Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Phòng ngừa các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

PHÒNG NGỪA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TUÝ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH

Chuyên ngành: Tội phạm học và điều tra tội phạm
Mã số: 60.38.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:TS. NGUYỄN TUYẾT MAI

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong Luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được
ai công bố trong bất kì công trình khoa học nào khác.
Tác giả

Nguyễn Thị Phượng


Lời cảm ơn


Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực tiễn,
được sự hướng dẫn, giảng dạy của Quý thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ của cơ
quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành Luận
văn Thạc sỹ Luật học. Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng quý thầy cô Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình
giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian
học tập tại trường
Cảm ơn Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Ninh, Công an tỉnh Quảng Ninh đã giúp đỡ rất nhiều để tôi hoàn thành
luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lòng biết ơn sâu sắc đến TS.Nguyễn Tuyết Mai đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian học tập.
Tác giả luận văn


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TAND: Toà án nhân dân




1

Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Ninh là tỉnh nằmở vùng Đông Bắc Việt Nam với diện tích 8.239
km2, dân số khoảng trên 1 triệu người. Mảnh đất biên cương này đã được xác

định có vị trí đắc địa về kinh tế - chính trị với đường biên giới dài 132km với
Trung Quốc, cùng những điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển kinh tế. Quảng
Ninh được biết đến là vùng “vàng đen” của tổ quốc bởi đây là nơi khai thác than
sản lượng lớn nhất cả nước.Ngoài ra, tỉnh còn có tiềm năng và hiện đang phát
triển về các ngành công nghiệp nhiệt điện, vật liệu xây dựng, công nghiệp đóng
tầu. Quảng Ninh cũng đồng thời phát triển về du lịch nhờ có vịnh Hạ Long – hai
lần được tôn vinh bởi UNESSCO, hàng năm thu hút hàng triệu lượt khách du lịch
trong nước và quốc tế. Với những lợi thế có được từ vị trí địa lý, tài nguyên thiên
nhiên sẵn có, cùng sự nỗ lực của chính quyền và nhân dân địa phương, Quảng
Ninh từ một tỉnh chủ yếu phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, nay đã có sự tăng
trưởng kinh tế vững mạnh, đóng góp vào sự phát triển của đất nước, là một trọng
điểm của vành đai kinh tế Bắc Bộ.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, Quảng Ninh cũng phải đối mặt với
những khó khăn, thử thách không nhỏ.Đó là kinh tế phát triển chưa bền vững, dân
số tăng nhanh, lượng người từ nhiều nơi đổ về tìm việc đông nhưng tập trung chủ
yếu ở thành thị nên việc giải quyết việc làm cho người trong độ tuổi lao động
chưa được đảm bảo, phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng.Các tệ nạn xã hội như
cờ bạc, ngiện hút, mại dâm chưa được đẩy lùi. Một trong những khó khăn lớn mà
tỉnh phải đối mặt là tình hình tội phạm có xu hướng gia tăng mặc dù các cơ quan
chức năng đã có nhiều cố gắng trong lĩnh vực phòng ngừa tội phạm. Cùng với
tình hình tội phạm nói chung, tình hình các tội về ma tuý cũng có sự gia tăng và
ngày càng nghiêm trọng. Thời gian qua, nhóm các tội phạm về ma tuý luôn ở
trong ba nhóm tội phổ biến nhất tại Quảng Ninh. Không những thế, số người
nghiện ma tuý trên địa bàn tỉnh luôn ở mức cao, Quảng Ninh lại có vị trí thuận lợi
để làm điểm trung chuyển ma tuý nên tình hình các tội về ma tuý lại càng diễn


2
biến phức tạp. Người phạm tội sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, đồng
thời cũng rất manh động, sẵn sàng sử dụng vũ khí nóng, chống trả quyết liệt khi bị

phát hiện. Có thể nói các tội phạm về ma tuý đã và đang gây ra những hậu quả
khôn lường về kinh tế, xã hội, an ninh trật tự tại Quảng Ninh.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về tình hình các
phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, từ đó tìm ra nguyên nhân của tội
phạm, đề ra các giải pháp có cơ sở khoa học nhằm nâng cao công tác phòng
ngừa nhóm tội phạm này đạt hiệu quả cao là một yêu cầu bức thiết. Vì lý do đó,
tác giả đã chọn đề tài: “ Phòng ngừa các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, có khá nhiều công trình nghiên cứu về các tội
phạm về ma tuý dưới góc độ tội phạm học, trong đó phải kể đến một số công
trình sau:
- Luận án tiến sỹ Luật học: “Đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma
tuý ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tuyết Mai, Đại học luật Hà Nội, năm
2007.Đây là một công trình nghiên cứu sâu rộng, chi tiết, rất có ý nghĩa về các
tội phạm ma tuý dưới góc độ tội phạm học.
- Luận văn thạc sỹ Luật học: “ Đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma
tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” của tác giả Phạm Tiến Quang, Đại học Luật
Hà Nội, năm 2006.
- Luận văn thạc sỹ Luật học: “ Phòng ngừa các tội phạm về ma tuý trên
địa bàn tỉnh Sơn La” của tác giả Cầm Xuân Thuỷ, Đại học Luật Hà Nội, năm
2011.
- Luận văn thạc sỹ Luật học: “ Phòng ngừa các tội phạm về ma tuý trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Nguyễn Thái Bình, Đại học Luật Hà Nội,
năm 2012.
Trong các công trình trên, các tác giả đã nghiên cứu tình hình, tìm ra
nguyên nhân và đưa ra các giải pháp phòng ngừa các tội phạm về ma tuý trên


3

địa bàn toàn quốc, trên một số địa phương nhất định như Sơn La, Thái Nguyên.
Quảng Ninh là một tỉnh có những đặc điểm đặc thù về kinh tế, xã hội, địa lý so
với các địa phương khác trên cả nước, do đó tình hình các tội phạm về ma tuý
cũng có những đặc điểm khác biệt. Công trình nghiên cứu của tác giả Phạm Tiến
Quang cũng đã nghiên cứu về các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh, nhưng trong giai đoạn 2000 – 2005, cách nay đã gần chục năm, trong khi
tội phạm về ma tuý ở Quảng Ninh những năm qua vẫn không ngừng gia tăng và
có những diễn biến mới. Vì vậy, việc nghiên cứu tình hình các tội phạm về ma
tuý trong giai đoạn 2008 – 2012, xác định nguyên nhân của tội phạm và đưa ra
các giải pháp phòng ngừa các tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là việc
làm mang tính cấp bách, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vinghiên cứu
a) Về đối tượng nghiên cứu: với đề tài trên thì đối tượng nghiên cứu gồm
có tình hình các tội phạm về ma tuý; nguyên nhân của các tội phạm về ma tuý;
và các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa các tội phạm về ma tuý.
b) Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ Tội phạm
học về các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2008 đến
năm 2012.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
a) Mục đích nghiên cứu: Mục đích cuối cùng của Luận văn là đề xuất các
biện pháp phù hợp với đặc thù riêng của tỉnh Quảng Ninh để nâng cao hiệu quả
hiệu quả phòng ngừa các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong
thời gian tới.
b) Nhiệm vụ của việc nghiên cứu:để đạt được mục đích nói trên, luận văn
có những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Đánh giá tình hình các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
trong thời gian từ năm 2008 đến năm 2012.
- Làm sáng tỏ nguyên nhân của các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh.



4
- Dự báo tình hình các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
trong thời gian tới.
- Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa các
tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu của Tội phạm
học, đó là các phương pháp tiếp cận định lượng, phương pháp chọn mẫu ngẫu
nhiên đơn giản, phương pháp phân tích thứ cấp dữ liệu, phương pháp thống kê,
chứng minh giả thuyết. Ngoài ra, luận văn còn kết hợp sử dụng các phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Dưới góc độ tội phạm học, luận văn sẽ đi sâu phân tích tình hình các tội
phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian từ năm 2008 đến
năm 2012.Trong phần này, tác giả đã nghiên cứu thực trạng, diễn biến của tội
phạm xét cả về mức độ và tính chất.Đặc biệt, ngoài nghiên cứu sự thay đổi của
tội phạm về mức độ, tác giả còn đánh giá sự thay đổi của tội phạm xét về tính
chất để có những đánh giá toàn diện về diễn biến của các tội phạm về ma tuý.Từ
đó, tác giả tìm ra được một số nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm này và
đề xuất được các biện pháp phòng ngừa phù hợp với đặc điểm riêng biệt và yêu
cầu phòng ngừa của địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm hai chương:
Chương I: Tình hình các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
từ năm 2008 đến năm 2012
Chương II: Nguyên nhân và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
phòng ngừa các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh



5

Chương I
Tình hình các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh từ năm 2008 đến năm 2012
“Tình hình tội phạm là thực trạng và diễn biến của tội phạm đã xảy ra
trong đơn vị không gian và thời gian nhất định”[1,Tr100]. Như vậy, nghiên cứu
tình hình các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cần làm rõ thực
trạng và diễn biến các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong
khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2012.Trong đó, tác giả sử dụng những
số liệu thống kê chính thức của Toà ánnhân dân (TAND) tỉnh Quảng
Ninh.Ngoài ra, tác giả còn sử dụng số liệu thống kê, khảo sát từ 146 bản án hình
sự sơ thẩm xét xử về các tội phạm về ma tuý trong giai đoạn nghiên cứu, được
lựa chọn ngẫu nhiên từ Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
1. Thực trạng của các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh từ năm 2008 đến năm 2012
1.1. Thực trạng của các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh từ năm 2008 đến năm 2012: xét về mức độ
* Tội phạm rõ:
Theo số liệu thống kê của TAND tỉnh Quảng Ninh, trong 5 năm (từ năm
2008 đến năm 2012), TAND các cấp trên địa bàn tỉnh đã xét xử sơ thẩm 2177
vụ, với 2767 bị cáo phạm các tội về ma tuý. Trung bình mỗi năm trên địa bàn
tỉnh xét xử 435 vụ, với 535 bị cáo phạm tội về ma tuý.Số vụ và số bị cáo bị xét
xử sơ thẩm về tội phạm ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từng năm trong
giai đoạn nghiên cứu được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây.


6
Bảng số 1: Số vụ và số bị cáo đã bị xét xử sơ thẩm về các tội phạm về ma tuý

trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (2008 – 2012)

Năm

Số vụ

Số bị cáo

2008

374

506

2009

423

535

2010

354

449

2011

524


636

2012

502

641

Tổng

2177

2767

Số trung bình/năm

435.4

535.4

( Nguồn:Phòng thống kê TAND tỉnh Quảng Ninh )
Biểu đồ 1:Số vụ và số bị cáo đã bị xét xử sơ thẩm về các tội phạm về ma tuý
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (2008 – 2012)

600

535

506


500
400

641

636

700
524

423
374

502

449
354

Số vụ
Số bị cáo

300
200
100
0
2008

2009

2010


2011

2012

Mức độ các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cũng được cụ
thể hoá qua các số liệu thống kê về số vụ và số bị cáo phạm tội về ma tuý do
từng đơn vị Toà án trên địa bàn xét xử trong giai đoạn nghiên cứu (bảng số 2).


7
Nhìn chung, các tội phạm về ma tuý diễn ra trên mọi huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh, trong đó nhiều nhất tại các thành phố Móng Cái (416 vụ/506 bị
cáo), Hạ Long (411 vụ/492 bị cáo), Cẩm Phả, Uông Bí, sau đó là các huyện, thị
xã Quảng Yên, Đông Triều, Hoành Bồ, tại các địa bàn miền núi và nông thôn
như Hải Hà, Đầm Hà, Tiên Yên…Riêng huyện Cô Tô, do một số đặc thù như là
huyện đảo nên cách xa đất liền, đi lại khó khăn, số dân ít, chủ yếu là người đi
biển và làm nông nghiệp nên hầu như không có các tội phạm ma tuý.
Bảng số 2: Số vụ, số bị cáo đã xét xử sơ thẩm về các tội phạm về ma tuý trên
các địa bàn xét xử thuộc tỉnh Quảng Ninh (2008-2012)

Toà án

Số vụ

Số bị cáo

Cấp tỉnh
TP.Móng Cái
TP.Hạ Long

TP.Cẩm Phả
TP.Uông Bí
H.Hoành Bồ
H. Đông Triều
H.Vân Đồn
TX.Quảng Yên
H.Tiên Yên
H.Đầm Hà
H.Hải Hà
H.Bình Liêu
H.Ba Chẽ
H.Cô Tô
Tổng số

371
416
411
385
323
87
80
31
29
12
9
9
7
5
2
2177


610
506
492
458
383
101
91
45
32
13
11
9
9
5
2
2767

(Nguồn: Phòng thống kê TAND tỉnh Quảng Ninh)

Trong số các tội phạm về ma tuý chỉ có sáu tội danh đã được xét xử trên
thực tế (bảng số 3).Trong đó, Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma tuý chiếm nhiều nhất về số vụ, số bị cáo (điều 194), với
2130/2177 số vụ và 2683/2767 số bị cáo. Điều này cho thấy mức độ và tính chất
của các tội phạm về ma tuý ở Quảng Ninh được thể hiện chủ yếu qua các Tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý.


8
Bảng số 3: Các tội phạm cụ thể trong nhóm các tội phạm về ma tuý trên địa

bàn tỉnh Quảng Ninh (2008 – 2012)

Tội phạm cụ thể
Tội sản xuất trái phép chất ma tuý
Tội TT, VC, MB trái phép hoặc CĐ chất ma tuý
Tội TT,VC, MB, CĐ tiền chất…
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý
Tội chứa chấp sử dụng trái phép chất MT
Tội sử dụng trái phép chất MT
Tổng số

Số vụ
01
2130
01
40
01
04
2177

Số bị cáo
02
2682
01
76
01
05
2767

(Nguồn: Phòng thống kê TAND tỉnh Quảng Ninh)


Những con số trên phần nào đã khái quát được thực trạng về mức độ các tội
phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2008 – 2012. Tuy nhiên,
để đánh giá chính xác và đầy đủ thực trạng về mức độ các tội phạm về ma túy
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, tác giả đặt những số liệu trên trong sự phân tích,
so sánh với những số liệu có liên quan.
Thứ nhất, so sánh giữa các tội phạm về ma tuý với tội phạm nói chung trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh (2008-2012).
Trong 5 năm từ năm 2008 đến năm 2012, TAND các cấp trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh đã xét xử 7134 vụ, với 12215 bị cáo, trong đó cótới 2177 vụ, với
2767 bị cáo phạm tội về ma tuý. Như vậy, trung bình trong giai đoạn nghiên cứu
số vụ các tội phạm về ma tuý chiếm 30.5%; số bị cáo bị xét xử về các tội phạm
về ma tuý chiếm 20.4% tổng số tội phạm nói chung.Tỷ lệ số vụ, số bị cáo đã bị
xét xử sơ thẩm về các tội phạm về ma tuý qua từng năm cũng luôn ở mức cao
trong tổng số tội phạm đã bị xét xử sơ thẩm (Bảng số 4).Điều này cho thấy mức
độ phổ biến của các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.


9
Bảng số 4: Số vụ và số bị cáo các tội phạm ma tuý và tội phạm nói chung đã
bị xét xử sơ thẩmtrên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (2008 – 2012)
Số vụ
Số bị cáo
Tội phạm
Tội phạm
Tội phạm Tội phạm
Năm
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
ma tuý

nói chung
ma tuý
nói chung
(1) / (2)
(3) / (4)
(1)

(2)

(3)

(4)

2008

374

1437

26.0%

506

2593

19.5%

2009

423


1460

29.0%

535

2661

20.1%

2010

354

1322

26.8%

449

2138

21.0%

2011

524

1422


36.8%

636

2327

27.3%

2012

502

1493

33.6%

641

2496

25.7%

Tổng

2177

7134

30.5%


2767

12215

22.7%

Số TB

435.4

1426.8

30.5%

553.4

2443

22.7%

( Nguồn:Phòng thống kê TAND tỉnh Quảng Ninh )
Biểu đồ 2:Số vụ, số bị cáo các tội phạm về ma tuý và các tội phạm nói chung
đã bị xét xử sơ thẩmở Quảng Ninh ( 2008 - 2012)
2443
2500
2000
1426.8
1500


Tội phạm ma tuý
Tội phạm nói chung

1000
435.4

535.4

500
0
số vụ

số bị cáo

Thứ hai, so sánh với một số nhóm tội phổ biến khác đã được xét xử sơ
thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong cùng thời gian nghiên cứu để thấy rõ
hơn mức độ phổ biến của các tội phạm về ma tuý.
Ngoài các tội phạm về ma tuý, các tội phạm thuộc nhóm xâm phạm sở hữu
và nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người


10
cũng là những nhóm tội phổ biến, diễn ra nhiều. Vì vậy, đặt trong sự so sánh với
hai nhóm tội này sẽ phần nào làm rõ mức độ phổ biến của các tội phạm về ma
tuý.Số liệu về số vụ, số bị cáo về các tội phạm ma tuý và nhóm các tội phạm
xâm phạm sở hữu; nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm,
danh dự con người đã xét xử sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được thể
hiện cụ thể qua bảng số 5.
Bảng số 5:Số vụ và số bị cáo các tội phạm ma tuý, các tội phạm xâm phạm sở
hữu và các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người đã

xét xử sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (2008 – 2012)

Số vụ

Năm
TP MT

Số bị cáo

XPSH Xâm phạm

TM,SK,NP,DD

TPMT

XPSH

Xâm phạm
TM,SK,NP,DD

2008

374

514

194

506


917

317

2009

423

471

201

535

815

335

2010

354

444

197

449

742


374

2011

524

450

160

636

876

258

2012

502

497

191

641

977

291


Tổng
TB

2177
435.4

2376
475.2

943
188.6

2767
553.4

4327
865.4

1575
315

(Nguồn: Phòng thống kê TAND tỉnh Quảng Ninh)

Qua bảng số liệu trên có thể thấy trong ba nhóm tội phổ biến trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh, các tội phạm về ma tuý chỉ đứng sau các tội phạm xâm phạm
sở hữu, và chiếm tỷ lệ cao hơn so với các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự con người, và ít hơn. Thậm chí trong các năm 2011, 2012,
số vụ đã xét xử sơ thẩm về các tội phạm về ma tuý còn cao hơn số vụ các tội
phạm thuộc nhóm xâm phạm sở hữu (524 vụ/450 vụ và 502/497).



11
Biểu đồ3:Số vụ, số bị cáo các tội phạm ma tuý, các tội xâm phạm sở hữu và
các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người đã xét xử
sở thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (2008 – 2012)
865.4

900
800
700

553.4

600

475.2

435.4

500

Số vụ
315

400
300

Số bị cáo

188.6


200
100
0
Tội phạm ma tuý

Xâm phạm sở hữu

Xâm phạm
TM,SK,DD,NP

Thứ ba, so sánh số vụ và số người phạm tội về ma tuý với tổng số dân cư
để thấy được mức độ phổ biến trong dân cư của tội phạm ma tuý ở Quảng Ninh.
Qua đó có bảng số liệu về chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội về ma tuý
(tính trên 100.000 dân) trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2008 –
2012 như sau:
Bảng số6: Chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội về ma tuý trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh (2008 – 2012)

Năm

Dân số

Số vụ

Chỉ số TP

Số bị cáo

Chỉ số NPT


2008

1135100

374

32.9

506

44.6

2009

1146100

423

36.9

535

46.7

2010

1154900

354


30.7

449

38.9

2011

1163700

524

45.0

636

54.7

2012

1172000

502

42.8

641

54.7


Số TB

1154360

435.4

37.7

553.4

47.9

(Nguồn: Phòng thống kê TAND tỉnh Quảng Ninh, Tổng cục thống kê)

Trong giai đoạn 2008 – 2012, chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội về
ma tuý trung bình ở Quảng Ninh lần lượt là 37,7 và 47,9. Tác giả đặt chỉ số tội


12
phạm và chỉ số người phạm tội về ma tuý ở Quảng Ninh trong sự so sánh với chỉ
số tội phạm và chỉ số người phạm tội về ma tuý trên toàn quốc và hai địa bàn
giáp ranh là Hải Phòng, Lạng Sơn để thấy rõ hơn mức độ phổ biến trong dân cư
của tội phạm về ma tuý ở Quảng Ninh.(Phần tính chỉ số tội phạm và chỉ số
người phạm tội về ma tuýcủa toàn quốc, Hải Phòng, Lạng Sơn được thể hiện ở
phụ lục 1).
Bảng số7: Chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội ma tuý ở Toàn quốc,
Quảng Ninh, Hải Phòng, Lạng Sơn (2008 – 2012)

Năm

2008
2009
2010
2011
2012
TB

Toàn quốc
CSTP CSNPT
11.9
15.7
12.5
16.2
13.0
16.2
14.3
17.7
16.9
21.0
17.4
13.7

Quảng Ninh
CSTP CSNPT
32.9
44.6
36.9
46.7
30.7
38.9

45.0
54.7
42.8
54.7
37.7
47.9

Hải Phòng
CSTP CSNPT
18.1
22.1
20.1
23.9
17.5
20.9
20.9
27.1
21.6
27.0
19.7
24.2

Lạng Sơn
CSTP CSNPT
11.4
15.9
16.9
25.9
17.3
25.8

26.0
37.8
30.8
41.2
20.5
29.3

( Nguồn:Phòng thống kê TAND tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Lạng Sơn, TAND
tối cao, Tổng cục thống kê)

Trong giai đoạn nghiên cứu, chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội về
ma tuý trung bình trên toàn quốc là 13.7 và 17.4; ở Hải Phòng là 19.7 và 24.2; ở
Lạng Sơn là 20.5 và 29.3. Như vậy, so với toàn quốc, Hải Phòng, Lạng Sơn, chỉ
số tội phạm và chỉ số người phạm tội ma tuý ở Quảng Ninh đều cao hơn. Điều
này đã chứng tỏ mức độ phổ biến trong dân cư của tội phạm ma tuý ở Quảng
Ninh rất cao.Chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội cao, trong khi Quảng
Ninh là tỉnh đông dân cũng cho thấy tình trạng báo động của tội phạm ma tuý ở
Quảng Ninh.


13
Biểu đồ 4: So sánh chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội ma tuý của
Quảng Ninh với toàn quốc, Hải Phòng, Lạng Sơn
47.9

50
40

37.7


Chỉ số tội phạm

29.3
30

23.2
19.1

20.5

20

17.4

Chỉ số người phạm
tội

13.7

10
0
Quảng Ninh

Hải Phòng

Lạng Sơn

Toàn quốc

Ngoài ra, khi làm rõ thực trạng về mức độ các tội phạm về ma tuý trên địa

bàn tỉnh Quảng Ninh, một thông số cũng cần đề cập là số người nghiện ma
tuý.Bởi vì xét đến cùng các tội phạm về ma tuý là để cung cấp cho người sử
dụng ma tuý, nói cách khác giữa nhu cầu sử dụng ma tuý và hoạt động tội phạm
về ma tuý có mối quan hệ cung cầu.Nếu số người nghiện ma tuý nhiều, tức
nguồn cầu ma tuý cao sẽ thúc đẩy các hoạt động tội phạm về ma tuý.Hơn nữa,
nhiều người nghiện ma tuý cũng đồng thời là người phạm tội về ma tuý. Trong
quá trình phục vụ nhu cầu sử dụng của bản thân, cũng như việc tiếp xúc thường
xuyên với ma tuý, tội phạm về ma tuý khiến ngườinghiện ma tuý dễ trở thành
người phạm tội, đặc biệt là các tội phạm về ma tuý. Ở Quảng Ninh, lượng người
nghiện ma tuý có hồ sơ quản lý là khá đông, chưa kể lượng người nghiện chưa
được phát hiện, quản lý. Giai đoạn 2008 – 2012, trung bình số người nghiện có
hồ sơ quản lý là 1823 người; chỉ số người nghiện (tính trên 100.000 dân) là 158
người, có nghĩa là cứ 100.000 dân thì có 158 người nghiện. Con số này cho thấy
tình trạng nghiện ma tuý ở Quảng Ninh thực sự đáng lo ngại, đồng thời phần nào
giải thích cho mức độ phổ biến của các tội phạm về ma tuý trên địa bàn Quảng
Ninh.
Bảng số 8: Chỉ số người nghiện ma tuý có hồ sơ quản lý chính thứcvà chỉ số
người phạm tội về ma tuý ở Quảng Ninh (2008 - 2012)


14
Năm

Dân số

2008
2009
2010
2011
2012

TB

1135100
1146100
1154900
1163700
1172000
1154360

Số người
nghiện
1715
1778
1664
1879
2079
1823

Chỉ số người
nghiện
151
155
144
161
177
158

Chỉ số người
phạm tội MT
44.6

46.7
38.9
54.7
54.7
47.9

(Nguồn: Sở lao động thương binh xã hội Quảng Ninh)
Biểu đồ5: Chỉ số người nghiện ma tuý và chỉ số người phạm tội về ma tuý ở
Quảng Ninh ( 2008 - 2012)
177
180
160

161

155

151

144

140
120

Chỉ số người nghiện ma tuý

100
80
46.7


44.6

60

54.7
38.9

54.7

Chỉ số người phạm tội về
ma tuý

40
20
0
2008

2009

2010

2011

2012

Để thấy rõ hơn mối liên hệ giữa tội phạm ma tuý và nghiện, tác giả thống
kê số người nghiện theocác địa bàn trong tỉnh Quảng Ninh tính đến năm 2012.


15

Bảng số9: Số người nghiện ma tuý phân theo các địa bàn thuộc tỉnh Quảng
Ninh năm 2012

Địa bàn
Số người nghiện ma tuý
TP.Cẩm Phả
705
TP.Hạ Long
516
TP.Uông Bí
251
TP.Móng Cái
242
H.Đông Triều
116
H. Hoành Bồ
105
TX.Quảng Yên
62
H. Vân Đồn
41
H.Tiên Yên
15
H.Đầm Hà
11
H.Hải Hà
9
H.Bình Liêu
4
H.Ba Chẽ

2
H.Cô Tô
0
Tổng số
2079
(Nguồn: Sở lao động thương binh xã hội tỉnh Quảng Ninh)
Qua số liệu trên, cùng với số liệu về các tội phạm ma tuý phân theo địa bàn
(bảng số 2) thấy các địa bàn có số người nghiện ma tuý đông như Cẩm Phả (794
người), Hạ Long (516 người), Uông Bí (251 người), Móng Cái (242 người) cũng
đồng thời là các địa bàn có số tội phạm về ma tuý nhiều. Ngược lại, các địa bàn
ít hoặc không có người nghiện ma tuý như Bình Liêu, Ba Chẽ, Cô Tô thì số vụ
các tội phạm về ma tuý cũng rất ít.Điều này chứng tỏ giữa số người nghiện ma
tuý và tội phạm ma tuý có liên hệ chặt chẽ với nhau.
* Tội phạm ẩn:
Nghiên cứu về thực trạng của tội phạm không chỉ dựa vào việc nghiên cứu
về những vụ phạm tội đã được xét xử (tội phạm rõ) mà còn phải nghiên cứu tội
phạm ẩn. “Tội phạm ẩn là các tội phạm đã thực tế xảy ra nhưng không được thể
hiện trong các thống kê tội phạm vì không được phát hiện, không được xử lý
hoặc không được đưa vào thống kê tội phạm[1, Tr 203]. Thực tế cho thấy, mỗi


16
loại tội phạm có một tỷ lệ ẩn khác nhau. Trong phần này, tác giả đưa ra cách
tính thể hiện mức độ (tương đối) của tội phạm ẩn như sau:
Trong giai đoạn 2008-2012, trung bình mỗi năm tỉnh Quảng Ninh có 1823
người nghiện. Giả sử số người nghiện này sử dụng trung bình mỗi ngày sử dụng
3 - 5 liều heroin, trung bình mỗi ngày 0,02 gam heroin (lấy heroin vì đây là loại
ma tuý phổ biến nhất). 01 năm có 365 ngày, vậy trung bình mỗi năm số người
nghiện này phải sử dụng 39924 – 66539g heroin. Trong khi đó, theo số liệu của
Công an tỉnh Quảng Ninh, trong giai đoạn 2008-2012 thu giữ được 61329g

heroin [4]. Trung bình mỗi năm trong giai đoạn nghiên cứu thu giữ được 12266g
heroin, chỉ chiếm 18 – 30% lượng heroin cần thiết cho nhu cầu của người
nghiện ma tuý trên địa bàn tỉnh. Như vậy, nếu tính theo cách này thì tỷ lệ ẩn của
tội phạm về ma tuý ở Quảng Ninh là khoảng 70 – 82 %. Tuy nhiên, số người
nghiện nói trên mới chỉ là số người nghiện có hồ sơ quản lý chính thức, chưa có
số người nghiện chưa bị phát hiện. Mặt khác, xuất phát từ vị trí địa lý của Quảng
Ninh là tỉnh giáp biên, giao thông thuận lợi nên còn có cả lượng heroin trung
chuyển đi các địa bàn khác. Như vậy, tỷ lệ ẩn của tội phạm về ma tuý ở Quảng
Ninh còn cao hơn rất nhiều.
Nhận định tỷ lệ ẩn của các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh cao trên 82%về cơ bản cũng phù hợp với đặc thù riêng của tỉnh cũng như
đặc điểm của tội phạm ma tuý. Quảng Ninh là tỉnh có nhiều người nghiện, người
sử dụng ma tuý. Trong khi đó, người nghiện ma tuý và hoạt động tội phạm về
ma tuý có liên quan mật thiết với nhau: người nghiện ma tuý nhiều, nguồn cầu
ma tuý cao kéo theo nguồn cung ma tuý lớn. Mặt khác, Quảng Ninh lại được
nhận định là địa bàn trung chuyển ma tuý từ Việt Nam ra nước ngoài và ngược
lại nên chắc chắn hoạt động tội phạm về ma tuý xảy ra nhiều, với mức độ
nghiêm trọng. Nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau nên số lượng tội phạm bị
phát hiện, giải quyết chưa tương xứng. Đối với các tội phạm về ma tuý ở Quảng
Ninh nói riêng, toàn quốc nói chung, tỷ lệ ẩn của tội phạm là khá cao vì một số
lý do sau: ma tuý là một mặt hàng siêu lợi nhuận nên nhiều người bất chấp tất cả


17
để thực hiện tội phạm. Người phạm tội về ma tuý sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi
xảo quyệt, trong khi đó tội phạm về ma tuý thường không để lại hiện trường và
hầu như không có bị hại nên rất khó phát hiện. Hơn nữa, tội phạm về ma tuý
thường hình thành những đường dây phạm tội, được tổ chức hết sức chặt chẽ và
có cả một hệ thống “luật“ riêng buộc các thành viên trong đường dây phải tuân
theo nếu không sẽ bị trừng trị một cách đáng sợ, do đó tính bí mật và tính che

giấu của tội phạm về ma tuý cao, khó phát hiện và giải quyết hết.
Qua nghiên cứu thực trạng xét về mức độ của các tội phạm về ma tuý trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2008 – 2012, có thể thấy đây là nhóm tội phổ
biến, luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng số tội phạm đã xét xử trên địa bàn tỉnh. Khi
so sánh với toàn quốc, các địa phương khác, mức độ phổ biến của các tội phạm
về ma tuý trong dân cư ở Quảng Ninh cũng ở mức cao. Tội phạm ma tuý ở
Quảng Ninh có mối liên hệ với người nghiện ma tuý. Chính vì vậy, các tội phạm
về ma tuý chủ yếu xảy ra tại các khu vực thành thị, nơi tập trung đông người
nghiện ma tuý. Trong số các tội phạm về ma tuý thì Tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý là nhóm tội phổ biến nhất. Tỷ lệ
ẩn của các tội phạm về ma tuý ở mức cao.
1.2 Thực trạng của các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
từ năm 2008 đến năm 2012: xét về tính chất
Thực trạng của tội phạm xét về tính chất được phản ánh qua các cơ cấu của
tội phạm. Qua cơ cấu của tội phạm theo tiêu thức nhất định có thể rút ra được
nhận xét về tính chất của tội phạm [2, Tr224]. Trong thời gian từ năm 2008 đến
năm 2012, TAND các cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm2177 vụ
với 2767 bị cáo phạm các tội phạm về ma tuý. Trên cơ sở các số liệu thống kê
và khảo sát từ 146 bản án hình sự sơ thẩm, với 230 bị cáo đã xét xử trong thời
gian 5 năm, cơ cấu của các tội phạm về ma tuý được tác giả xác định theo những
tiêu chí sau:


18
1.2.1. Thực trạng của các tội phạm về ma tuý phản ánh qua cơ cấu theo tội
danh
Các tội phạm về ma tuý được quy định tại chương XVIII BLHS, gồm 10
tội danh (từ điều 192 đến điều 201).Ở Quảng Ninh, số bị cáo phạm tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt chất ma tuý chiếm số lượng lớn và phổ
biến nhất (96.9%). Các tội danh khác chiếm số lượng rất nhỏ, và cũng chỉ có

một số tội như tội sản xuất trái phép chất ma tuý (điều 193); tội tổ chức sử dụng
trái phép chất ma tuý (điều 197); tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các
phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma tuý
(điều 196); tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma tuý (điều 198), thời điểm
trước năm 2010 còn có tội sử dụng trái phép chất ma tuý nhưng từ năm 2010 thì
không còn do BLHS sửa đổi bổ sung năm 2009 đã bỏ tội danh này.
Bảng số10: Cơ cấu theo tội danh

Tổng số
bị cáo

Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất MT

2767 = 100%

2682 = 96.9%

Các tội danh khác

85 = 3.1%

(Nguồn:phòng thống kê TAND tỉnh Quảng Ninh)
Biểu đồ số6: Cơ cấu theo tội danh
3.1%

96.9%

Tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái

phép hoặc chiếm đoạt
chất MT

Các tội danh khác

Những số liệu trên được thống kê theo điều luật. Trong khi đó điều 194 quy
định 4 tội danh nên tác giả khảo sát cơ cấu tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý (điều 194) nhằm đánh giá chính xác thực
trạng về tính chất các tội phạm về ma tuý trên địa bàn Quảng Ninh. Qua khảo sát
230 bị cáo thì có 225 bị cáo bị xét xử về tội danh quy định tại điều 194, trong đó


19
có trường hợp bị cáo bị xét xử về 1 tội danh chứa một hành vi như: Tội tàng trữ
trái phép chất ma tuý, Tội vận chuyển trái phép chất ma tuý, Tội mua bán trái
phép chất ma tuý, hoặc tội danh chứa nhiều hành vi như Tội tàng trữ, vận
chuyển trái phép chất ma tuý; Tội mua bán, vận chuyển trái phép chất ma tuý.
Bảng số 11: Cơ cấu theo tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma tuý

Tổng số
225
100%

Tàng trữ TP
chất MT
73
32.4%

Vận chuyển TP

chất MT
16
7.1%

Mua bán TP
chất MT
122
54.2%

Tội danh chứa
nhiều hành vi
14
6.3%

(Nguồn:khảo sát 146 bản án = 230 bị cáo)
Biểu đồ số7: Cơ cấu theo tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma tuý
6.3%
32.4%
Tàng trữ TP chất MT
54.2%

Vận chuyển TP chất
MT
7.1%

Kết quả khảo sát cho thấy tội phạm được thực hiện nhiều nhất là mua bán
trái phép chất ma tuý (54.2%), tội tàng trữ trái phép chấtma tuý cũng khá phổ
biến (chiếm 32.5%). Tội vận chuyển trái phép chất ma tuý tuy chiếm 7.1%
nhưng qua khảo sát, lượng ma tuý trong các vụ án có các bị cáo phạm tội vận

chuyển trái phép chất ma tuý thường rất lớn, và thường nằm trong những vụ án
đồng phạm có tổ chức. Điển hình là vụ Lê Văn Đoài cùng đồng bọn (6 bị cáo):
ngày 25/12/2011, tại khu vực KM200+100 quốc lộ 18A thuộc xã Hải Lạng,
huyện Tiên Yên, phòng PC47 đã phát hiện, bắt giữ Lê Văn Đoài, Đoàn Văn
Tuấn, Tạ Minh Quang khi đang vận chuyển 12 bánh heroin. Các bị cáo khai
nhận đã nhận số ma tuý này từ Nguyễn Thanh Toàn, vận chuyển đến Móng Cái


×