Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.26 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HIẾN

HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC NUÔI CON NUÔI –
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ một công
trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Thị Hiến



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

1

Chương 1: Khái quát chung về hậu quả pháp lý của việc nuôi con

7

nuôi
1.1. Một số khái niệm cơ bản

7

1.2. Ý nghĩa về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi

11

1.3. Khái lược pháp luật Việt Nam về hậu quả pháp lý của việc nuôi con

12

nuôi
1.4. Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong pháp luật một số

25

nước trên thế giới
1.5. Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong Công ước quốc tế


28

LaHay (Công ước LaHay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong
lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế)
Chương 2: Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong pháp luật

30

Việt Nam hiện hành
2.1. Quan hệ giữa người nuôi với người được nhận nuôi

30

2.2. Quan hệ giữa người được nhận nuôi và những thành viên khác của

37

gia đình cha mẹ nuôi
2.3. Quan hệ giữa người được nhận nuôi với gia đình cha mẹ đẻ

40

Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp hoàn thiện pháp

49

luật về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi


3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hậu quả pháp lý của việc nuôi con


49

nuôi
3.2. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hậu quả pháp

56

lý của việc nuôi con nuôi
KẾT LUẬN

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

68


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

HN&GĐ

: Hôn nhân và gia đình

UBND

: Ủy ban nhân dân

BLDS


: Bộ luật Dân sự


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tình thế cấp thiết của đề tài
Nuôi con nuôi là một chế định pháp lý nhằm tạo dựng cho những trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tìm được một mái ấm gia đình; đồng thời thiết lập mối
quan hệ cha, mẹ và con lâu dài giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận
làm con nuôi. Ngoài ra, nuôi con nuôi còn là một biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích
tốt nhất của trẻ em, giúp trẻ được sống trong mái ấm gia đình, được quan tâm, nuôi
dưỡng và chăm sóc đầy đủ. Vì vậy, xây dựng hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi
hoàn chỉnh là một yêu cầu hết sức cần thiết.
Luật Nuôi con nuôi năm 2010 được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp
thứ 7 ngày 17 tháng 06 năm 2010 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011 (sau đây gọi tắt là Luật Nuôi con nuôi năm 2010) đã tạo ra khung pháp lý
ổn định, thống nhất trong việc điều chỉnh quan hệ pháp luật về nuôi con nuôi. Đặc
biệt, vấn đề về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi cũng được Luật quy định
tương đối cụ thể, đáp ứng được yêu cầu và thực tiễn của việc nuôi con nuôi đặt ra.
Tuy nhiên, Luật Nuôi con nuôi năm 2010 bên cạnh những điểm tích cực mang lại
vẫn còn có những điểm pháp luật chưa điều chỉnh kịp thời và các quy phạm pháp
luật chưa có sự liên kết với nhau; từ đó, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về hậu
quả pháp lý của việc nuôi con nuôi. Quy định cụ thể, rõ ràng về vấn đề hậu quả
pháp lý của việc nuôi con nuôi sẽ giúp các bên khi xác lập quan hệ nuôi con nuôi có
cách “ứng xử” phù hợp, biết được quyền, nghĩa vụ của mình đến đâu và giúp cho cơ
quan nhà nước có thẩm quyền dễ dàng giải quyết những tranh chấp phát sinh liên
quan đến quan hệ nuôi con nuôi.
Từ những lý do trên nên việc nghiên cứu các quy định về hậu quả pháp lý
của việc nuôi con nuôi trong nước, từ đó rút ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn

thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về vấn đề này là hết sức quan trọng, có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Nhận thức được điều đó, em đã mạnh dạn chọn vấn
đề “Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi – Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.


2

2. Tình hình nghiên cứu
Nuôi con nuôi nói chung và hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi nói riêng
là vấn đề khá nhạy cảm. Nuôi con nuôi đã được nghiên cứu nhiều và có hệ thống,
song vấn đề về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi vẫn chưa có nhiều công trình
nghiên cứu. Có thể chia các công trình nghiên cứu về hậu quả pháp lý của việc nuôi
con nuôi thành ba nhóm lớn sau:
- Nhóm luận văn, luận án: ở nhóm này có thể liệt kê đến một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu như: Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Phương Lan với đề tài “Cơ
sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam”. Với đề
tài này, tác giả đã nghiên cứu các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi trong
nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam; trong đó có
đề cập đến vấn đề về hậu quả pháp lý. Tuy nhiên, do Luật Nuôi con nuôi năm 2010
chưa có hiệu lực nên trong Luận án chỉ nghiên cứu quy định về nuôi con nuôi theo
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Luật HN&GĐ năm 2000) và các văn bản có
liên quan. Khóa luận tốt nghiệp của Kiều Thị Huyền Trang với đề tài: “Một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
nhau ở trong nước”. Ở đề tài này, tác giả chủ yếu đi nghiên cứu về nuôi con nuôi
giữa công dân Việt Nam với nhau ở trong nước để tìm ra giải pháp hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về vấn đề này mà chưa đề cập sâu đến vấn đề về hậu quả pháp lý của
việc nuôi con nuôi. Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Ngọc với đề tài: “Một số
vấn đề về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm
2010”. Với đề tài này, tác giả đã đề cập tới vấn đề hậu quả pháp lý của việc nuôi

con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010, tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu rộng,
bao gồm cả hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài. Do vậy, các đề tài mới chỉ phân tích một cách khái quát các khía
cạnh hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong nước.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra một số vấn đề cơ bản
của pháp luật Việt Nam về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi. Tuy nhiên, hầu
hết các công trình trên đều được nghiên cứu dưới góc độ khác hoặc với phạm vi
rộng lớn nên chỉ mang tính khái quát chưa nghiên cứu chuyên sâu về cả lý luận và
thực tiễn vấn đề này.


3

- Nhóm sách giáo trình, sách bình luận chuyên sâu: trong nhóm này, có
một số giáo trình và bình luận khoa học Luật HN&GĐ năm 2000, Luật Nuôi con
nuôi năm 2010. Hầu hết các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình
luận các quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi, chưa đề
cập hoặc ít đề cập đến thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề trên.
- Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: Các bài nghiên cứu thuộc
nhóm này chủ yếu được đề cập trên các tạp chí như Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, Tạp chí Luật học… Trong đó phải kể đến: bài biết “Hệ
quả pháp lý của nuôi con nuôi” của Thạc sĩ Triệu Thị Thu Thủy đăng trên Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật năm 2011 – số chuyên đề pháp luật về nuôi con nuôi; Bài viết
“Về việc nuôi con nuôi giữa bố dượng hoặc mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng
theo luật nuôi con nuôi” của Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan đăng trên Tạp chí Luật học số
8/2011; Bài viết “Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi
Việt Nam” của Tiễn sĩ Nguyễn Phương Lan đăng trên Tạp chí Luật học số
10/2011…. Phần lớn các bài viết thuộc nhóm này chỉ đề cập tới một số vấn đề cụ
thể của hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi hoặc chỉ đế cập đến vấn đề lý luận
của hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi mà chưa đề cập đến thực tiễn của vấn đề

này.
Tóm lại, cho đến nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một
cách đầy đủ và có hệ thống về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi. Các công
trình nghiên cứu hoặc chủ yếu tập trung vào một mảng cụ thể của quan hệ này hoặc
nghiên cứu vấn đề mang tính lý luận.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là qua quá trình nghiên cứu các quy định
của pháp luật nuôi con nuôi về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi và một vài
trường hợp cụ thể của vấn đề này trong những năm gần đây; luận văn chỉ ra những
điểm còn hạn chế và đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hơn nữa hoạt động của các thiết chế trong việc thi hành pháp luật về hậu quả pháp
lý của việc nuôi con nuôi.


4

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải giải quyết được
những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
như khái niệm nuôi con nuôi; khái niệm hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi; ý
nghĩa của hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi; khái lược pháp luật Việt Nam về
hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi; đồng thời, đi vào nghiên cứu hậu quả pháp
lý của việc nuôi con nuôi trong pháp luật một số nước trên thế giới và hậu quả pháp
lý của việc nuôi con nuôi trong Công ước LaHay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp
tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế (sau đây gọi tắt là Công ước quốc tế
LaHay).
- Phân tích quan hệ giữa người nuôi với người được nhận nuôi; Quan hệ giữa
người được nhận nuôi với những thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi; Quan
hệ giữa người được nhận nuôi với gia đình cha mẹ đẻ.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về hậu quả pháp lý của việc nuôi con

nuôi, đưa ra một số vướng mắc liên quan; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện hơn nữa các quy định về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong
nước theo pháp luật hiện hành.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Là các quy định của pháp luật về hậu
quả pháp lý của việc nuôi con nuôi và thực tiễn áp dụng pháp luật về hậu quả pháp
lý của việc nuôi con nuôi.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề
về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam nhưng không
bao gồm vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp chủ yếu như
phương pháp duy vật biện chứng và lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; phương pháp phân tích luật học; phương


5

pháp phân tích - so sánh; phương pháp tổng hợp, phương pháp trích dẫn, phương
pháp thống kê, phương pháp lịch sử. Trên cơ sở phương pháp phân tích, tổng hợp,
đánh giá về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh về hậu quả pháp lý
của việc nuôi con nuôi, tác giả rút ra những ưu điểm, tồn tại trong việc thi hành
pháp luật, từ đó đề ra các giải pháp cụ thể nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp
luật.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Thứ nhất, luận văn đưa ra được khái niệm về hậu quả pháp lý của việc nuôi
con nuôi trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và ứng dụng khái niệm nuôi con nuôi đã
được pháp luật quy định. Việc đưa ra khái niệm này trong tình hình hiện nay là cần
thiết, góp phần quan trọng vào công tác nghiên cứu và giảng dạy về pháp luật dân
sự nói chung, pháp luật nuôi con nuôi nói riêng.

Thứ hai, luận văn phân tích, đánh giá một cách khoa học những quy định
của Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Ngoài việc nghiên cứu quan hệ giữa người nuôi
với người được nhận nuôi, luận văn còn đi sâu nghiên cứu các quan hệ giữa người
được nhận nuôi với gia đình cha mẹ đẻ và người được nhận nuôi với những thành
viên khác của gia đình cha mẹ nuôi.
Thứ ba, luận văn phát hiện những bất cập của pháp luật về hậu quả pháp lý
của việc nuôi con nuôi.
Thứ tư, luận văn đưa ra các giải pháp phù hợp về hậu quả pháp lý của việc
nuôi con nuôi; cụ thể luận văn đã đề xuất một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Nuôi con nuôi năm 2010 nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của
pháp luật về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi. Mặt khác, luận văn cũng đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế bảo đảm
thực thi về nuôi con nuôi nói chung và hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi nói
riêng.
Ngoài ra, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu
và áp dụng pháp luật về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi.


6

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bảng từ viết tắt
và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
Chương 2: Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong pháp luật Việt
Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về
hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi.



7

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC
NUÔI CON NUÔI
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi
Nuôi con nuôi là một vấn đề mang tính đạo đức xã hội sâu sắc, thể hiện tính
tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau giữa con người với con người, được pháp luật
thừa nhận và điều chỉnh. Quan hệ nuôi con nuôi giữa các chủ thể được xác lập có
thể xuất phát từ nhiều mục đích khác nhau như lợi ích về vật chất, lợi ích về tinh
thần; cụ thể: nhận nuôi con nuôi để có con, để có người chăm sóc, để có người nối
dõi, có người thờ tự, có thêm người lao động hay xuất phát từ lòng nhân ái, sự biết
ơn, sự chia sẻ, lòng cảm phục hay sự hướng thiện của con người…
Cùng với xu thế phát triển chung của xã hội, quyền lợi của trẻ em ngày càng
được Đảng, Nhà nước ta quan tâm và chú trọng nhằm mang đến cho trẻ em những
lợi ích tốt đẹp nhất; đặc biệt là những em nhỏ có hoàn cảnh khó khăn, không nơi
nương tựa – đối tượng cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt nên việc nuôi con nuôi
luôn được khuyến khích và luôn được quan tâm một cách thích đáng.
Việc nuôi con nuôi có thể xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau như dưới
góc độ sinh học, dưới góc độ xã hội và dưới góc độ pháp lý. Trong phạm vi của
luận văn, tác giả đề cập đến nuôi con nuôi dưới hai góc độ đó là góc độ xã hội và
góc độ pháp lý.
- Dưới góc độ xã hội: Xét dưới góc độ này, việc nuôi con nuôi không đặt ra
những điều kiện khắt khe mà chủ yếu nhằm đáp ứng những nhu cầu lợi ích về vật
chất và tinh thần nhất định. Thực tế cho thấy, việc làm hình thành quan hệ cha, mẹ
và con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi trên thực tế không nhất thiết
phải có sự thừa nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Việc nuôi con nuôi trên
thực tế tồn tại nhiều các hiện tượng trong đó có thể kể đến như nuôi con nuôi trên

danh nghĩa, nuôi con nuôi thực tế, nuôi con nuôi theo phong tục tập quán, nuôi con


8

nuôi để lấy phúc và nuôi con nuôi để khuếch trương quyền thế của gia đình… Ví
dụ: Nuôi con nuôi thực tế là hiện tượng nuôi con nuôi trong đó người nhận con nuôi
và người được nhận làm con nuôi đã gắn bó với nhau, thực hiện quyền và nghĩa vụ
của cha, mẹ và con trên thực tế nhưng không đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Nuôi con nuôi trên danh nghĩa là hiện tượng nuôi con nuôi được xác lập do
sự thỏa thuận giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên hoặc giữa cha, mẹ đẻ và
cha, mẹ nuôi của con chưa thành niên trên cơ sở tình cảm, ước nguyện gắn bó giữa
hai gia đình. Những quan hệ nuôi con nuôi hình thành, tồn tại trên thực tế không
phải bao giờ pháp luật cũng công nhận song các hiện tượng đó vẫn tồn tại bởi ngoài
sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật còn có sự điều chỉnh của quy phạm đạo đức,
phong tục tập quán và đạo đức truyền thống.
Như vậy, dưới góc độ này, nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội giữa người
nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi nhằm hình thành quan hệ cha
mẹ và con để thỏa mãn những nhu cầu và lợi ích nhất định của các bên.
- Dưới góc độ pháp lý: Việc nuôi con nuôi phải đáp ứng những điều kiện do
Luật định và về nguyên tắc cần có sự công nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Để xác lập quan hệ nuôi con nuôi trên cơ sở pháp lý, các bên trong quan hệ
này cần đáp ứng những điều kiện nhất định mà pháp luật đưa ra. Ví dụ: Đối với
người nhận nuôi phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi 20 tuổi trở
lên; có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở đảm bảo; có tư cách đạo đức tốt. Còn
đối với người được nhận làm con nuôi thì phải là trẻ em dưới 16 tuổi; trường hợp
người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được nhận làm con nuôi khi cha dượng, mẹ kế
nhận làm con nuôi; được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi… Khi các bên
có nhu cầu muốn nhận con nuôi hay mong muốn làm con nuôi người khác cùng với
việc đáp ứng đủ các điều kiện nhất định, để được pháp luật công nhận thì các bên

cần tiến hành đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Việc nuôi con nuôi
được công nhận sẽ làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi
và người được nhận làm con nuôi. Tùy theo sự thỏa thuận mà quan hệ giữa cha, mẹ
đẻ và người con đã đi làm con nuôi chấm dứt toàn bộ quyền và nghĩa vụ với nhau
hay không. Quy định này nhằm tạo ra khung pháp lý để đảm bảo việc xác lập quan


9

hệ cha, mẹ và con được bền vững, đảm bảo cho con nuôi được sống trong môi
trường tốt nhất.
Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 về giải thích từ ngữ có quy định: “Nuôi
con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa những người nhận con nuôi
và người được nhận làm con nuôi”. Khái niệm này chỉ mới xem xét việc nuôi con
nuôi với tư cách là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con giữa
người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi mà chưa xem xét việc nuôi con
nuôi với tư cách là một nhóm quan hệ xã hội tồn tại giữa các chủ thể có liên quan
đến việc cho và nhận nuôi con nuôi, cũng như liên quan đến quá trình thực hiện việc
nuôi, chấm dứt việc nuôi. Do đó, dưới góc độ về mặt pháp lý, nếu xem xét việc nuôi
con nuôi với tư cách là một quan hệ pháp luật thì nuôi con nuôi là quan hệ giữa các
chủ thể trong việc nuôi con nuôi được các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
1.1.2. Khái niệm hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta thường hay nói và hay nghe đến hai từ
“hậu quả”. Vậy hậu quả được hiểu như thế nào? Về khái niệm này có nhiều quan
điểm khác nhau trong đó có hai quan điểm chính: Quan điểm thứ nhất cho rằng hậu
quả là cái gì đó không hay, không tốt và được hiểu theo nghĩa tiêu cực hay còn gọi
là theo nghĩa hẹp. Theo Từ điển tiếng Việt, “hậu quả là kết quả không hay, có ảnh
hưởng về sau” [50, tr. 536]. Quan điểm thứ hai, khác với quan điểm thứ nhất, quan
điểm này cho rằng hậu quả được hiểu theo nghĩa rộng, có thể bao gồm cả điểm tích

cực và tiêu cực. Theo đó, hậu quả là kết quả sinh ra từ một hành vi và sự kiện nào
đó mà thôi; hiểu theo nghĩa này có thể thấy hậu quả được dùng không khác so với
khái niệm hệ quả. Qua phân tích khái niệm hậu quả ở trên, tác giả đồng ý với quan
điểm thứ hai đó là hiểu khái niệm hậu quả theo nghĩa rộng.
Theo đó, hậu quả pháp lý được hiểu là những vấn đề pháp lý phát sinh từ
những hành vi, sự kiện nào đó và được pháp luật công nhận. Khi xem xét hậu quả
pháp lý cần xem xét đến việc phát sinh hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể hoặc quyền và nghĩa vụ của các bên được phát sinh, thay đổi, chấm dứt, được
chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác như thế nào.


10

Điều 2 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về mục đích của việc nuôi
con nuôi là “nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt
nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình”. Các chủ thể trong việc nhận nuôi
con nuôi phải ý thức được mục đích hợp pháp của việc nhận nuôi con nuôi trước khi
tiến hành các thủ tục pháp lý của việc nuôi con nuôi. Việc nuôi con nuôi sẽ làm phát
sinh những mối quan hệ mới, có thể làm chấm dứt hoặc không làm chấm dứt những
mối quan hệ đang tồn tại. Do đó, việc đưa ra khái niệm toàn diện về hậu quả pháp lý
của việc nuôi con nuôi sẽ xác định chính xác các mối quan hệ do việc nuôi con nuôi
mang lại.
Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ
pháp lý giữa người được nhận làm con nuôi với người nhận nuôi con nuôi, với gia
đình gốc và với các chủ thể khác có liên quan sau khi thủ tục nuôi con nuôi hoàn
tất.
Khi việc nuôi con nuôi đảm bảo đúng mục đích, ý nghĩa xã hội thì sẽ kéo
theo hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi được đảm bảo thực hiện trong thực tế.
Do đó, Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã quy định các hành vi cấm trong việc nuôi

con nuôi (Điều 13) bao gồm:
- Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm phạm
tình dục, bắt cóc, mua bán trẻ em;
- Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi;
- Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi;
- Lợi dụng việc nuôi để vi phạm pháp luật về dân số;
- Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng,
người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của nhà nước;
- Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị em nhận nhau làm con nuôi;
- Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo
đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.


11

Những hành vi này chủ yếu nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
người được nhận nuôi trong mối quan hệ với gia đình cha mẹ nuôi, cũng như đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác có liên quan đến việc nhận nuôi
con nuôi.
Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi được chia thành các nhóm quan hệ
sau:
- Quan hệ giữa người nuôi với người được nhận nuôi;
- Quan hệ giữa người được nhận nuôi với những thành viên khác của gia
đình cha mẹ nuôi;
- Quan hệ giữa người được nhận nuôi với gia đình cha mẹ đẻ.
1.2. Ý NGHĨA VỀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC NUÔI CON NUÔI

Điều 2 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: “Việc nuôi con nuôi nhằm
xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được
nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục

trong môi trường gia đình”. Do đó, hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có ý
nghĩa rất quan trọng.
Trước hết, hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có ý nghĩa cho việc xác
định được quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi. Từ
đó, họ biết được mình được làm gì, phải làm gì và biết được quyền và nghĩa vụ đối
với nhau như thế nào. Khi xác định được hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
còn giúp các chủ thể suy nghĩ cẩn trọng trong việc tham gia vào quan hệ nuôi con
nuôi.
Thứ hai, khi xác định được quyền và nghĩa vụ của mình sẽ giúp các bên thỏa
thuận với nhau, cùng nhau tuân thủ và thực hiện, tránh những tranh chấp có thể xảy
ra như tranh chấp giữa cha mẹ nuôi và cha mẹ đẻ của người con nuôi về quyền và
nghĩa vụ đối với người con đã đi làm con nuôi; tranh chấp giữa chính cha, mẹ nuôi
về việc nhận con nuôi…


12

Thứ ba, hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi tạo ra quy tắc xử sự giữa các
chủ thể; nâng cao trách nhiệm của cha mẹ, đảm bảo quyền và nghĩa vụ cơ bản của
trẻ em.
Thứ tư, hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi là hành lang pháp lý để giải
quyết các tranh chấp có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các chủ thể.
1.3. KHÁI LƯỢC PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC
NUÔI CON NUÔI

1.3.1. Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong pháp luật thời kỳ phong
kiến
Trong thời kỳ phong kiến, mỗi triều đại có những văn bản pháp lý tiêu biểu
khác nhau. Pháp luật triều đại nhà Lê có Bộ Quốc Triều Hình Luật, hay còn gọi là
Bộ Luật Hồng Đức; thời kỳ này nhà Lê còn chú trọng đến việc hệ thống hóa các văn

bản pháp luật theo lĩnh vực và thời gian ban hành như Bộ Thiên Nam Dư Hạ Tập
ban hành vào đời vua Lê Thánh Tông năm 1483, Bộ Hồng Đức Thiện Chính Thư
gồm các luật lệ được ban hành trong khoảng niên hiệu Hồng Đức từ năm 1470 đến
năm 1497… Đối với Pháp luật triều đại nhà Nguyễn sản phẩm lập pháp cao nhất là
Bộ Hoàng Việt Luật Lệ hay còn gọi là Bộ Luật Gia Long. Cả hai triều đại đều quy
định về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi; cụ thể:
* Pháp luật triều đại nhà Lê
Việc nhận con nuôi mang lại những hậu quả pháp lý nhất định. Sau khi khế
ước về nuôi con nuôi được ký kết giữa người đứng nuôi với cha mẹ đẻ và tên của
người con nuôi đã vào sổ hộ tịch của người cha nuôi, thì phát sinh các nghĩa vụ và
quyền lợi giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Tuy không có điều luật nào quy định riêng
biệt về việc con nuôi có nghĩa vụ như con đẻ song qua phân tích các điều luật trong
pháp luật thời kỳ này ta thấy rõ các nghĩa vụ và quyền lợi của con nuôi như con đẻ.
Hay nói cách khác, pháp luật thời kỳ này quy định rất rõ về hậu quả giữa người nuôi
với người được nhận nuôi và giữa người được nhận nuôi với gia đình cha mẹ đẻ.
- Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ nuôi đối với đứa con nuôi:


13

Về nghĩa vụ của cha mẹ nuôi với người con nuôi: cha mẹ nuôi phải giáo dục
con nuôi ân cần, chu đáo, sẽ bị tội nếu con làm điều bội nghịch, sẽ được thưởng
chức phẩm nếu như con cái đỗ to. Đoạn 159, 160 Hồng Đức Thiện Chính Thư viết:
“… làm cha mẹ phải sửa mình để tề gia, khiến cho trong một nhà đều được nhờ
cậy…, phải cấp dưỡng cơm áo không nên vì đứa con buổi sớm dỗi không ăn mà cha
mẹ giẫn dỗi đổ bỏ đi”. Đoạn 34 Hồng Đức Thiện Chính Thư viết: “… làm cha mẹ
có con mà không dạy được thì lỗi ở cha. Con làm điều bội nghịch, thì cha sẽ bị
tội…. Nếu con đỗ to, thì sẽ được thưởng bằng chức phẩm…” và “… làm người con
phải kính nuôi cha mẹ….” (Đoạn 161 Hồng Đức Thiện Chính Thư).
Về quyền của cha mẹ nuôi: Cha mẹ nuôi có quyền bắt người con nuôi phải

vâng lời trung hiếu, phụng dưỡng cha mẹ nuôi như con đẻ. Đoạn 34 Hồng Đức
Thiện Chính Thư viết: “làm con phải trung hiếu theo mệnh cha mẹ…”. Cha mẹ
nuôi còn có quyền từ đứa con nuôi phạm phép và tước bỏ quyền thừa kế của người
con nuôi; Đoạn 506 Quốc Triều Hình Luật quy định: con nuôi hay con kế tự, trái lời
dạy bảo, thất hiếu với cha nuôi, cha kế, cha mẹ riêng của chúng thì chúng cũng mất
những tài sản được chia.
- Nghĩa vụ và quyền của con nuôi đối với cha mẹ nuôi:
Con nuôi có nghĩa vụ vâng lời, hiếu thảo, chăm sóc, phụng dưỡng, nuôi nấng
làm rạng rỡ dòng họ bởi đạo làm con phải biết ơn và kính trọng cha mẹ (Đoạn 457
Quốc Triều Hình Luật). Người con nuôi cũng như con đẻ phải giữ trọn đạo hiếu, tội
bất hiếu được quy định ngay tại Điều 2 của Bộ luật Hồng Đức. Đoạn 146 Hồng Đức
Thiện Chính Thư viết: con nuôi cũng như con đẻ chửi cha mẹ nuôi bị kết tội Giảo.
Tại Điều 110 Hồng Đức Thiện Chính Thư cũng quy định: “Kẻ làm con nuôi nhà
nào, sau khi nuôi nấng, đôi bên đều không có sự ân hận, tự coi mình như con đẻ,
không được trái đạo tự tiện bỏ đi, lấy cớ là có đại tang phải báo hiếu cho cha mẹ
bản sinh của mình. Trái điều này nếu cha mẹ nuôi không có con, mà dưỡng tử bỏ ra
đi thì phải tội đồ hai năm”.
Về quyền lợi của con nuôi: Ngoài quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ,
giáo dục, người con nuôi còn được hưởng quyền thừa kế tài sản, điền sản của gia
đình cha mẹ nuôi (Đoạn 380 Quốc Triều Hình Luật).


14

- Về quan hệ giữa người đã đi làm con nuôi với cha mẹ bản sinh (cha mẹ đẻ)
của họ:
Người đã đi làm con nuôi theo quy định của pháp luật nhà Lê không làm
chấm dứt quan hệ với cha mẹ đẻ. Tại Đoạn 110 Hồng Đức Thiện Chính Thư quy
định: Trường hợp gia đình cha mẹ đẻ (gia đình bản tông) không có người nối dõi
(tuyệt tự) thì người con nuôi (lập tự) ấy mới được trình bày với cha mẹ nuôi, chọn

người khác làm người thừa tự, rồi bản thân người con nuôi mới được về chịu tang
báo hiếu cho cha mẹ sinh ra mình. Trường hợp này người con nuôi nói trên vẫn lui
xuống làm con thứ của cha mẹ nuôi để đền cái công nuôi nấng từ trước. Nếu không
có sự đồng ý của cha mẹ nuôi, mà tự tiện bỏ về nhà mình thì bị khép vào tội bất
hiếu.
Như vậy, quy định về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi ở triều đại nhà
Lê được quy định khá chi tiết. Các quy định dù quá nghiêm khắc, nhất là các quy
định về nghĩa vụ của các con nói chung và con nuôi nói riêng song lại góp phần vào
việc bảo vệ trẻ em cơ nhỡ, không nơi nương tựa. Những trẻ em này được gọi là
“con nuôi từ thời thơ ấu” và được thừa kế tài sản, thậm chí được chọn làm người lập
tự thay con trưởng để nối dõi tông đường.
* Pháp luật triều đại nhà Nguyễn
Với sản phẩm lập pháp cao nhất là Bộ Hoàng Việt Luật Lệ hay còn gọi là Bộ
Luật Gia Long ban hành vào đầu thời Nguyễn gồm 398 điều phân làm 22 quyển thì
vấn đề hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi được quy định như sau:
Cha mẹ nuôi có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục, bảo ban con nuôi cũng như
con đẻ trong khả năng của người cha mẹ nuôi. Đối với con trai nuôi để lập tự, cha
mẹ nuôi có nghĩa vụ di dưỡng, phát triển và bảo tồn di sản của dòng họ (nếu có) để
thừa kế cho con lập tự, làm di sản để người con nối dõi tông đường.
Bộ Luật Gia Long quy định tội “bất hiếu” là tội thứ 7 trong mười tội “thập
ác” ở Điều 2 Bộ Luật Gia Long.


15

Điều 288 Bộ Luật Gia Long có quy định rất rõ ràng về quyền của ông bà cha
mẹ nuôi trong trường hợp con nuôi đánh mắng ông bà cha mẹ: “Phàm nghĩa tử (con
nuôi) dưới 15 tuổi được ơn nuôi dưỡng lâu năm, hay 16 tuổi trở lên, từng được chia
gia sản dựng vợ gả chồng, nếu đối với cha mẹ nuôi và ông bà của cha mẹ nuôi, mà
có sai phạm vào việc đánh mắng, ăn trộm, dọa nạt, lừa đảo, vu khống thì xử phạt

như con cháu”. Quy định này có nghĩa là xác định quyền và nghĩa vụ của người con
nuôi và những thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi như quyền và nghĩa vụ của
con cháu ruột.
Nghĩa vụ của con nuôi: cha mẹ nuôi có quyền đòi hỏi người con nuôi lập tự
hay con nuôi thông thường phải có nghĩa vụ như con đẻ. Con nuôi phải phụng
dưỡng, chăm sóc ông bà, cha mẹ, giữ trọn đạo hiếu, kính cẩn vâng lời, nhất nhất
tuân theo sự dạy bảo, giáo huấn của ông bà, cha mẹ đúng với tôn ti trật tự, giữ gìn
nề nếp gia phong. Ngoài ra, Luật cũng quy định nghĩa vụ để tang ông bà cha mẹ và
các điều cấm trong lúc có tang; không được tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ nếu không được
cha mẹ nuôi đồng ý. Nếu vi phạm phạt 100 trượng, trả về cho mẹ đẻ y cai quản
(Điều 76 Bộ Luật Gia Long).
1.3.2. Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong pháp luật thời kỳ Pháp
thuộc
Dưới thời kỳ pháp thuộc, đất nước ta bị chia làm ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ
và Nam Kỳ. Tương ứng với ba kỳ là 03 Bộ luật áp dụng cho mỗi kỳ: ở Bắc Kỳ có
Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931, ở Trung Kỳ có Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936, ở
Nam Kỳ có Bộ Dân luật Giản Yếu Nam Kỳ năm 1883.
* Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936
Cả hai bộ Dân luật đều quy định về việc nuôi con nuôi: Bộ Dân luật Bắc Kỳ
năm 1931 quy định từ Điều 185 đến 208, Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936 quy định
từ Điều 183 đến Điều 203. Trong đó, vấn đề hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
được hai Bộ Dân Luật quy định như sau:
- Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi:


16

Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936 đã có
những điều khoản quy định về nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái nói chung và
con nuôi nói riêng rất tiến bộ. Điều 193 Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Điều 192

Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936 nói rõ: “cha mẹ nuôi phải đối đãi con nuôi cũng
như con đẻ”. Luật cũng quy định người con nuôi không phải phụng dưỡng (cấp
dưỡng) đối với họ hàng tổ tiên của cha mẹ nuôi, trừ trường hợp người đứng nuôi
không phải là người thừa tự mà lập con nuôi làm thừa tự riêng cho mình (Điều 192
Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Điều 191 Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936).
Nghĩa vụ như con đẻ được Điều 207 Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Điều
207 Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936 quy định như sau: làm con suốt đời phải hiếu
thuận cung kính, làm vinh dự cho cha mẹ ông bà, lại phải cấp dưỡng cho cha mẹ
ông bà. Đạo hiếu cấm con cháu không được phép thưa kiện, tố cáo cha mẹ ông bà
tại tòa án. Khi cha mẹ còn sống thì con phải thuộc quyền cha, không được có tài sản
riêng trừ khi đã thành niên được phép ra ở riêng hoặc đã thoát phụ quyền lập gia
đình riêng.
Về quyền thừa kế tài sản của người con nuôi Điều 196 Bộ Dân luật Bắc Kỳ
năm 1931 và Điều 195 Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936 quy định: Đứa con nuôi
không có quyền thừa kế trong di sản của cha mẹ nuôi trừ trường hợp được lập tự.
Tuy nhiên, nếu có chúc thư hay phân thư (chứng thư để chia tài sản cho các con
cháu) chia cho mỗi đứa con nuôi một phần di sản; ngoài ra, đứa con nuôi không
được hưởng quyền lợi gì đối với gia sản thừa kế của cha mẹ người đứng nuôi. Bên
cạnh đó, Điều 201 Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931 và Điều 200 Bộ Dân luật Trung
kỳ năm 1936 quy định rõ việc đứa con nuôi đã được lập làm thờ tự: Nếu gia đình
cha mẹ nuôi lại sinh con trai, thì con nuôi không được thừa tự nữa nhưng khế ước
con nuôi vẫn không bị tiêu hủy, đứa con nuôi vẫn được nhận một phần di sản của
cha mẹ nuôi như con đẻ và được tùy ý sử dụng phần thừa kế của mình đã được chia.
Nếu người đứng nuôi để người con nuôi phải thiếu thốn hoặc đối đãi tàn nhẫn thì
tòa án đệ nhị cấp có thể tự mình hoặc do yêu cầu của thân thuộc trong gia đình
huyết thống người con nuôi mà tuyên án hủy bỏ việc nuôi con nuôi.


17


Điều 218 Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Điều 214 Bộ Dân luật Trung Kỳ
năm 1936 có quy định những nghĩa vụ rất tiến bộ mà pháp luật về nuôi con nuôi của
Triều đại nhà Lê và nhà Nguyễn chưa hề đề cập đến. Đó là cha mẹ có nghĩa vụ bảo
dưỡng, giáo huấn con vị thành niên cùng với việc giáo huấn hạnh kiểm, khuyên bảo
điều hay lẽ phải và đặc biệt là tùy vào lực mình và tư chất của đứa con để dạy học
cho nó hoặc cho nó đi học. Ngoài ra, Điều 214 Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936
còn quy định cha mẹ phải trách nhiệm bồi thường về những hành vi của con vị
thành niên theo pháp luật.
Bên cạnh nghĩa vụ phải thực hiện, cha mẹ nuôi có các quyền như quyền
“trừng giới” đối với con nuôi cũng như con đẻ được thực hiện trong giới hạn cần
thiết để thi hành quyền gia trưởng. Quyền “trừng giới” thể hiện ở quyền cha xin
được tống giam con vì bất bình về đạo đức tư cách của con. Điều 195 Bộ Dân luật
Bắc Kỳ năm 1931 và Điều 194 Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936 còn quy định: Nếu
đứa con có hạnh kiểm đạo đức không tốt và không thể sửa đổi được hoặc trốn khỏi
nhà thì cha mẹ nuôi có quyền đuổi về nhà cha mẹ đẻ nếu có; việc đuổi này người
đứng nuôi phải khai trước mặt hai người làm chứng và Lý trưởng tại nơi trú quán
người đứng nuôi. Một quyền nữa của cha mẹ nuôi đối với con nuôi là có quyền truất
quyền thừa kế di sản và thân thuộc người đứng nuôi có thể bắt phải hoàn trả tài sản
về phần phụng tự cùng phần gia sản được chia (Điều 200 Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm
1931 và Điều 199 Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936).
Như vậy, ở cả hai Bộ Dân luật đều quy định về hậu quả pháp lý của việc
nuôi con nuôi lập tự và nuôi con nuôi thông thường (hay còn gọi là nuôi con nuôi
nuôi dưỡng). Về cơ bản cả hai hình thức nuôi con nuôi đều xác lập quan hệ nuôi
con nuôi giữa người con nuôi với người đứng nuôi cùng gia đình người đứng nuôi
và có những quyền và nghĩa vụ nhất định với nhau. Tuy nhiên, khác với hình thức
nuôi con nuôi nuôi dưỡng, nuôi con nuôi lập tự ngoài việc thực hiện bổn phận làm
con thì người con đó còn được hưởng thừa kế của cha mẹ nuôi và sẽ phải phụng
dưỡng (cấp dưỡng) đối với họ hàng tổ tiên của cha mẹ nuôi. Nuôi con nuôi lập tự là
để nối dõi tông đường, được hưởng hương hỏa và chăm lo việc thờ cúng tổ tiên khi
cha mẹ nuôi qua đời. Quy định này mang nặng tư tưởng Nho giáo nhằm bảo đảm



18

quyền lợi của gia đình cha mẹ nuôi trên cơ sở tôn trọng quyền lợi của người con
được lập tự.
- Quan hệ giữa con nuôi với gia đình cha mẹ đẻ:
Dù đã đi làm con nuôi nhưng giữa người con đã đi làm con nuôi và cha mẹ
đẻ vẫn có quan hệ nhất định. Ở cả hai bộ Dân luật đều quy định: trường hợp người
con nuôi vẫn giữ nguyên quyền lợi thừa kế gia sản của cha mẹ đẻ, người con nuôi
vẫn phải có nhiệm vụ với cha mẹ đẻ như không đi làm con nuôi (Điều 197, 198 Bộ
Dân luật Bắc Kỳ năm 1931; Điều 196, 197 Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936).
* Bộ Dân luật Giản yếu Nam Kỳ năm 1883
Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong pháp luật Nam Kỳ quy định
chia thành hai vấn đề tại Tiết VIII đó là con nuôi lập tự và con nuôi thông thường.
Đối với con nuôi lập tự: Đứa con lập tự phải là con trai và cùng họ với người
đứng nuôi. Đứa con lập tự khi được nhận vào làm con trong gia đình cha mẹ nuôi
thì phải từ bỏ vĩnh viễn gia đình huyết thống cũng như không còn quyền thừa kế tài
sản trong gia đình cha mẹ đẻ. Nó không được phép rời gia đình cha mẹ nuôi trừ
trường hợp cha mẹ nuôi sinh được con nối dõi và cha mẹ đẻ không có đứa con trai
nào khác để nối dõi tông đường. Trường hợp này đứa con nuôi mất tất cả quyền lợi
trong gia đình cha mẹ nuôi và được hưởng tất cả các quyền lợi trong gia đình huyết
thống.
Đối với con nuôi thông thường thì vẫn được giữ nguyên họ của nó cũng như
quyền lợi của nó trong gia đình cha mẹ đẻ. Tuy nhiên, có trường hợp ngoại lệ là nếu
đứa con nuôi nhận nuôi từ thủa ấu thơ (dưới 3 tuổi bị bỏ rơi) nó sẽ gia nhập vào gia
đình người đứng nuôi và nó mang họ của người này.
Tóm lại, pháp luật quy định về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong
thời kỳ này đã thể hiện sự tôn trọng quyền con người đối với trẻ em nói chung và
trẻ em được nhận làm con nuôi nói riêng; đặc biệt quy định trong Bộ Dân luật Bắc

Kỳ năm 1931 và Bộ Dân luật Nam Kỳ năm 1883 phù hợp với tục lệ và truyền thống


19

gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều quy định về nghĩa vụ của con cái còn rất khắt
khe do vẫn mang nặng tư tưởng phong kiến, đề cao Nho giáo.
1.3.3. Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong pháp luật giai đoạn từ năm
1945 đến nay
1.3.3.1. Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong pháp luật giai đoạn từ năm
1945 đến năm 1954
Cách mạng tháng Tám thành công đã giải phóng dân tộc Việt Nam ra khỏi
ách thống trị hết sức hà khắc và đối xử thậm tệ của chế độ thực dân phong kiến, mở
ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử hôn nhân và gia đình Việt Nam. Nhiệm vụ của
toàn dân tộc ta trong giai đoạn này là giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia
trên nền tảng dân chủ. Năm 1946, Nhà nước ta đã thông qua Hiến pháp trên tinh
thần “bảo hộ hôn nhân và gia đình” (Điều 24). Đây là quy định mang tính cơ sở, là
sự quan tâm đặc biệt đối với phụ nữ, trẻ em và gia đình. Nó thể hiện chủ trương giải
phóng con người mà trước hết là phụ nữ và trẻ em khỏi áp bức bóc lột, thực hiện
nam, nữ bình đẳng trong gia đình và ngoài xã hội. Những quy định về bảo vệ trẻ em
và nuôi con nuôi mang tính khai phá, là các quy định cơ sở.
Trước sự phát triển nhanh chóng của xã hội, Nhà nước ta ban hành hai sắc
lệnh đầu tiên về dân luật và hôn nhân và gia đình. Đó là Sắc lệnh số 97/SL ngày 22
tháng 5 năm 1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật cũ; Sắc lệnh số
159/SL ngày 17 tháng 11 năm 1950 quy định những trường hợp được ly hôn, thủ
tục ly hôn và hiệu lực của việc ly hôn. Hai sắc lệnh này được ban hành nhằm xóa bỏ
chế độ hôn nhân và gia đình lạc hậu nhằm xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình
tiến bộ, góp phần thúc đẩy sự phát triển văn minh tiến bộ của xã hội trong thời kỳ
cách mạng dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, sắc lệnh thiếu chế định về nuôi con nuôi
nói chung và hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi nói riêng nên trong giai đoạn

này chế định nuôi con nuôi được áp dụng theo quy định của luật cũ. Do đó, thời kỳ
này vấn đề hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi cũng chưa có quy định cụ thể.


20

1.3.3.2. Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong pháp luật giai đoạn từ năm
1954 đến năm 1975
* Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 1959:
Luật HN&GĐ năm 1959 (Luật số 13) được Quốc hội thông qua ngày 29
tháng 12 năm 1959 và được công bố ngày 13 tháng 01 năm 1960. Luật gồm có 35
điều, 6 chương quy định những vấn đề như nguyên tắc chung; kết hôn; nghĩa vụ và
quyền lợi của vợ chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; ly hôn.
Trong Luật này có đưa ra những quy định ngăn cản sự phân biệt đối xử giữa
các con, bảo vệ quyền lợi chính đáng của con ngoài giá thú, con riêng và con nuôi.
Điều 24 trong Luật quy định trực tiếp về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
như sau: “Con nuôi có quyền lợi và nghĩa vụ như con đẻ”. Quy định này có nghĩa là
mọi quyền lợi và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi tuân theo quy định ở các
điều từ Điều 17 đến Điều 20 của Luật này. Điều 17 quy định: “Cha mẹ có nghĩa vụ
yêu thương, nuôi nấng, giáo dục con cái. Con cái có nghĩa vụ kính yêu, săn sóc,
nuôi dưỡng cha mẹ”. Điều 18 quy định: “Cha mẹ không được hành hạ con cái,
không được đối xử tàn tệ với con dâu, con nuôi, con riêng….”. “Con trai và con gái
có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong gia đình” (Điều 19). Tuy nhiên, Luật lại
không quy định cụ thể việc khi được nhận làm con nuôi thì mối quan hệ giữa người
đã đi làm con nuôi và cha mẹ đẻ giữ nguyên hay chấm dứt.
* Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi dưới chế độ cũ ở Miền Nam Việt
Nam:
Trong giai đoạn này, Việt Nam ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai
chế độ chính trị khác nhau nên vấn đề hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi ở

miền Nam chịu sự điều chỉnh trong các văn bản pháp luật của Chính quyền Sài
Gòn. Cụ thể: Luật Gia đình ngày 02 tháng 01 năm 1959; Sắc luật 15/64 ngày 23
tháng 07 năm 1964; Bộ Dân luật năm 1972. Cả ba văn bản pháp luật này có nhiều
nét tương đồng trong việc quy định về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
(trong văn bản pháp luật thời kỳ này dùng cụm từ “hiệu lực của sự lập nuôi con
nuôi”, ngoài ra việc nuôi con nuôi gọi là “sự nghĩa dưỡng”) [28, tr. 192] bao gồm:


×