Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.23 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THU MINH

QUYỀN TỰ DO ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI

Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cường

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Minh



MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH
ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa quyền tự định đoạt của đương sự

6
6

1.2. Mối liên hệ giữa quy định quyền tự định đoạt của đương sự với các
quy định khác trong tố tụng dân sự

13

1.3. Sự phát triển của quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong
pháp luật tố tụng dân sự việt nam

15

1.4. Quyền tự định đoạt của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự một
số nước trên thế giới

19


Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN TỰ
ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI

26

2.1. Khái niệm, đặc điểm của vụ án kinh doanh, thương mại

26

2.2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại

27

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG
SỰ TRONG VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI

50

3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp kinh
doanh thương mại tại tòa án

50

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự, nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án kinh doanh,
thương mại

59


KẾT LUẬN

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

75


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự


1


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, Việt Nam đã ngày càng phát triển và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Cùng với sự phát triển đó, các mối quan hệ kinh tế - dân sự trong xã hội ngày càng
trở nên đa dạng, phong phú, sinh động song đồng thời cũng hết sức phức tạp nảy
sinh nhiều vấn đề mới. Điều đó, một mặt là yếu tố tích cực thúc đẩy giao lưu dân sự
nhưng mặt khác cũng dẫn đến nhiều tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh.
Thực tiễn cho thấy số lượng các vụ tranh chấp kinh tế ngày càng có chiều hướng gia
tăng về số lượng và phức tạp về nội dung tranh chấp.
Chính vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp dân sự - kinh doanh, thương
mại có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó không chỉ nhằm khôi phục lại các quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ kinh doanh, thương mại mà còn nhằm
góp phần bình ổn các quan hệ trong xã hội. Yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết
tranh chấp là làm sao vừa bảo vệ được những quyền và lợi ích chính đáng của
đương sự vừa đảm bảo tính đúng đắn nghiêm minh của pháp luật. Để thực hiện điều
đó cần có nhiều yếu tố khác nhau, song một trong những vấn đề quan trọng là đòi
hỏi các chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng phải tuân thủ đúng các
nguyên tắc của tố tụng dân sự (TTDS) trong đó có nguyên tắc đảm bảo quyền tự
định đoạt của đương sự. Nguyên tắc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự được
coi là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của TTDS, bởi nó không chỉ chi phối
đến các nguyên tắc khác mà nó còn thể hiện rõ nhất bản chất của quan hệ dân sự.
Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự - kinh doanh, thương mại
tại tòa án trong những năm qua cho thấy sự vi phạm về quyền tự định đoạt của
đương sự còn khá phổ biến. Nhiều bản án kinh doanh, thương mại được tuyên
không trên cơ sở của nguyên tắc này. Điều đó cũng xuất phát từ nhiều lý do khác
nhau nhưng một trong những lý do đó là các quy định của pháp luật còn nhiều bất
cập, chưa theo kịp được với sự phát triển của đời sống xã hội. Bên cạnh đó nhận



2

thức của người dân nói chung và của đương sự nói riêng về quyền và nghĩa vụ của
họ khi tham gia tố tụng còn hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu quyền tự định đoạt của
đương sự là việc làm hết sức cần thiết. Việc nghiên cứu này không chỉ nhằm góp
phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự mà
còn nhằm nâng cao nhận thức về quyền tố tụng các chủ thể.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài "Quyền tự định đoạt của đương sự trong
vụ án kinh doanh, thương mại" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình với mong
muốn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về quyền tự
định đoạt của đương sự, trên cơ sở đó góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật TTDS
Việt Nam nói chung, pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền tự định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản
của TTDS. Chính vì vậy, cũng đã có một số công trình và bài viết về vấn đề này.
Đó là luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Tiến Trung "Quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự" năm 1997. Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn
Văn Tuyết "Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Việt
Nam" năm 2011.
Về giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo có Giáo trình Tố tụng dân sự
Việt Nam, Giáo trình Luật dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản
Công an nhân dân, 2009; Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử, của Tưởng
Duy Lượng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2009; Bình luận khoa học Bộ luật Tố
tụng dân sự sửa đổi, của Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa
(chủ biên), Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, 2011.
Bên cạnh đó còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí như bài: "Nguyên
tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự
Việt Nam", của TS Nguyễn Ngọc Khánh, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,

số 5/2005; "Việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự tại phiên tòa sơ
thẩm", đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/2007; "Sự thỏa thuận của các
đương sự tại phiên tòa dân sự sơ thẩm", của Bùi Thị Huyền, đăng trên Tạp chí Luật


3

học, số 8/2007; "Về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân
sự", của Lê Minh Hải, đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 4/2009; "Một
số vướng mắc trong quá trình thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự - Những kiến nghị,
giải pháp hoàn thiện", của TS. Nguyễn Văn Cường, Tạp chí Tòa án nhân dân
(TAND), số 02, tháng 01/2010; "Một số vấn đề cần đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ
luật Tố tụng dân sự", của TS. Nguyễn Văn Cường, Tạp chí TAND, số 11, tháng
6/2010; "Những vấn đề sửa đổi, bổ sung một số điều của Phần chung của Bộ luật
Tố tụng dân sự", của TS. Nguyễn Văn Cường - ThS. Phan Thị Thu Hà, Tạp chí
TAND, số 23, 24, 25 tháng 12/ 2011...
Ngoài ra, còn có công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ và hội thảo khoa
học: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng các quy định Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2004 về thủ tục tại phiên tòa xét xử vụ án dân sự", 2009; Hội thảo khoa học
"Tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng trong việc giải quyết tranh chấp về kinh
doanh thương mại", Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) tổ chức tại Hà Nội, 6/2010.
Như vậy, có thể thấy cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào
mang tính toàn diện và đầy đủ về quyền tự định đoạt của đương sự trong các vụ án
kinh doanh, thương mại. Các công trình nghiên cứu, các bài viết đã kể trên tuy có
đề cập đến quyền tự đoạt của đương sự nhưng chủ yếu dưới dạng nguyên tắc. Vì
vậy, đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ thạc sĩ về vấn đề này kể từ khi
có Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài "Quyền tự định đoạt của đương sự

trong vụ án kinh doanh thương mại" là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về quyền tự định đoạt của đương sự, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành và
thực tiễn áp dụng chế định này, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
những quy định của pháp luật TTDS về quyền tự định đoạt của đương sự.
Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ chủ yếu của luận văn là:


4

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự.
- Phân tích đánh giá thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về quyền
tự định đoạt của đương sự cũng như thực trạng áp dụng các quy định đó trong các
vụ án kinh doanh, thương mại trên thực tế.
- Đề xuất một số các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền tự định
đoạt của đương sự.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách
tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Bên cạnh đó, các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như:
phương pháp phân tích chứng minh, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp
so sánh cũng được sử dụng một cách phù hợp với nội dung của từng vấn đề trong
luận văn. Các phương pháp khác như thống kê, diễn giải, suy diễn logic và phương
pháp xã hội học… được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài.
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Quyền tự định đoạt của đương sự có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa
hẹp. Tuy nhiên, trong luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu quyền tự định đoạt của
đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại theo nghĩa hẹp gồm: Quyền tự định
đoạt của đương sự kể từ khi khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại đến phiên tòa
sơ thẩm, phúc thẩm và khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống, đầy đủ về
những vấn đề liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ án kinh
doanh, thương mại theo quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm
2011) nên có một số điểm mới sau:
- Hoàn thiện khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ án kinh
doanh thương mại, xác định rõ ý nghĩa và cơ sở của của quyền này trong TTDS, chỉ


5

ra mối liên hệ của quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ án kinh doanh, thương
mại với các quyền khác trong pháp luật TTDS.
- Tìm hiểu nội dung quyền tự định đoạt của đương sự trong pháp luật của
một số nước trên thế giới.
- Đánh giá được thực trạng các quy định pháp luật TTDS Việt Nam hiện
hành về quyền tự định đoạt của đương sự trong thực tiễn giải quyết các vụ án kinh
doanh, thương mại tại Tòa án.
- Đề xuất, kiến nghị các phương hướng hoàn thiện pháp luật TTDS về
quyền tự định đoạt của đương sự trong bối cảnh thực hiện chiến lược cải cách tư
pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quyền tự định đoạt của đương sự.
Chương 2: Các quy định pháp luật hiện hành về quyền tự định đoạt của
đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về
quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại.



6

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT
CỦA ĐƯƠNG SỰ

1.1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự
Quyền tự định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của
BLTTDS. Vì vậy, nó được hiểu là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho
việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS và được ghi nhận trong các văn bản TTDS.
Điều đó có nghĩa, quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là những
nguyên lý, tư tưởng chủ đạo quán triệt và xuyên suốt toàn bộ hệ thống các quy định
của pháp luật TTDS cũng như trong việc thực hiện và áp dụng các quy định đó trên
thực tế, đồng thời là nguyên tắc chi phối toàn bộ hoạt động của đương sự khi tham
gia tố tụng.
Khi có chủ thể yêu cầu bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong
trường hợp có vi phạm hoặc có tranh chấp hoặc họ cho rằng là có vi phạm hoặc
đang tranh chấp thì Tòa án phải xem xét thụ lý giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của họ.
Đặc trưng của vụ án dân sự là có tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ
dân sự, đó là sự không thống nhất việc thực hiện hay không thực hiện quyền hoặc
nghĩa vụ của một trong hai bên khi tham gia các quan hệ dân sự trong cuộc sống
(mỗi bên có thể là một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức), trong đó một bên yêu
cầu Tòa án buộc bên kia phải thực hiện một số nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động.
Chính vì vậy để quản lý và duy trì trật tự xã hội, bảo đảm việc giải quyết
tranh chấp, mâu thuẫn dân sự được nhanh chóng, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp

pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức thì Nhà nước phải ban hành một hệ thống pháp
luật để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội dựa trên cơ sở tôn trọng quyền của công


7

dân, trong đó có pháp luật nội dung và pháp luật về tố tụng. Pháp luật nội dung quy
định các quy tắc ứng xử, ghi nhận và bảo hộ các quyền về dân sự của các chủ thể.
Pháp luật TTDS đặt ra các phương thức để bảo vệ cho các quyền nội dung đó được
tôn trọng, thực hiện trên thực tế.
Quyền tự định đoạt của đương sự luôn gắn liền với quyền tự định đoạt của
các chủ thể trong quan hệ pháp luật nội dung. Do đó cơ sở để pháp luật TTDS quy
định đương sự trong TTDS được thực hiện quyền tự định đoạt của mình chính là
các quyền lợi đã được pháp luật nội dung (pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh thương mại...) ghi nhận và bảo vệ.
Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền năng đặc thù của các đương sự,
có nguồn gốc từ quyền tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận của các chủ thể trong
các quan hệ dân sự. Trong các quan hệ dân sự thì chính các chủ thể là người có
quyền, lợi ích cho nên họ được tùy ý lựa chọn cách ứng xử của mình, có thể tự mình
làm hoặc giao cho người khác thực hiện, có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ thanh
toán mọi chi phí, bồi thường thiệt hại. Vì vậy, khi có tranh chấp thì các đương sự
trong TTDS có thể tự mình quyết định việc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi
của mình, tự thương lượng với chủ thể có tranh chấp hoặc uỷ quyền cho quyền khác
thực hiện, nếu không có năng lực hành vi tố tụng thì việc định đoạt sẽ được thực
hiện thông qua người đại diện hợp pháp được pháp luật quy định.
Quyền tự đoạt của đương sự chỉ được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật
nội dung cho phép. Quyền tự đoạt của đương sự trong TTDS luôn phải gắn với các
quyền, lợi ích được pháp luật nội dung ghi nhận và bảo hộ. Trong TTDS thì các đương
sự chỉ có thể định đoạt trong phạm vi những quyền lợi ích hợp pháp đã được pháp luật
nội dung ghi nhận và không thể định đoạt những quyền lợi mà mình không có. Với

việc phân tích các quy phạm pháp luật của luật nội dung cho thấy quyền tự định đoạt
của đương sự trong TTDS luôn gắn liền với quyền tự định đoạt của các chủ thể trong
quan hệ pháp luật nội dung và chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở các quy định của
pháp luật nội dung. Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS có mối quan hệ
chặt chẽ với năng lực pháp luật dân sự và việc thực hiện quyền tự định đoạt này còn
phụ thuộc vào năng lực hành vi TTDS của chủ thể có quyền lợi ích.


8

Cùng với sự phát triển của các quan hệ dân sự, những mâu thuẫn giữa các
chủ thể quan hệ cũng phát sinh ngày một nhiều. Một trong những phương thức giải
quyết tranh chấp khi các bên đương sự không tự thỏa thuận được với nhau là khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình khi bị xâm phạm. Đây cũng chính là yêu cầu bắt nguồn từ đời sống thực tiễn
đòi hỏi pháp luật phải có những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết tranh
chấp tại Tòa án để các đương sự thực hiện trong đó yêu cầu về bảo đảm quyền tự
định đoạt của đương sự là quan trọng nhất.
Pháp luật dân sự đã có những quy định tương đối cụ thể về quyền tự định
đoạt của đương sự đó là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình trong
trường hợp có tranh chấp. Đây chính là cơ sở thực tiễn để quy định quyền tự định
đoạt của đương sự trong TTDS. Tuy nhiên, việc đảm bảo thực hiện quyền này trên
thực tiễn có được thực hiện triệt để hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau đặc biệt là Tòa án - cơ quan giải quyết tranh chấp có tạo điều kiện để cho các
đương sự thực hiện tốt các quyền mà pháp luật đã quy định hay không.
Đương sự trong TTDS là các chủ thể có quyền, lợi ích trong vụ việc dân sự
cần giải quyết nên đương sự hoàn toàn có quyền tự do quyết định việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án. Khi có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm việc khởi kiện hay không khởi kiện là do đương sự tự quyết định. Sau khi
khởi kiện việc có thay đổi nội dung khởi kiện hay không, có thỏa thuận giải quyết

việc kiện hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các đương sự. Điều này
đã thể hiện đương sự hoàn toàn có quyền chủ động trong việc giải quyết các mâu
thuẫn, các tranh chấp hoặc các vấn đề có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của
họ. TAND là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ thụ
lý để giải quyết vụ việc dân sự khi đương sự có đơn yêu cầu nhằm bảo đảm cho
đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật.
Điều 5 BLTTDS cũng đã thể hiện được những nội dung cơ bản của quyền
tự định đoạt của đương sự. Theo đó:
Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ


9

việc dân sự khi có yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự một cách tự
nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội [17].
Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền tự quyết định về phương diện tố
tụng trước Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và quyền tự
định đoạt này được thực hiện trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ việc nên nó
có mối liên hệ trực tiếp đến hoạt động của Tòa án và ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng, chi
phối bởi những quyết định của Tòa án. Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước để
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể và có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự định
đoạt của các đương sự. Tuy nhiên, việc định đoạt của đương sự phải được tiến hành
trong khuôn khổ mà luật pháp cho phép, sao cho không xâm hại tới các quyền tố
tụng và quyền lợi hợp pháp của các chủ thể khác hoặc lợi ích của xã hội. Có thể
thấy rằng quyền tự định đoạt của đương sự là quyền năng đặc thù của các đương sự,
có nguồn gốc từ quyền tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận trong các quan hệ dân

sự. Ở nước ta, quyền tự định đoạt của đương sự được coi là một nguyên tắc cơ bản
trong TTDS, là nền tảng để xây dựng các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải
quyết các vụ việc dân sự.
Quyền tự định đoạt của các bên khi tham gia các quan hệ dân sự, kinh
doanh, thương mại luôn được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Quyền tự định đoạt
trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này cũng được pháp
luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Như vậy, quyền tự định đoạt của
đương sự được hình thành và bắt nguồn từ bản chất của các quan hệ pháp luật nội
dung có cùng bản chất bao gồm các quan hệ về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại và lao động. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn này tác
giả chỉ đi sâu nghiên cứu về mối liên hệ giữa quan hệ dân sự và quyền tự định đoạt
của đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại.
Trong quan hệ dân sự quyền "tự định đoạt" của chủ thể được sử dụng rộng
rãi và sâu sắc, thuộc tính "tự định đoạt’’ của chủ thể được biểu hiện thông qua các


10

hành vi quyết định về quyền lợi của mình trong các quan hệ được thiết lập trên cơ
sở bình đẳng, tự do ý chí, tự nguyện cam kết, thoả thuận. Quyền tự định đoạt của
sởơng sự trong TTDS là quyền của đương sự trong việc tự quyết định việc tham gia
tố tụng và thực hiện các quyền tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
trước Tòa án trong suốt quá trình tố tụng, các đương sự cũng có thể ủy quyền cho
người khác thực hiện một số hoặc toàn bộ quyền và nghĩa vụ của mình nhưng
quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các đương sự. Tuy nhiên các đương sự chỉ
có quyền định đoạt những vấn đề thuộc phạm vi các quyền, lợi ích đã được pháp
luật TTDS ghi nhận và bảo vệ.
Có thể thấy rằng, quyền tự định đoạt của đương sự là quyền tố tụng của
đương sự trong việc tự quyết định về quyền, lợi ích hợp pháp của họ và lựa chọn
các biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích đó bằng những hành vi cụ

thể dựa trên cơ sở ý chí tự nguyện của chính đương sự. Đương sự có quyền quyết định
việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ
thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và
chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó; trong quá trình giải
quyết vụ việc sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình
hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về quyền tự định đoạt của
đương sự như sau: Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là quyền tố tụng
được quy định trong pháp luật TTDS, theo đó đương sự thể hiện tự do ý chí của
mình bằng việc tự mình lựa chọn quyết định các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
1.1.2. Đặc điểm của quyền tự định đoạt của đương sự
Tự định đoạt của đương sự bắt nguồn từ quyền tự quyết của các bên đối với
các vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ dân sự. Vì
vậy nó có các đặc điểm sau:
- Về chủ thể: Trong tranh chấp dân sự chủ thể của những tranh chấp này có thể
là bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào tham gia vào các quan hệ dân sự trong đời


11

sống xã hội hàng ngày, khi các quan hệ đó không được thống nhất giải quyết theo
thỏa thuận hoặc bất đồng trong việc giải quyết hậu quả của một quan hệ dân sự dẫn
đến tranh chấp không giải quyết được và một trong hai bên yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Mục đích tham gia các quan hệ dân sự của các chủ thể là tiêu dùng.
- Quan hệ tranh chấp giữa các bên tham gia là quan hệ dân sự, đó là sự
không thống nhất việc thực hiện hay không thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ của một
trong hai bên khi tham gia các quan hệ dân sự trong cuộc sống (mỗi bên có thể là
một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức), trong đó một bên yêu cầu Tòa án buộc
bên kia phải thực hiện một số nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ dân sự.

Do quan hệ dân sự là quan hệ tư nên khi các bên tham gia giao lưu dân sự
thì đều bình đẳng và được pháp luật bảo vệ, các bên có quyền và nghĩa vụ ngang
nhau và bình đẳng với nhau.
Còn quyền tự định đoạt trong tố tụng hành chính thì người khởi kiện và
người bị kiện có quyền ngang nhau nhưng thực tế giữa một bên là cơ quan nhà nước
ban hành quyết định hành chính vẫn có thế mạnh nhất định nên quyền tự định đoạt
của đương sự cũng vẫn bị hạn chế, như người khởi kiện quyết định trái pháp luật và
yêu cầu trả lại ngay tài sản bị chuyển giao không đúng pháp luật nhưng yêu cầu
không thực hiện, ví dụ: Hội đồng xét xử có quyền chấp nhận một phần hoặc toàn bộ
yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái
pháp luật; buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà
nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật, không có quyền
buộc cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật khắc phục ngay hậu quả.
Trong tố tụng hình sự thì đương sự là bị hại, quyền tự định đoạt thể hiện
trong việc thu thập và cung cấp chứng cứ, nhưng vì đây là công việc của cơ quan
điều tra nên đương sự không bảo vệ kịp thời yêu cầu của mình do đó chưa bảo đảm
được quyền định đoạt của họ.
1.1.3. Ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đương sự
Quyền tự định đoạt của đương sự là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật
TTDS, nội dung mang tính xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng nhằm bảo đảm


12

cho các đương sự có điều kiện, bằng hành vi của mình, tự mình thực hiện đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ tố tụng, trên cơ sở đó mà các lợi ích hợp pháp của đương sự
được bảo vệ và tôn trọng. Không chỉ với ý nghĩa là một nguyên tắc cơ bản của
pháp luật TTDS, quyền tự định đoạt của đương sự biểu thị như một nội dung
quyền vừa mang giá trị phổ biến, vừa mang tính đặc thù trong hệ thống quy phạm
pháp luật.

Trước hết, quyền tự định đoạt của đương sự được thể hiện thông qua tính
phổ biến đó là khả năng thực hiện quyền, tự định đoạt các quyền năng tố tụng của
các đương sự là như nhau. Các đương sự không phân biệt tư cách tham gia tố tụng
là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi tham gia tố
tụng đều bình đẳng trước pháp luật trong việc thực hiện quyền tự định đoạt của
mình. Cụ thể là nếu nguyên đơn có quyền khởi kiện thì bị đơn có quyền phản tố đối
với yêu cầu của nguyên đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa
ra các yêu cầu độc lập để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Mặt khác, trong
bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng, một hoặc các bên đương sự đều có quyền
thương lượng, thỏa thuận và hòa giải với nhau nhằm chấm dứt các tranh chấp. Nếu
các đương sự không thể tự giải quyết được với nhau thì có quyền yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình đối với các hành vi xâm phạm.
Thứ hai, bên cạnh việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự,
quyền tự định đoạt còn có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm của tòa án trong
việc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự. Điều 5 BLTTDS quy định: "...Tòa
án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương
sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó..." [17].
Theo quy định này thì Tòa án là có trách nhiệm giải quyết đúng và đầy đủ
các yêu cầu của đương sự khi đương sự có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu. Không được
bỏ sót các yêu cầu của đương sự nhưng cũng không được giải quyết vượt quá các
yêu cầu của đương sự. Trường hợp đương sự không yêu cầu thì Tòa án cũng sẽ
không được xem xét giải quyết (trừ trường hợp đặc biệt). Quy định này còn góp
phần giúp Tòa án xác định được trách nhiệm của mình trong việc thực hiện đúng
chức năng xét xử.


13

Thứ ba, hoạt động xét xử có vai trò to lớn trong việc ổn định trật tự pháp
luật và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho công dân nên nó cần phải được tiến hành trên

cơ sở quyền tự định đoạt của đương sự. Vì vậy, quyền tự định đoạt của đương sự đã
được quy định thành một nguyên tắc của BLTTDS thể hiện sự nhất quán của nhà
nước ta, đó là đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí bằng việc tự lựa chọn các
hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Từ đó đảm bảo
tính khách quan của hoạt động xét xử.
1.2. MỐI LIÊN HỆ GIỮA QUY ĐỊNH QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA
ĐƯƠNG SỰ VỚI CÁC QUY ĐỊNH KHÁC TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.2.1. Mối liên hệ với nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Quyền tự định đoạt của đương sự có mối liên hệ hai chiều mật thiết với
quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Quyền này
được thực hiện sẽ tác động tới quyền kia và ngược lại. Theo nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự thì các đương sự có quyền tự quyết định việc bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình phù hợp với yêu cầu của pháp luật như khởi kiện, thay
đổi yêu cầu khởi kiện, tự hòa giải với các đương sự khác. Nhưng quyền tự định đoạt
của đương sự có được thực hiện đúng hay không còn phụ thuộc vào việc bảo đảm
thực hiện các quyền TTDS khác của đương sự. Do vậy, trong mối quan hệ giữa hai
quyền này thì quyền tự định đoạt của đương sự là đối tượng, mục đích của hoạt
động TTDS còn quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
là phương tiện để đạt được mục đích đó.
1.2.2. Mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
(Điều 9 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Quyền tự định đoạt của đương sự có mối liên hệ qua lại nhau với nguyên
tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự. Quyền định đoạt của đương sự là cơ sở
đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự thể hiện một khía cạnh trong
quyền tự định đoạt của đương sự, xác định các đương sự có quyền tự thực hiện các



14

quyền, nghĩa vụ tố tụng; bảo đảm cho các đương sự thực hiện việc ủy quyền hoặc
nhờ người khác bảo vệ quyền lợi của mình; tòa án có trách nhiệm áp dụng các biện
pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tạo điều kiện cho các đương sự bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của họ. Như vậy, nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương
sự chính là một biểu hiện cụ thể trong nội dung quyền tự định đoạt của đương sự.
1.2.3. Mối liên hệ với nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự (Điều 10
Bộ luật Tố tụng dân sự)
Quyền tự định đoạt của đương sự có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc
hòa giải trong TTDS. Thực hiện tốt nguyên tắc hòa giải trong TTDS là bảo đảm cho
quyền tự định đoạt của đương sự được thực hiện. Theo quy định tại Điều 5
BLTTDS, trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự các đương sự có quyền thỏa
thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự. Điều đó có nghĩa là các đương sự
có quyền tự do thỏa thuận với nhau và sự thỏa thuận đó phải phù hợp với pháp luật
và đạo đức xã hội. Tuy nhiên, để quy định này được thực hiện một cách nghiêm túc,
bảo đảm được tốt quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì pháp luật cần có quy
định về trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo cho việc tiến hành sự thỏa thuận
giữa các đương sự với nhau. Và việc thực hiện tốt nguyên tắc hòa giải trong TTDS
cũng chính là đảm bảo cho việc thực hiện sự thỏa thuận của các đương sự. Điều 10
BLTTDS quy định: "Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện
thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự
theo quy định của bộ luật này" [17]. Theo quy định này thì Tòa án có trách nhiệm
tạo mọi điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau. Việc pháp luật
quy định cụ thể trách nhiệm của Tòa án đã góp phần đảm bảo cho việc thỏa thuận
của các đương sự hay nói cách khác là góp phần đảm bảo việc thực hiện quyền tự
định đoạt của đương sự.
1.2.4. Mối liên hệ với nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong
tố tụng dân sự (Điều 8 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Có thể thấy quyền tự định đoạt của đương sự và nguyên tắc bình đẳng về

quyền và nghĩa vụ trong TTDS có mối liên hệ bổ trợ lẫn nhau. Bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ có nghĩa là các đương sự bình đẳng với nhau trong việc hưởng quyền


15

và thực hiện nghĩa vụ tố tụng. Như vậy, các đương sự đều bình đẳng và có quyền
định đoạt như nhau khi tham gia vào quan hệ TTDS. Và ngược lại, việc thực hiện
quyền tự định đoạt của đương sự góp phần bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS.
1.2.5. Mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận trong tố
tụng dân sự (Điều 23a Bộ luật Tố tụng dân sự)
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án bảo đảm để các bên đương
sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh
luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
1.3. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

- Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Cách mạng Tháng 8 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, nhà nước ta đã rất quan tâm tới việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Nhiều
văn bản pháp luật mới trong đó có chứa các quy phạm TTDS được ban hành như
Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945, Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức Tòa án
và các ngạch Thẩm phán, Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền của
Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong tòa án. Điều 3 Sắc lệnh số 13 có
quy định: "Ban tư pháp xã có quyền hòa giải tất cả các việc dân sự và thương sự,
nếu hòa giải thành sẽ lập biên bản hòa giải có các ủy viên và những người đương sự
ký". Điều 9 Sắc lệnh số 51/SL quy định: "Khi nhận đơn kiện về dân sự hay thương
sự, ông Thẩm phán sơ cấp phải đòi hai bên đến để thử hòa giải. Biên bản hòa giải có
hiệu lực từ chứng thư" [2]. Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư

pháp và luật tố tụng có quy định: "Tòa án nhân dân huyện họp thành hội đồng hòa
giải để thử hòa giải tất cả các vụ kiện về dân sự và thương sự, kể cả việc xin ly dị
trừ những vụ kiện mà theo luật pháp đương sự không có quyền điều đình" [3]. Và:
Biên bản hòa giải là một công chứng chứng thư, có thể đem chấp
hành ngay. Tuy nhiên, cho đến lúc biên bản hòa giải được chấp hành
xong nếu Biện lý xét biên bản ấy phạm đến trật tự chung thì có quyền


16

yêu cầu Tòa án có thẩm quyền sửa đổi lại hoặc bác bỏ những điều mà hai
bên đã thỏa thuận. Hạn kháng cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày biện lý
nhận được biên bản hòa giải thành [3].
Từ năm 1954 đến năm 1989, một loạt văn bản mới được ban hành nhằm
chấm dứt việc áp dụng các luật cũ từ trước năm 1945 đồng thời củng cố vai trò, vị
trí của TAND cho phù hợp với tình hình mới, đó là Hiến pháp 1959, Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1959. TANDTC cùng với Bộ Tư pháp cũng ban hành một số văn
bản pháp luật TTDS như Thông tư số 69/TC ngày 31/12/1958 của Bộ Tư pháp về
sửa đổi thẩm quyền của TAND về thủ tục ly hôn; Thông tư số 06/TATC ngày
25/2/1974 của TANDTC hướng dẫn việc điều tra trong TTDS; Thông tư số
39/NCPL ngày 21/1/1972 của TANDTC hướng dẫn việc thụ lý, xếp và tạm xếp
những việc kiện về Hôn nhân và gia đình và tranh chấp dân sự. Theo các văn bản
này, nguyên đơn có đủ tư cách đi kiện phải là người có đủ năng lực hành vi và có
quyền lợi bị xâm phạm. Nguyên đơn có thể ủy quyền cho 1 người có năng lực hành
vi thay mặt mình trong việc kiện, có quyền thay đổi yêu cầu trước khi Tòa án quyết
định. Ngày 30/11/1974 TANDTC ban hành Thông tư số 25/TANDTC hướng dẫn
việc hòa giải trong TTDS, trong đó quy định:
Việc hòa giải của Tòa án nhân dân nhằm giúp đỡ các đương sự
tự thỏa thuận với nhau giải quyết việc kiện trên tinh thần đoàn kết và
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, chính sách do đó phải đảm bảo những

yêu cầu sau đây: phải có sự tự nguyện của các đương sự, nội dung thỏa
thuận của các đương sự phải đúng pháp luật, chính sách [23].
Qua các văn bản trên cho thấy pháp luật TTDS Việt Nam dần dần được
hoàn thiện trên cơ sở quy định rõ quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS khi
giải quyết các vụ án dân sự.
Năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, hệ thống văn bản pháp luật
TTDS từng bước thêm hoàn thiện. Ngày 08/2/1977, TANDTC ban hành Thông tư
96/NCPL hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự, trong đó có nêu:
"...các đương sự có quyền tự định đoạt. Do đó, nói chung Tòa án nhân dân chỉ thụ
lý khi nguyên đơn khởi tố, trừ trường hợp luật pháp có quy định quyền khởi tố của


17

Viện kiểm sát nhân dân, của công dân, hợp tác xã hoặc đoàn thể nhân dân để bảo vệ
lợi ích chung" [24]. Quyền tự định đoạt của đương sự cũng bắt đầu được đề cập tại
Điều 73 Hiến pháp năm 1980 và Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 1981. Tuy nhiên, các
văn bản pháp luật tố tụng trong giai đoạn này chủ yếu mới được quy định trong các
thông tư do TANDTC ban hành nên hiệu lực pháp lý của các văn bản này chưa cao.
- Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004
Hệ thống pháp luật giai đoạn này đã có sự phát triển hơn, đó là sự ra đời
của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989. Đây là văn bản
pháp luật đầu tiên pháp điển hóa những nội dung cơ bản về thủ tục giải quyết các vụ
án dân sự. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đã tạo điều kiện thuận lợi
cho công dân trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Theo pháp lệnh,
đương sự có quyền định đoạt trong việc khởi kiện, cụ thể tại Điều 1 Pháp lệnh quy
định: "Công dân, pháp nhân theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền khởi kiện
vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án nhân dân bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình" [35].
Cũng theo Pháp lệnh, bên cạnh quyền khởi kiện của đương sự, Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc trong phạm vi chức năng của

mình cũng có quyền khởi kiện hoặc đề nghị Viện kiểm sát xem xét việc khởi tố vụ
án đối với những vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho tài sản nhà nước hoặc quyền
lợi của người lao động trong quan hệ lao động, kết hôn trái pháp luật, xác định cha
mẹ cho con chưa thành niên, con ngoài giá thú, xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi
của người chưa thành niên hoặc của người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần
nếu không có ai khởi kiện (Điều 8, Điều 28 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự). Song có thể thấy, việc khởi kiện vì lợi ích chung của các tổ chức xã hội và
việc khởi tố của Viện kiểm sát cũng phần nào ảnh hưởng tới quyền tự định đoạt của
các đương sự.
Điều 2 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự cũng quy định "Người
khởi kiện vụ án dân sự có quyền rút đơn khởi kiện, thay đổi nội dung khởi kiện. Các
đương sự có quyền tự hòa giải với nhau" [35]. Theo quy định này trong quá trình
tham gia tố tụng, các đương sự còn có quyền hòa giải với nhau. Tại Điều 5 Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định: "Trong quá trình giải quyết vụ án,


18

Tòa án tiến hành hòa giải để giúp các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ
án, trừ những trường hợp không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không hòa
giải" [35]. Nếu đương sự không đồng ý với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
thì đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 58 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự: "Đương sự, người đại diện của đương sự, tổ chức xã hội khởi
kiện vì lợi ích chung có quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ
việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án trên một cấp phúc
thẩm. Người kháng cáo phải làm đơn nêu rõ lý do và yêu cầu của kháng cáo" [35].
Như vậy, có thể thấy trong giai đoạn này quyền tự định đoạt của đương sự
đã được quy định tương đối rõ ràng. Nhưng các quyền này mới chỉ được thực hiện ở
mức độ nhất định, trong đó sự tham gia và can thiệp của các cơ quan có thẩm quyền
vẫn còn nhiều. Thêm vào đó, các quy định về tố tụng còn bị chồng chéo, thiếu tập

trung như ngoài Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự còn có Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động năm 1996. Điều này đòi hỏi phải pháp điển hóa các quy định về quyền định
đoạt của đương sự trong một văn bản pháp luật cao hơn.
- Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Ngày 15/6/2004 BLTTDS đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2005. Đây là văn
bản pháp lý có hiệu lực cao nhất từ trước đến nay điều chỉnh các quan hệ về TTDS.
BLTTDS năm 2004 ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử
pháp luật TTDS Việt Nam, đưa hệ thống pháp luật nước ta lên một tầm cao mới,
khắc phục được tình trạng tản mạn, chồng chéo của các quy định TTDS trước đây.
Bộ luật đã tạo điều kiện thuận lợi và cần thiết cho Tòa án giải quyết nhanh chóng và
đúng đắn các vụ việc dân sự bảo đảm cho cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo vệ được
quyền lợi hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng. BLTTDS được ban hành đã làm
thay đổi quy trình tố tụng tại Tòa án theo hướng công khai, minh bạch, nâng cao vai
trò chủ động, tự quyết định trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
trước Tòa án. Điều đó chứng tỏ quyền tự định đoạt của đương sự ngày càng được
chú trọng và mở rộng hơn, đương sự ngày càng có điều kiện thực hiện tốt các quyền


19

của mình. Quyền tự định đoạt của đương sự được quy định tại Điều 5 BLTTDS
năm 2004:
Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ
việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải
quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu
cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái

pháp luật và đạo đức xã hội [17].
1.4. QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

Trong quan hệ pháp luật TTDS, các chủ thể có toàn quyền quyết định trong
việc tham gia hay không tham gia vào quan hệ, quyết định nội dung của quan hệ,
quyết định các phương thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ thông qua việc giao
kết hợp đồng. Khi có tranh chấp phát sinh, họ có quyền quyết định tham gia hay
không tham gia tố tụng yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình, hay tự mình thỏa
thuận với bên kia để giải quyết vụ việc. Họ cũng có quyền quyết định các quyền và
lợi ích của mình như yêu cầu phía bên kia giải quyết quyền lợi gì, phạm vi giải
quyết đến đâu. Quyền này được thể hiện trong việc khởi kiện vụ án dân sự, trong
việc thay đổi bổ sung và rút yêu cầu, trong việc kháng cáo, thay đổi bổ sung và rút
yêu cầu kháng cáo, trong việc hòa giải và tự hòa giải.
Yếu tố đầu tiên thể hiện nội dung quyền tự định đoạt của đương sự chính là
việc khởi kiện của đương sự. Đương sự có toàn quyền trong việc có quyết định khởi
kiện hay không, phạm vi khởi kiện đến đâu. Đương sự cũng có quyền khởi kiện một
hoặc nhiều bị đơn về một hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan đến nhau để
giải quyết trong một vụ án. Có thể nói chỉ có đương sự mới có quyền khởi kiện và
Tòa án chỉ giải quyết trên cơ sở yêu cầu khởi kiện của đương sự. Trước những yêu
cầu của nguyên đơn thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng có quyền đưa ra các yêu cầu độc lập. Điều 3


20

BLTTDS của Liên bang Nga năm 2002 quy định: "Công dân, tổ chức có liên quan
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án bảo
vệ quyền, tự do và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc có tranh chấp" [40]. Hay như
trong BLTTDS của Pháp tại Điều 1 quy định: "Chỉ các bên mới có quyền khởi kiện

trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Các bên đương sự được tự do chấm dứt
tố tụng trước khi hết hạn tố tụng theo quyết định của Tòa án hoặc theo quy định của
pháp luật" [14]. Và Điều 133 BLTTDS của Nhật Bản thì quy định: "Một vụ kiện sẽ
được khởi kiện bằng việc gửi đơn kiện ra Tòa án" [41].
Quyền tự định đoạt của đương sự không chỉ đơn thuần là việc tự quyết định
trong việc có khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích dân sự của mình mà còn bao gồm
cả quyền thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu. Quan hệ dân sự được thiết lập trên cơ sở
sự thương lượng thỏa thuận giữa các bên, trong quá trình thực hiện các bên có thể
thương lượng thỏa thuận với nhau để thay đổi các quyền và nghĩa vụ dân sự của
mình. Khi quyền và lợi ích bị xâm phạm thì các bên cũng có quyền quyết định việc
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình. Do đó, trong quá trình giải quyết vụ án
thì đương sự cũng phải có quyền thay đổi yêu cầu, bổ sung hoặc rút yêu cầu vì nó
liên quan trực tiếp đến quyền lợi của họ. Hơn nữa khi khởi kiện ra Tòa án, đương sự
có thể chưa xác định được một cách chính xác các quyền và lợi ích của mình bị xâm
phạm hoặc có thể chưa có chứng cứ xác đáng nên chưa đưa ra yêu cầu nhưng trong
quá trình tham gia tố tụng đương sự mới thu thập đựợc chứng cứ và xác định được
phạm vi quyền lợi của họ bị xâm phạm. Ngoài ra, cũng có một số trường hợp trong
quá trình tham gia tố tụng chờ Tòa án giải quyết, các đương sự đã thương lượng
thỏa thuận bồi hoàn cho nhau một phần quyền lợi hoặc thỏa thuận giải quyết được
toàn bộ vụ án. Vì vậy, khi Tòa án tiến hành giải quyết vụ án thì đưong sự có thể
toàn đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu. Việc thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu của
đương sự trong một số trường hợp không chỉ giúp cho việc rút ngắn được quá trình
tố tụng mà còn làm đơn giản cho việc giải quyết tiếp theo.
Đối với nguyên đơn việc thay đổi, bổ sung yêu cầu là sự thay đổi, bổ sung
đối tượng khởi kiện; thay đổi bổ sung yêu cầu đối với bị đơn, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan; thay đổi, bổ sung căn cứ cho yêu cầu như thay đổi bổ sung


21


tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu bằng cách nêu ra những tình tiết mới
hoặc rút bỏ các tình tiết, sự kiện đã viện dẫn trong đơn yêu cầu, hoặc tăng giảm
mức yêu cầu so với ban đầu. Đối với bị đơn đó là việc bổ sung rút yêu cầu phản
tố. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đó là việc bổ sung và rút yêu
cầu độc lập.
Ở các nước khác nhau thì quyền thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương
sự cũng được quy định ở các giới hạn, phạm vi khác nhau. Pháp luật một số nước
ghi nhận quyền này của đương sự một cách tối đa gần như không bị hạn chế, đương
sự có thể thực hiện quyền tự định đoạt ở mọi giai đoạn tố tụng. Chẳng hạn tại Điều 39
BLTTDS Liên bang Nga năm 2002, pháp luật cho phép nguyên đơn có quyền thay
đổi căn cứ hoặc đối tượng khởi kiện, tăng hoặc giảm mức yêu cầu trong những
trường hợp đó thời hạn giải quyết vụ án được bắt đầu tính từ ngày thực hiện những
hành vi tố tụng đó.
Trong việc kháng cáo, thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu kháng cáo thì đương
sự có quyền đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án mà Tòa án cấp sơ
thẩm đã xét xử. Kháng cáo cũng được coi là một trong những nội dung thể hiện
quyền tự định đoạt của đương sự ở giai đoạn phúc thẩm. Nếu thấy bản án sơ thẩm
đã tuyên chưa hợp tình, hợp lý, quyền của mình chưa được giải quyết thỏa đáng các
đương sự có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hay chỉ một phần của bản án. Tòa án
chỉ giải quyết trên cơ sở kháng cáo của đương sự. Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng
sẽ chỉ xem xét lại bản án sơ thẩm trên cơ sở nội dung và phạm vi của kháng cáo.
Bên cạnh đó để đảm bảo quyền tự định đoạt, các đương sự còn có quyền thay đổi,
bổ sung và rút yêu cầu kháng cáo. Điều 320 BLTTDS của Liên bang Nga năm 2002
có quy định: "Bản án của Thẩm phán hòa giải có thể bị các bên và những người
tham gia tố tụng khác kháng cáo theo thủ tục chống án tại Tòa án quận thông qua
Thẩm phán hòa giải" [40]. Pháp luật TTDS của Nhật Bản cũng cho phép các đương
sự có quyền kháng cáo, có thể kháng cáo một quyết định hoặc đồng thời nhiều
quyết định trong bản án và người kháng cáo cũng có thể rút kháng cáo. Ở Pháp,
Điều 538 BLTTDS quy định đương sự có quyền kháng cáo đối với bản án là 1 tháng
và đối với các quyết định giải quyết việc dân sự là 15 ngày.



×