vợ, chồng là hết sức cần thiết. Đây cũng là lí do tác giả lựa chọn
và nghiên cứu đề tài “Xác định tài sản riêng của vợ, chồng”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ tầm quan trọng của gia đình trong xã hội, các vấn đề liên quan đến
HN&GĐ luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về các vấn đề của HN&GĐ, đặc biệt là về chế định tài sản của vợ chồng
trên nhiều bình diện khác nhau.
Trong thời gian qua, chế định tài sản của vợ chồng đã được triển khai nghiên
cứu một cách sâu rộng, đã được đưa vào giáo trình giảng dạy chuyên ngành Luật
HN&GĐ trong các trường đào tạo luật học ở Việt Nam như Giáo trình Luật HN&GĐ
Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2002, Giáo trình Luật HN&GĐ Việt
Nam của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2001… Những giáo trình này đề

cập đến vấn đề tài sản của vợ chồng như một chế định của pháp luật HN&GĐ, trong đó
tài sản riêng của vợ, chồng được nhắc tới như một phần nội dung của chế định. Bên
cạnh đó đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết trên các báo, tạp chí liên quan đến


8

tài sản của vợ chồng như Luận văn thạc sĩ luật học năm 2002 của tác giả Nguyễn Hồng
Hải, đề tài “Xác định tài sản của vợ chồng – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn”, Luận
án tiến sĩ luật học năm 2005 của tác giả Nguyễn Văn Cừ, đề tài “Chế độ tài sản của vợ
chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam”, Công trình:“Tài sản của vợ chồng trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh”- đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường (2008) do TS
Nguyễn Phương Lan làm chủ nhiệm, bài viết “Quyền sở hữu của vợ chồng theo Luật
HN&GĐ năm 2000” của tác giả Nguyễn Văn Cừ đăng trên Tạp chí Luật học số 6/2002,
bài viết “Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân” của tác giả Nguyễn Phương Lan đăng trên tạp chí Luật học số 6/2002… Tuy
nhiên đa phần các công trình này đều triển khai vấn đề tài sản vợ chồng trên bình diện
rộng trong đó tài sản riêng của vợ, chồng mới chỉ được nghiên cứu như một phần trong
chế định tài sản của vợ chồng mà chưa có bất kỳ bài viết nào nghiên cứu về vấn đề xác
định tài sản riêng của vợ, chồng như một nội dung độc lập và duy nhất.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật hiện hành về
vấn đề xác định tài sản riêng của vợ, chồng và thực trạng áp dụng những quy định này
vào thực tiễn xét xử của Tòa án.
Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi quy định của pháp luật hiện hành về vấn
đề tài sản riêng của vợ, chồng đồng thời có sự nghiên cứu, tham khảo các quy định về
vấn đề này trong Dự thảo Luật HN&GĐ (sửa đổi) qua đó nhằm có được những kết
luận khoa học nhất về vấn đề xác định tài sản riêng của vợ, chồng.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu các quy định của pháp

luật hiện hành về vấn đề xác định tài sản riêng của vợ, chồng; tìm hiểu việc áp dụng
pháp luật để giải quyết các tranh chấp liên quan đến xác định tài sản riêng của vợ,
chồng trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Qua đó, tìm hiểu những quy định bất cập,


9

chưa phù hợp, chưa cụ thể và kiến nghị về hướng hoàn thiện các quy định của pháp
luật về xác định tài sản riêng của vợ, chồng.
Với mục đích nghiên cứu như trên, luận văn được triển khai với các nhiệm vụ sau:
-

Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến việc xác định tài sản

riêng của vợ, chồng; qua đó khẳng định tính tất yếu và cần thiết của việc quy định vấn
đề này trong pháp luật thực định.
-

Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề xác định tài

sản riêng của vợ, chồng; qua đó phân tích những điểm bất cập, chưa hợp lý, chưa khoa
học của các quy định đó làm cơ sở cho các kiến nghị hoàn thiện các quy định về xác
định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật hiện hành.
-

Tìm hiểu việc áp dụng pháp luật về vấn đề xác định tài sản riêng của vợ,

chồng thông qua thực tiễn xét xử của Tòa án có liên quan trực tiếp đến vấn đề này.
-


Trên cơ sở phân tích lý luận, đánh giá thực tiễn, luận văn nêu lên một số

kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định có liên quan đến vấn đề xác định tài sản riêng
của vợ, chồng trong pháp luật hiện nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở các nguyên lý của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin
về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Theo đó, pháp luật là
một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, được hình thành trên cơ sở thực tiễn đời sống
xã hội. Cả trong lý luận và thực tiễn đều chứng minh rằng: hệ thống pháp luật nói
chung, các quy định cụ thể của pháp luật nói riêng phải phù hợp với các điều kiện kinh
tế, văn hóa, xã hội thì mới có tính khả thi, qua đó góp phần cho xã hội ổn định và phát
triển.
Ngoài ra, trong quá trình triển khai đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu sau:


10

-

Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu quy định về xác định tài sản

riêng của vợ, chồng qua các thời kỳ ở Việt Nam;
-

Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các quy định của

pháp luật có liên quan đến vấn đề xác định tài sản riêng của vợ, chồng và khái quát
những nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu trong luận văn;

-

Phương pháp so sánh được sử dụng khi tìm hiểu đánh giá các quy định của pháp

luật hiện hành so với pháp luật các thời kỳ trước ở Việt Nam cũng như so với pháp luật
của một số nước khác cùng quy định về vấn đề xác định tài sản riêng của vợ, chồng.
Qua đó, thấy được sự tiến bộ, phù hợp của pháp luật với các điều kiện văn hóa xã hội ở
Việt Nam;
-

Phương pháp thống kê được áp dụng trong quá trình khảo sát thực tiễn hoạt

động xét xử của Tòa án thông qua các số liệu cụ thể. Qua đó, đánh giá sự phù hợp giữa
các quy định pháp luật với thực tiễn qua đó rút ra kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành 3 chương, 9 mục:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xác định tài sản riêng của vợ, chồng.
Chương 2: Xác định tài sản riêng của vợ, chồng theo pháp luật Việt Nam hiện
hành.
Chương 3: Thực tiễn xác định tài sản riêng của vợ, chồng và một số giải pháp
hoàn thiện về xác định tài sản riêng của vợ, chồng.


11

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
XÁC ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm tài sản và quyền sở hữu tài sản
1.1.1.1. Khái niệm tài sản
Khoa học pháp lý ghi nhận tài sản là khách thể của phần lớn các quan hệ pháp
luật, đặc biệt là quan hệ pháp luật dân sự. Đối với thuật ngữ “tài sản” hiện nay cũng có
nhiều cách hiểu khác nhau.
Theo cách hiểu thông thường, tài sản là những của cải, vật chất được con người
sử dụng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Cách hiểu này đồng nghĩa với việc coi
tài sản là vật cụ thể – một bộ phận của thế giới vật chất, có thể định giá được và cảm
giác được qua các giác quan của con người.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy: tài sản được sử dụng trong các giao dịch dân sự rất
đa dạng, không chỉ là vật cụ thể mà còn dưới nhiều dạng thức khác nhau mà phổ biến
nhất là tiền. Thực tiễn phong phú đặt ra yêu cầu đối với nhà lập pháp là phải xây dựng
được một khái niệm hoàn chỉnh cho thuật ngữ “tài sản” để việc hiểu và áp dụng thuật
ngữ này được thống nhất và chính xác. Trên tinh thần đó, nhà làm luật đã xây dựng
riêng một điều luật giúp việc xác định tài sản được dễ dàng hơn. Điều 163 BLDS năm
2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Đây là
quy định mang tính liệt kê, mặc dù chưa khái quát được bản chất cũng như những đặc
trưng cơ bản của tài sản nhưng cũng đã đưa ra được tiêu chí giúp chúng ta có thể xác
định được tài sản là những gì. Theo đó, tài sản bao gồm:
 Vật: Khái niệm vật trong tự nhiên được hiểu là: cái có hình khối, tồn tại trong
không gian, có thể nhận biết được. Như vậy, vật tồn tại ở nhiều hình thức và trạng thái
khác nhau, là một bộ phận của thế giới vật chất. Vật có thể có nguồn gốc từ tự nhiên
(khoáng sản, đất đai…) hoặc do con người làm ra (nhà cửa, máy móc…). Trong đời


12

sống xã hội, vật sẽ trở thành tài sản nếu nó là vật có thực, được con người sử dụng để
đáp ứng các nhu cầu của mình. Đó có thể là nhu cầu về sử dụng – tiêu dùng, nhu cầu

trao đổi… Nói chung, vật là tài sản khi nó đem lại những lợi ích cho con người.
Ngoài các thuộc tính như: là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại trên thực tế
và có ích cho con người thì vật đó phải là thứ mà con người có thể chiếm giữ được. Bởi
trong thế giới vật chất có nhiều vật có ích cho con người nhưng không thể coi là tài sản
trong các giao lưu dân sự như nước trong tự nhiên, không khí trong bầu khí quyển…
Tuy nhiên, khi con người thực hiện việc chiếm giữ những vật này thông qua các hoạt
động của mình thì chúng hoàn toàn có thể trở thành tài sản trong giao lưu dân sự, ví dụ:
nước đóng vào chai, ô-xi nén vào bình… Như vậy, khả năng chiếm giữ được là yếu tố
quan trọng hình thành tư cách pháp lý của vật – là tài sản.
Ngoài ra, để được coi là tài sản thì vật phải được phép lưu thông trong các giao dịch
dân sự.
 Tiền: Đã từ lâu tiền được coi là vật ngang giá, một công cụ thanh toán đa năng.
Tiền có thể được đúc bằng kim loại hoặc in bằng giấy, thậm chí trong rất nhiều giao
dịch trên thế giới hiện nay còn có sự tham gia của đồng tiền ảo – Bitcoin. Tuy nhiên,
nếu xem xét tiền với tư cách là vật có thực và được công nhận thì tiền gồm: tiền kim
loại và tiền giấy. Dưới góc độ kinh tế, tiền đại diện cho giá trị của hàng hóa, dịch vụ, là
phương tiện thanh toán đa năng và có tính thanh khoản cao nhất. Hiện nay, tiền tham
gia vào hầu hết các giao dịch dân sự và được coi là loại tài sản đặc biệt. Đồng tiền
không chỉ là một loại tài sản mà nó còn đại diện cho chủ quyền của mỗi quốc gia, mỗi
chế độ nhà nước. Để quản lý đồng tiền của quốc gia mình, trên cơ sở kết hợp với quy
luật cung cầu của thị trường, Nhà nước ban hành các chính sách về tiền tệ (lượng tiền,
giá trị quy đổi, giá cả, thanh toán…) và bắt buộc chủ sở hữu của tiền phải tuân thủ
nghiêm ngặt.
 Giấy tờ có giá: Theo quy định tại Khoản 8, Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam năm 2010: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ


13

chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất

định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, giấy tờ có giá bao gồm:
-

Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác (Quy định
tại Điều 1 Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005);

-

Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu (Quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005);

-

Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và các công cụ khác làm phát sinh nghĩa
vụ trả nợ (Quy định tại Khoản 16 Điều 3 Luật Quản lý nợ công năm 2009);

-

Các loại chứng khoán: Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền mua cổ phần,
chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng
khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư, các loại chứng khoán
khác do Bộ Tài chính quy định (Theo điểm 3 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật chứng khoán năm 2010);

-

Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số
90/2011/NĐ-CP của Chính phủ về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 về sửa đổi, bổ sung


một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính
phủ về giao dịch bảo đảm cũng quy định: “Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu,
hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá
khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch”.
Như vậy, giấy tờ có giá là giấy tờ trị giá được bằng một khoản tiền, được phép
giao dịch và được sử dụng như tiền khi pháp luật cho phép (thẻ thanh toán...). Khi đáp
ứng được các điều kiện này thì giấy tờ có giá là tài sản. Ở nước ta, việc sử dụng giấy tờ
có giá với tư cách là một loại tài sản cần tuân theo quy chế và thủ tục được Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam quy định.


14

 Quyền tài sản: Theo Điều 181 BLDS năm 2005: “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí
tuệ”. Quyền tài sản là quyền của chủ thể gắn liền với một tài sản nào đó và chủ yếu là
quyền hưởng lợi từ tài sản. Trong thực tế, quyền tài sản rất đa dạng: quyền đòi nợ,
quyền cho thuê tài sản, quyền hưởng lợi tức từ cổ phiếu, quyền hưởng nhuận bút của
tác giả các tác phẩm văn học nghệ thuật, quyền nhận thù lao của chủ văn bằng độc
quyền sáng chế, giải pháp hữu ích, quyền tài sản phát sinh từ Hợp đồng… Bên cạnh
những quyền tài sản phổ biến này, ở nước ta còn tồn tại một loại quyền tài sản đặc biệt
đó là quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản có giá trị lớn, có thể đưa
vào giao lưu dân sự thông qua việc chủ sử dụng đất thực hiện các quyền: chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho, góp vốn, thế chấp, thừa kế… Do đất đai thuộc sở
hữu toàn dân nên khi chủ sử dụng thực hiện các quyền liên quan đến quyền sử dụng đất
thì phải tuân theo các chính sách và quy định pháp luật của Nhà nước về đất đai.
Tựu chung lại, tài sản là những thứ mà con người có thể chiếm hữu được và mang
lại những lợi ích – chủ yếu là lợi ích vật chất cho con người.
1.1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu tài sản

Trên phương diện pháp lý, vấn đề tài sản và quyền sở hữu tài sản có mối quan hệ
gắn bó chặt chẽ với nhau. Quyền sở hữu tài sản có thể được hiểu là mức độ xử sự mà
pháp luật cho phép chủ sở hữu được thực hiện các quyền năng nhất định, trong những
điều kiện nhất định đối với tài sản thuộc sở hữu của họ. Điều 164 BLDS năm 2005 quy
định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài
sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật”. Theo quy định tại Điều 182 BLDS
năm 2005 thì: Quyền chiếm hữu là quyền năng của chủ sở hữu trong việc tự mình nắm
giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu. Quyền chiếm hữu cũng là quyền kiểm soát, làm chủ
và chi phối tài sản thuộc sở hữu theo ý chí của mình, không bị hạn chế và gián đoạn về
thời gian (Điều 184 BLDS năm 2005). Quyền sử dụng là một quyền năng của chủ sở
hữu tài sản trong việc khai thác các công dụng và những lợi ích khác của tài sản trong


15

phạm vi pháp luật cho phép nhằm thỏa mãn những nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần
cho họ (Điều 192 BLDS năm 2005). Quyền định đoạt đối với tài sản là quyền năng đặc
trưng nhất của quyền sở hữu mà chỉ chủ sở hữu mới có, chủ sở hữu thực hiện quyền
này trong việc quyết định “số phận” của tài sản, chủ sở hữu có quyền chuyển giao
quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản (Điều 195 BLDS năm
2005).
Từ những quy định trên có thể hiểu: quyền sở hữu tài sản của vợ chồng bao gồm
tổng hợp các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của vợ chồng đối với tài sản
chung của vợ chồng hay đối với tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng. Quyền sở hữu tài
sản của vợ chồng là quan hệ pháp lý giữa vợ chồng đối với tài sản (tài sản chung hoặc
tài sản riêng của vợ, chồng).
Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng vừa là một phạm trù pháp lý vừa là một phạm
trù kinh tế. Về mặt pháp lý, quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là bộ phận không thể
tách rời của quan hệ hôn nhân. Các quyền, nghĩa vụ pháp lý của vợ chồng đối với tài
sản chung hay đối với tài sản riêng của một bên vợ, chồng hợp thành quyền sở hữu tài

sản của vợ chồng. Về mặt kinh tế, quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là một bộ phận
của quan hệ kinh tế và chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan.
Trong pháp luật HN&GĐ, liên quan đến vần đề quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
không chỉ có những quy định về quyền của chủ sở hữu đối với tài sản mà còn quy định
cả quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của
chồng, vợ mình. Việc xác lập quan hệ hôn nhân đồng thời làm phát sinh vấn đề về
quyền sở hữu tài sản của vợ chồng do đó quyền sở hữu tài sản của vợ chồng tồn tại như
một tất yếu khách quan trong quan hệ hôn nhân.
1.1.2. Khái niệm thời kỳ hôn nhân
Thời kỳ hôn nhân là thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ một khoảng thời gian đặc biệt
nhất trong quan hệ HN&GĐ. Khoản 7 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:


16

“Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký
kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”.
Về nguyên tắc, thời kỳ hôn nhân được giới hạn từ thời điểm đăng ký kết hôn hoặc
hôn nhân được công nhận là có hiệu lực đến thời điểm chấm dứt hôn nhân do một bên
vợ hoặc chồng chết, vợ hoặc chồng bị tuyên bố chết, do ly hôn bằng bản án hoặc quyết
định thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật.
Trong suốt thời kỳ này, do sự tồn tại của quan hệ hôn nhân nên đời sống chung của
vợ chồng được thiết lập, tính chất cộng đồng của hôn nhân cũng được thể hiện rõ nét,
đồng thời vợ chồng có các quyền và nghĩa vụ với nhau theo quy định của pháp luật về
HN&GĐ như phải chung thủy, thương yêu, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau phát
triển về mọi mặt,…
Ngoài ra, thời kỳ hôn nhân còn là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng được
các nhà làm luật ghi nhận và sử dụng để xác định thời điểm bắt đầu và khoảng thời
gian tồn tại chế độ tài sản của vợ chồng. Do đó, các thuật ngữ như: tài sản chung của
vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng cũng được xây dựng và sử dụng trong thời kỳ

này. Pháp luật rất nhiều quốc gia coi thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân là ranh giới
quan trọng để xác định tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng.
Hiện nay, hệ thống pháp luật HN&GĐ của Nhà nước ta vẫn còn ghi nhận một
trường hợp ngoại lệ: “có quan hệ vợ chồng” tồn tại trong trường hợp nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 mà không đăng ký kết hôn, cho
đến nay chưa đăng ký kết hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng.
1.1.3. Khái niệm tài sản riêng của vợ, chồng và xác định tài sản riêng của vợ,
chồng
Trên cơ sở kết hợp những phân tích về khái niệm tài sản trong pháp luật dân sự
và những quy định của pháp luật HN&GĐ có thể hiểu: tài sản riêng của vợ, chồng là
tài sản (vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản) thuộc quyền sở hữu/quyền sử dụng của
một bên vợ hoặc chồng, tách biệt với khối tài sản chung của vợ chồng. Trên bình diện


17

pháp luật về HN&GĐ, vấn đề tài sản riêng của vợ, chồng là một bộ phận cấu thành và
là nội dung quan trọng trong chế định tài sản của vợ chồng.
Nghiên cứu cách diễn giải của Từ điển Tiếng Việt có thể hiểu: “xác định” tức là
việc đưa ra những nhận định, những phán quyết chính xác về một vấn đề cụ thể nào đó.
Do đó, xác định tài sản riêng của vợ, chồng là việc căn cứ vào các quy định của pháp
luật HN&GĐ để đưa ra nhận định cho vấn đề: những tài sản nào thì được coi là tài
sản riêng của vợ, chồng; qua đó giúp cho việc áp dụng vấn đề tài sản riêng của vợ,
chồng vào thực tiễn được thống nhất và hiệu quả hơn.
Nghiên cứu vấn đề xác định tài sản riêng của vợ, chồng cần thấy rằng: Xuất phát
từ tính chất cộng đồng và mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập mà nhà làm
luật quy định có những tài sản về bản chất là tài sản riêng (tiền lương, tiền thưởng…)
nhưng lại được xác định là tài sản chung của vợ chồng (theo Khoản 1 Điều 27 Luật
HN&GĐ năm 2000) trong khi đó một số loại tài sản khác (tài sản mà vợ, chồng có
được trước khi kết hôn hoặc được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân)

thì vẫn được xác định là tài sản riêng của vợ, chồng.
1.2. Sự cần thiết quy định tài sản riêng của vợ, chồng và xác định tài sản
riêng của vợ, chồng
Pháp luật hiện hành ghi nhận và bảo hộ quyền có tài sản riêng cũng như quy
định các căn cứ để xác định tài sản riêng của vợ, chồng là thực sự cần thiết và có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng cả trong lý luận cũng như thực tiễn.
-

Việc ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng là sự hiện thực hóa những

nguyên tắc Hiến định ghi nhận quyền sở hữu tài sản của cá nhân, là sự cụ thể hóa chế
định quyền sở hữu trong BLDS và là một nội dung quan trọng của chế độ tài sản của
vợ chồng trong Luật HN&GĐ năm 2000.
-

Việc một bên vợ hoặc chồng có tài sản riêng và có nhu cầu xác lập quyền sở

hữu riêng đối với khối tài sản này là một thực tế trong xã hội, đã được ghi nhận từ Luật
HN&GĐ Việt Nam năm 1986 và tiếp tục kế thừa trong Luật HN&GĐ Việt Nam năm


18

2000. Việc quy định về tài sản riêng của vợ, chồng là rất tiến bộ và cần thiết trong xu
thế phát triển hiện nay. Bởi lẽ, song song với sự phát triển của nền kinh tế thì khối
lượng tài sản trong xã hội cũng tăng lên thúc đẩy hình thành ý thức về việc xác lập khối
tài sản riêng để phục vụ các nhu cầu cá nhân. Điều này hoàn toàn phù hợp với tâm lý
của con người trong việc mong muốn sở hữu khối tài sản độc lập và chủ động trong
quá trình sử dụng tài sản. Bên cạnh đó, trước khi kết hôn có thể mỗi bên vợ, chồng đã
tự tạo lập được một khối tài sản nhất định do chính công sức lao động của mình. Về

bản chất, khối tài sản này là thuộc sở hữu riêng của một bên vợ, chồng. Do đó, nếu sau
khi kết hôn tài sản này đương nhiên trở thành tài sản chung, một bên vợ, chồng còn lại
trở thành chủ sở hữu tài sản và có đầy đủ quyền năng pháp lý đối với tài sản này thì
hoàn toàn mâu thuẫn với nguyên tắc xác lập quyền sở hữu tài sản được quy định trong
BLDS. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp nếu áp dụng chế độ tài sản chung thì sẽ làm
cản trở những nhu cầu chính đáng của cá nhân, cản trở sự phát triển của xã hội. Do đó,
việc pháp luật ghi nhận quyền có tài sản riêng của một bên vợ, chồng không chỉ là sự
bảo hộ quyền của cá nhân mà còn giúp Nhà nước quản lý các quan hệ xã hội liên quan
đến tài sản riêng của một bên vợ, chồng nhằm đảm bảo sự hợp lý, hài hòa của các lợi
ích trong xã hội.
-

Quy định về tài sản riêng của vợ, chồng tạo ra hành lang pháp lý đảm bảo tính

độc lập tương đối của vợ, chồng trong việc quản lý tài sản đặc biệt là đối với tài sản
thuộc sở hữu riêng, tạo cơ sở để vợ, chồng chủ động tham gia vào các quan hệ xã hội
cũng như vào các giao dịch dân sự, thương mại vì lợi ích gia đình cũng như lợi ích cá
nhân, phát triển kinh tế gia đình, xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã và đang tạo ra một môi trường hết sức
thuận lợi để các cá nhân có thể phát huy hết khả năng làm giàu cho chính mình, cho gia
đình và cho xã hội. Khi vợ, chồng tham gia vào các giao dịch dân sự, kinh tế cũng
đồng thời làm phát sinh nhiều vấn đề đòi hỏi pháp luật giải quyết đặc biệt là về chủ thể
tham gia giao dịch, quyền cũng như nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng trong các giao dịch


19

đó. Ngoài ra, đối tác trong các giao dịch này cũng rất quan tâm tới việc tài sản đưa vào
giao dịch là tài sản chung của vợ chồng hay là tài sản riêng của một bên, mục đích xác
lập giao dịch, quyền nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản đó như thế nào… để qua đó

có thể xác định được mức độ đảm bảo thực hiện giao dịch. Vì vậy, quy định cụ thể về
tài sản riêng của vợ, chồng giúp việc xác định tài sản riêng trở nên đơn giản và thống
nhất, các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản riêng được minh bạch hóa về mặt chủ
thể. Đây là tiền đề tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi, ổn định để vợ, chồng chủ động
tham gia vào các quan hệ kinh tế, xã hội đồng thời góp phần đảm bảo quyền lợi của các
bên có liên quan.
-

Xác định cụ thể tài sản riêng của một bên vợ, chồng là căn cứ quan trọng để giải

quyết các tranh chấp có liên quan đến tài sản của vợ chồng. Thông thường, trong đời
sống hôn nhân ít khi đặt ra vấn đề xác định tài sản chung hay riêng nhưng khi vợ,
chồng có nhu cầu phân định tài sản riêng thì các quy định của pháp luật là căn cứ pháp
lý để các bên hoặc Tòa án xác định đâu là tài sản riêng của vợ, chồng, đồng thời xác
định rõ quyền hạn, trách nhiệm của mỗi bên vợ, chồng trong việc quản lý, sử dụng,
định đoạt tài sản riêng đó. Việc xác định tài sản riêng không chỉ để bảo vệ quyền lợi
của bên vợ, chồng có tài sản mà qua đó còn góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của người thứ ba ngay tình, của cộng đồng và của xã hội.
-

Việc quy định hạn chế quyền của một bên vợ, chồng đối với tài sản riêng của

mình trong một số trường hợp đã tạo điều kiện để vợ, chồng thể hiện trách nhiệm với
gia đình thông qua việc đưa tài sản riêng vào sử dụng chung, qua đó xây dựng ý thức
cùng chung sức xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Đây là điều kiện cần thiết để bảo
vệ quyền lợi của các thành viên trong gia đình, tránh những mâu thuẫn xảy ra làm tổn
thương đến tình cảm và sự đoàn kết trong gia đình, giúp vợ, chồng xác định được
quyền và nghĩa vụ về tài sản đối với gia đình, đối với nhau và đối với con cái.
-


Ngoài ra, xét về mặt xã hội, việc pháp luật hiện hành ghi nhận quyền có tài sản

riêng của mỗi bên vợ, chồng cùng các căn cứ xác định tài sản riêng đặc biệt là căn cứ


20

“tài sản có được trước thời kỳ hôn nhân” còn nhằm hạn chế các quan hệ hôn nhân thiết
lập không dựa trên yếu tố tình cảm mà chỉ vì tiền tài, vật chất của nhau; từ đó góp phần
đảm bảo mục đích tốt đẹp của việc xác lập quan hệ hôn nhân trong xã hội ta.
1.3. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật Việt Nam
Nằm trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, pháp luật HN&GĐ Việt Nam đã
trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Với mỗi một giai đoạn, các quy định về
tài sản của vợ chồng đặc biệt là các quy định liên quan đến việc xác định tài sản riêng
của vợ, chồng lại có sự thay đổi và ngày càng thích ứng với sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
1.3.1. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến
Trong thời kỳ phong kiến, vấn đề tài sản của vợ chồng ít được nhà làm luật quan
tâm; do đó vấn đề này thường không được quy định thành một chế định riêng rẽ. Bởi lẽ
xã hội thời kỳ này chịu ảnh hưởng nặng nề của hệ tư tưởng Nho giáo, tư tưởng trọng
nam khinh nữ, người phụ nữ phải tam tòng… đã ăn sâu vào trong tiềm thức và đời
sống của mỗi người. Trong gia đình truyền thống, yếu tố tình cảm, lợi ích tinh thần
được coi trọng hơn các yếu tố vật chất. Việc người đàn ông là trụ cột của gia đình,
người phụ nữ khi xuất giá trở thành người của gia đình chồng, sống và phục tùng
những quy củ lễ giáo của gia đình chồng được coi như một lẽ đương nhiên trong cuộc
sống. Bởi thế, người chồng mặc nhiên được coi là chủ gia đình đồng thời là chủ sở hữu
các tài sản trong gia đình và có toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến tài sản
vì lợi ích của gia đình. Hệ thống pháp luật thời kỳ phong kiến ghi nhận chế độ cộng
đồng toàn sản, với nội dung là toàn bộ tài sản mà vợ, chồng có được trước khi kết hôn
và có được trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Mặc dù

trong Quốc Triều hình luật có quy định về các loại tài sản của vợ chồng, bao gồm: Phu
tông điền sản, thê điền sản, tần tảo điền sản nhưng trên thực tế cả ba loại tài sản này
đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng và đặt dưới sự quản lý của người chồng.
Với thực trạng xã hội như thế, pháp luật phong kiến hoàn toàn không dự liệu các quy


21

định về tài sản riêng của vợ, chồng, mọi tài sản đều là của chung và vấn đề xác định tài
sản riêng của vợ, chồng cũng không được đặt ra. Về vấn đề này, Ủy ban tư vấn án lệ
Bắc Việt đã giải đáp như sau:
Nguyên tắc căn bản vẫn còn được áp dụng trong gia đình Việt Nam về chế độ
tài sản giữa vợ chồng là tất cả các của cải của đôi vợ chồng, không phân biệt bản chất
và nguồn gốc, đều để dành cho các con theo câu tục ngữ: cha mẹ làm việc để nuôi con,
cho nên suốt thời kỳ hôn thú, tất cả các của cải là của chung [12]
1.3.2. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật thời Pháp thuộc
Bước sang thời kỳ Pháp thuộc, nước ta bị chia cắt thành ba miền với ba chế độ
chính trị, xã hội khác nhau. Ở mỗi miền lại có một hệ thống pháp luật khác nhau điều
chỉnh về quan hệ HN&GĐ: Ở Bắc Kỳ áp dụng bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931, Trung
Kỳ áp dụng bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936, Nam Kỳ áp dụng Dân luật giản yếu Nam
Kỳ năm 1883.
Đối với tập Dân luật giản yếu Nam Kỳ thì không có quy định nào về chế độ tài
sản của vợ chồng. Do đó, có quan điểm cho rằng tại Nam Kỳ giai đoạn này không tồn
tại chế độ tài sản cộng đồng giữa vợ chồng, “khối cộng đồng tài sản không có trong
luật Việt Nam, theo nguyên tắc người chồng là chúa tể tuyệt đối tất cả các tài sản bất
luận là của ai hoặc ở đâu mang lại” [Tr.140, 9]. Người chồng được coi là chủ thể duy
nhất sở hữu toàn bộ tài sản của gia đình và người vợ không có tài sản riêng. Bên cạnh
đó, quan điểm khác lại khẳng định người vợ có quyền có tài sản riêng bởi theo tục lệ
thì người chồng có quyền quản trị tài sản nhưng không thể sử dụng tài sản ấy nếu vợ
không đồng ý. Vì vậy, ngoài tài sản riêng của người chồng sẽ có khối tài sản chung của

vợ chồng gọi là khối cộng đồng tài sản. Vào thời kỳ đầu, các án lệ ở Nam Kỳ áp dụng
theo hướng người vợ có của riêng và chế độ hôn sản theo tục lệ là chế độ tài sản nhưng
sau đó án lệ lại chuyển sang không công nhận người vợ có tài sản riêng với lập luận
rằng: “nếu công nhận chế độ cộng đồng tài sản tức là đã gán cho người vợ những


22

quyền ngang hàng với quyền của người chồng, trong khi đó trong gia đình, người vợ
chỉ có địa vị của một người con gái” [Tr.43, 12]
Pháp luật Nam Kỳ quy định: tất cả tài sản trong gia đình đều thuộc quyền sở
hữu và quyền quản lý của người chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng như sau khi người
vợ chết. Trong trường hợp người vợ chết thì chồng là chủ sở hữu đối với toàn bộ tài
sản của gia đình do hiệu lực của hôn nhân chứ không phải là hưởng gia tài từ người vợ.
Nhưng nếu người chồng chết trước thì người vợ có quyền hưởng dụng thu lợi trên toàn
bộ tài sản của gia đình khi còn ở góa. Bên cạnh đó, án lệ cũng công nhận người vợ có
tài sản riêng trong một số trường hợp: tài sản là đồ tư trang, tài sản của vợ do gia đình
vợ tặng cho hoặc để lại thừa kế, bất động sản đã ghi rõ tên vợ là chủ sở hữu trong sổ
địa bộ. Như vậy, căn cứ vào các án lệ ở Nam Kỳ thời kỳ này chúng ta đã có cơ sở để
xác định những tài sản nào là tài sản riêng của người vợ.
Pháp luật ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ lại có điểm khác biệt so với pháp luật Nam Kỳ
trong vấn đề xác định tài sản riêng của vợ, chồng. Do chịu ảnh hưởng từ BLDS Pháp
năm 1804 nên trong bộ Dân luật Bắc Kỳ và trong BLDS Trung Kỳ (Hoàng Việt Hộ
luật) đều có quy định về chế độ tài sản ước định và áp dụng nguyên tắc bất di bất dịch
của chế độ tài sản của vợ chồng theo hôn khế. Điều 104 Dân luật Bắc Kỳ quy định:
“Về đường tài sản, pháp luật chỉ can thiệp đến đoàn thể vợ chồng là khi nào vợ chồng
không có tùy ý lập ước riêng với nhau mà thôi, miễn là ước riêng ấy không được trái
với phong tục và không được trái với quyền lợi người chồng là người chủ trương trong
đoàn thể”; “phàm tư ước về tài sản của vợ chồng khi đã làm giá thú thì không được
thay đổi gì nữa” (Điều 105 Dân luật Bắc Kỳ). Khi lập tư ước về tài sản, vợ chồng hoàn

toàn có thể thỏa thuận với nhau về vấn đề tài sản kể cả quyền sở hữu tài sản riêng. Khi
áp dụng tư ước về tài sản, việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng sẽ căn cứ vào các
thỏa thuận của vợ chồng trong tư ước đó. Trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận
lập hôn khế khi kết lập giá thú, luật dự liệu chế độ tài sản pháp định cho họ đó là chế


23

độ cộng đồng toàn sản. Theo đó, Điều 106, 107 Dân luật Bắc Kỳ, Điều 105 Dân luật
Trung Kỳ quy định: “Nếu hai vợ chồng không có tư ước với nhau thì cứ theo lệ hợp
nhất tài sản, nghĩa là bao nhiêu lợi tức tài sản của chồng và của vợ hợp làm một mà
chung nhau”. Theo quy định này thì mặc dù vợ, chồng có thể có tài sản riêng từ trước
khi kết hôn nhưng kể từ khi kết hôn thì các tài sản riêng đó được hợp nhất thành khối
tài sản chung của vợ chồng. Tuy vậy, nếu hôn nhân chấm dứt thì các tài sản riêng ban
đầu của vợ, chồng đã được hợp nhất tạm thời vào khối tài sản chung sẽ được tách ra để
chia theo nguyên tắc tài sản riêng của bên nào thì bên đó lấy lại, tài sản do vợ chồng
tạo ra trong thời kỳ hôn nhân thì được chia đôi cho vợ và chồng. Như vậy, theo chế độ
tài sản pháp định thì trong suốt thời kỳ hôn nhân hoàn toàn không tồn tại vấn đề tài sản
riêng của một bên vợ, chồng; tuy nhiên pháp luật vẫn đảm bảo quyền có tài sản riêng
của vợ, chồng sau khi họ chấm dứt hôn nhân bằng cách lấy lại các tài sản riêng ban
đầu.
1.3.3. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật ở miền Nam nước ta
trước ngày thống nhất đất nước (1954-1975)
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi năm 1954, nước ta vẫn bị chia
cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị xã hội khác nhau. Trong giai đoạn này, ở miền
Nam Việt Nam, chế độ ngụy quyền Sài Gòn đã ban hành ba văn bản pháp luật để điều
chỉnh quan hệ HN&GĐ đó là Luật Gia đình năm 1959, Sắc luật số 15/64, Bộ dân luật
năm 1972. Về cơ bản, cả ba văn bản luật này đều dự liệu về chế độ tài sản ước định,
cho phép vợ chồng ký kết với nhau một hôn ước thỏa thuận về vấn đề tài sản từ trước
khi kết hôn, miễn là sự thỏa thuận đó không trái với trật tự công cộng, thuần phong mỹ

tục và quyền lợi của con (Điều 45 Luật Gia đình, Điều 49 Sắc luật số 15/64, Điều 144,
145 BLDS năm 1972. Theo chế độ tài sản này thì vợ chồng hoàn toàn có quyền thỏa
thuận về vấn đề tài sản trong thời kỳ hôn nhân kể cả về quyền sở hữu tài sản riêng và
xác định tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng.


24

Trong trường hợp vợ chồng không lập hôn ước về vấn đề tài sản, Sắc luật
số15/64 và Bộ dân luật năm 1972 dự liệu chế độ tài sản pháp định áp dụng trong thời
kỳ hôn nhân đó là chế độ cộng đồng động sản và tạo sản (Điều 53 Sắc luật số 15/64,
Điều 150 Bộ dân luật năm 1972). Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản thừa nhận vợ
chồng có tài sản chung và tài sản riêng. Trong đó, tài sản chung của vợ chồng được xác
định dựa trên việc phân định tài sản của vợ chồng là động sản hay bất động sản. Khối
tài sản chung của vợ chồng chỉ bao gồm các động sản của vợ, chồng có trước và trong
thời kỳ hôn nhân, các hoa lợi và các bất động sản mà vợ chồng mua lại bằng tài sản
chung. Bên cạnh khối tài sản chung, Điều 55 Sắc luật số 15/64, Điều 152 Bộ dân luật
năm 1972 đã ghi nhận việc mỗi bên vợ, chồng có một khối tài sản riêng, bao gồm:
-

Những bất động sản thuộc quyền sở hữu riêng của mỗi bên vợ, chồng khi

kết hôn (tức là các bất động sản mà vợ hay chồng đã có từ trước khi kết hôn);
-

Những bất động sản mà mỗi bên vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn

nhân do được tặng cho riêng hoặc được thừa kế riêng.
Như vậy, so với quy định trong Dân luật Bắc Kỳ, Dân luật Trung Kỳ và Luật
Gia đình thì quy định về vấn đề tài sản của vợ chồng trong Sắc luật số 15/64 và Bộ dân

luật năm 1972 có điểm khác biệt rõ rệt đó là: thay vì áp dụng chế độ cộng đồng toàn
sản như trước đây thì hai văn bản này lại ghi nhận chế độ cộng đồng động sản và tạo
sản. Ngoài quy định về khối tài sản chung của vợ chồng thì pháp luật còn ghi nhận vợ,
chồng có quyền có tài sản riêng, tồn tại độc lập với khối tài sản chung của vợ chồng và
quy định căn cứ để xác định tài sản riêng của vợ, chồng. Mặc dù trong giai đoạn này,
tài sản mà mỗi bên vợ, chồng được quyền sở hữu riêng chỉ bao gồm các bất động sản
nhưng việc pháp luật ghi nhận quyền có tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn
nhân đã thể hiện sự tiến bộ trong tư duy lập pháp của nhà làm luật thời đó.


×