Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.29 KB, 75 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN QUỐC THẮNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60380101

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN MINH ĐOAN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ này là công trình do chính tôi tự nghiên
cứu và viết, không sao chép của ai.
Nhân đây, tôi xin đặc biệt chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan,
giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi hoàn
thành bản Luận văn này.
Người thực hiện

Trần Quốc Thắng



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM

7

1.1. Khái niệm, đặc điểm của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động xuất bản

7

1.2. Nội dung, hình thức quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động xuất bản
1.3. Vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản

15
19

1.4. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với
hoạt động quản lý bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản

22

Chương 2 - THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


29

2.1. Thành tựu, kết quả đạt được của quản lý nhà nước đối với hoạt động
xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm ở Việt Nam hiện nay

29

2.2. Hạn chế của quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản, in, và
phát hành xuất bản phẩm ở Việt Nam hiện nay

36

2.3. Một số vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động xuất bản trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa hiện nay

43

Chương 3 - QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

53

3.1. Quan điểm tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay

53


3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động xuất bản xuất bản ở Việt Nam hiện nay

58

KẾT LUẬN

70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

71


1

MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Nói đến hoạt động xuất bản là phải nói đến ba lĩnh vực xuất bản, in, phát
hành. Trong đời sống xã hội nói chung và văn hóa tinh thần nói riêng, lĩnh vực
xuất bản có vai trò quan trọng đặc biệt. Đây là lĩnh vực thuộc công tác văn hóa tư
tưởng, các quan hệ xã hội trong hoạt động xuất bản rất đa dạng, phong phú và
phức tạp. Nó đan xen giữa văn hóa - tư tưởng với kinh tế, giữa lao động sáng tạo
của tư duy với lao động sản xuất vật chất, nó xuyên suốt quá trình sản xuất - lưu
thông và tiêu dùng xuất bản phẩm. Hoạt động xuất bản là kênh thông tin quan
trọng để tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
góp phần ổn định chính trị, phát triển văn hóa và kinh tế, nâng cao dân trí, đời
sống tinh thần của nhân dân... Do đó, tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt
động xuất bản là vấn đề cấp thiết luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm, coi trọng.

Sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công (1945), ngày 09 tháng 11 năm 1946,
Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua bản
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là lần đầu tiên các
quyền tự do dân chủ của người dân được bảo đảm, trong đó có quyền tự do xuất
bản: "Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận; tự do xuất bản..." (Điều thứ
10). Kể từ đó, Đảng và Nhà nước ta luôn có những quy định mang tính kế thừa, đã
sửa đổi, bổ sung các chủ trương, đường lối quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất
bản tạo bước phát triển mạnh mẽ về văn hóa xã hội; tăng đầu tư của Nhà nước,
đồng thời đẩy mạnh huy động các nguồn lực của xã hội để phát triển văn hóa, xã
hội. Trong đó tập trung “phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa
phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa
nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền
tảng tinh thần của xã hộ, là một động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập


2

quốc tế, chú trọng nâng cao chât lượng hệ thống thông tin, báo chí, Internet, xuất
bản. Bảo đảm quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân, đặc
biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc theo đúng như Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã đề ra.
Hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản đã có
những đổi mới đáng kể, mang lại những kết quả tích cực. Hiện nay, cả nước ta có
64 nhà xuất bản đang hoạt động, điều này cho thấy hành lang pháp lý đối với việc
thành lập nhà xuất bản đã thông thoáng hơn. Tuy nhiên, quản lý nhà nước đối với
hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế: mô hình tổ chức và
cơ chế chính sách cho hoạt động xuất bản còn nhiều bất cập, hoạt động xuất bản có
những khó khăn, thách thức, cạnh tranh gay gắt giữa các nhà xuất bản, một số nhà
xuất bản chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế đơn thuần, coi nhẹ chức năng, nhiệm vụ chính
trị, văn hóa; xuất hiện một số xuất bản phẩm có nội dung kém chất lượng, không

lành mạnh, không phù hợp với lứa tuổi người đọc, không có tính giáo dục, không
phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam, bị dư luận phê phán dẫn đến tình trạng
một số tác phẩm bị thu hồi ngay sau khi được công bố; một bộ phận khác hoạt động
kém hiệu quả, kém năng động, còn nặng về trông chờ, bao cấp. Nạn in lậu, in trái
phép chưa được ngăn chặn (đặc biệt là đối với sách giáo khoa, giáo trình), các sai
phạm chưa bị xử lý kịp thời, hoặc mức xử lý chưa đủ tính răn đe, thị trường xuất
bản phẩm chưa được quản lý chặt chẽ, hệ thống phát hành xuất bản phẩm của Nhà
nước không được quan tâm, củng cố đúng mức, đang có nguy cơ bị thu hẹp, nhất là
ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Từ những thực trạng và những hạn chế nêu trên, đòi hỏi phải tăng cường
quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản nhất là trong bối cảnh
chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân,
vì dân là xây dựng một nhà nước với lý tưởng dân chủ, nhân đạo và công bằng nhất,
là nhà nước mà nhân dân nói chung cũng như mỗi công dân nói riêng không chỉ là


3

khách thể của quyền lực, mà còn là chủ thể tối cao của quyền lực ấy. Ở Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “mọi quyền lực đều thuộc về nhân
dân” trở thành hiện thực sinh động của đời sống chính trị xã hội, pháp luật thực sự
bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân và phục vụ cho nhân dân; là chế độ nhà nước
mà công dân là trung tâm, Nhà nước được tổ chức văn minh, trật tự, có cơ chế an
toàn và hiệu quả, ngăn chặn mọi sự lạm quyền, vi phạm quyền công dân, mọi mặt tổ
chức và hoạt động của Nhà nước đều đặt trên cơ sở pháp luật, chịu sự chi phối
thống nhất của pháp luật; là một bộ máy phức tạp nhưng vận động một cách hài
hoà, đồng bộ bảo đảm sự thống nhất cao độ trong tổ chức quản lý xã hội.
Do vậy, tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản cũng là một

trong những nội dung nằm trong việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân và phải được tiến hành trên
nhiều phương diện. Trong đó, hoàn thiện pháp luật về hoạt động xuất bản là công cụ
quan trọng nhất đối với quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản. Tuy nhiên, thực tế
thời gian qua cho thấy: Bên cạnh những mặt ưu điểm, tích cực, pháp luật về quản lý
hoạt động xuất bản vẫn còn chung chung, mang tính nguyên tắc, chưa đáp ứng kịp
đòi hỏi thực tế của hoạt động xuất bản hiện nay. Văn bản pháp luật ban hành nhiều,
nhưng một số quy định còn chồng chéo, khác biệt nhau;... Chính vì vậy, tăng cường
quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản là một đòi hỏi thực tế,
khách quan, vừa có ý nghĩa cấp thiết, vừa mang ý nghĩa lâu dài góp phần bảo đảm
công tác tư tưởng chính trị trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Quản
lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay"
nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam để
nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ.
2- Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong thời gian qua, số công trình nghiên cứu được công bố về quản lý xuất
bản không nhiều. Hai đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ do Phân viện Báo chí và


4

tuyên truyền thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì tiếp cận từ góc
độ quản lý chung. Đó là đề tài: "Đổi mới phương thức xuất bản sách trong điều kiện
kinh tế thị trường" và đề tài: "Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt
động xuất bản sách ở nước ta hiện nay". Luận án Phó tiến sĩ của nghiên cứu sinh
Đường Vinh Sường về: "Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động của các nhà
xuất bản trong bước chuyển sang cơ chế thị trường"; Tiến sĩ Vũ Mạnh Chu với đề
tài: "Pháp luật về xuất bản ở Việt Nam, quá trình thực hiện và đổi mới trong điều

kiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn
Quỳnh Mai với đề tài “Thực hiện pháp luật về xuất bản sách ở Việt Nam hiện nay”;
tiểu luận tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị của tác giả Lê Bá Toàn: Thực trạng và
phương hướng tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về xuất bản ở Việt
Nam; một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí như: Pháp luật đối với hoạt động
xuất bản của Thạc sĩ Mã Duy Quân; Tăng cường lãnh đạo của Đảng, vai trò quản
lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất bản, báo chí của Thạc sĩ Mai Phi Nga,
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Nguyên với đề tài “Hoàn thiện pháp luật xuất
bản ở Việt Nam hiện nay” và một số báo cáo, công trình nghiên cứu khác.
Các công trình trên mới chỉ nghiên cứu những khía cạnh có liên quan tới quản
lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản, mà chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ cả về mặt lý luận và thực trạng về quản lý nhà nước bằng
pháp luật đối với hoạt động xuất bản ở nước ta hiện nay, nhất là trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Có thể nói, luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu tương đối hệ thống và toàn
diện vấn đề tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản
trong điều kiện Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Điều này chứng tỏ vấn đề đặt ra là cấp thiết, nhưng rất khó khăn và phức tạp.
3- Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề lý luận của việc quản lý
nhà nước bằng pháp luật trong hoạt động xuất bản, đánh giá thực trạng của hoạt


5

động này trong những năm vừa qua ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra những
phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối
với hoạt động xuất bản ở Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được những mục đích trên, luận văn đặt ra
những nhiệm vụ sau:
+ Xây dựng khái niệm và chỉ ra những đặc điểm của quản lý nhà nước bằng
pháp luật đối với xuất bản. Phân tích vai trò, nội dung của quản lý nhà nước bằng
pháp luật về xuất bản trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.
+ Đánh giá những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế cơ bản của
quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản ở nước ta trong những
năm vừa qua và chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế đó.
+ Đưa ra những quan điểm có tính định hướng và một số giải pháp cụ thể
như: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về xuất bản; kiện toàn và đổi mới phương thức
quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản; nâng cao trình độ năng
lực của đội ngũ cán bộ làm công tác xuất bản... với mục đích cuối cùng là đề xuất
biện pháp quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong
giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động xuất bản gồm ba lĩnh vực: Xuất bản; In;
Phát hành. Mỗi lĩnh vực có một vị trí, đặc trưng riêng, song không thể tách rời
nhau. Bởi thế luận văn phải nghiên cứu việc quản lý nhà nước bằng pháp luật trên
cả ba lĩnh vực này, nhưng lấy việc nghiên cứu quản lý nhà nước bằng pháp luật về
xuất bản, trong đó xuất bản sách làm trọng tâm.
Luận văn giới hạn nghiên cứu quản lý nhà nước bằng pháp luật về xuất bản
kể từ khi có Luật xuất bản năm 1993 và Luật xuất bản năm 2004 được sửa đổi, bổ
sung năm 2008 trở lại đây.
4- Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với văn hóa nói chung và hoạt động xuất bản nói riêng.



6

- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện bằng phương pháp
nghiên cứu của lý thuyết hệ thống, của chủ nghĩa duy vật lịch sử và biện chứng, các
quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoạt động xuất bản. Ngoài ra, để đạt được
mục đích nghiên cứu, đề tài còn sử dụng phương pháp nghiên cứu: phương pháp
phân tích, so sánh, thống kê tổng hợp….
5- Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật và quản lý nhà nước về
hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay, nhất là trong bối cảnh xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Mạnh dạn đưa ra một số đề xuất giải pháp nhằm góp phần làm cho hoạt
động xuất bản đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
6- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận:
Việc nghiên cứu nhằm đóng góp vào việc hoàn thiện lý luận về pháp luật xuất
bản, làm sáng tỏ vai trò và nội dung của việc thực hiện pháp luật về xuất bản trong
tình hình hiện nay và để thực hiện tốt pháp luật về xuất bản thì phải thế nào.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn sẽ góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề thực hiện pháp luật về
xuất bản cho các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực xuất bản và những người quan
tâm đến lĩnh vực này. Tác giả mong muốn đó là đóng góp thiết thực nhằm làm lành
mạnh hóa hoạt động xuất bản trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
7- Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 Chương.



7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động xuất bản
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản:
1.1.1.1. Khái niệm hoạt động xuất bản
Ngôn ngữ là vỏ bọc của tư duy, ngôn ngữ có thể tồn tại dưới nhiều hình thức
như nói, viết, cử chỉ, hình vẽ.... Việc con người sáng tạo ra chữ viết đánh dấu bước
nhảy vọt về nhận thức và tư duy của con người, nó phản ánh nhu cầu trao đổi thông
tin, phản ánh và lưu truyền các giá trị của đời sống vật chất lẫn tinh thần của mình.
Ngay khi sáng tạo ra chữ viết, con người đã có những hình thức để thể hiện trên
nhiều vật liệu như khắc trong hang đá, đất sét nung, khắc trên mai rùa, xương thú,
kim loại, tre, gỗ... và đỉnh cao của nó là “sách”. Sách được sử dụng để lưu giữ thông
tin và cũng là để lưu truyền thông tin cho nhiều thế hệ về không gian cũng như thời
gian. Do vậy, nhu cầu sao chép các thông tin của sách đã làm hình thành nên một
nghề mới là nghề xuất bản, một hoạt động trung tâm trong việc cung cấp thông tin
và khối lượng tri thức cho con người trên thế giới.
Nếu như ở Trung Quốc con người đã chế tạo ra giấy và khắc chữ trên tấm
ván để sao chép sách, thì ở Châu Âu, kỹ thuật này đã được phát triển thành máy in
bằng sắt. Kỹ thuật in bằng máy này đánh dấu cuộc cách mạng trong ngành xuất bản,
biến xuất bản trở thành một ngành kinh tế- công nghệ rất phát triển. Từ chỗ hoạt
động in ấn chỉ để phục vụ việc lưu trữ các thủ tục, lễ nghi sinh hoạt tôn giáo, luật
lệ... đã trở thành một hoạt động kinh doanh kiếm lời. Chính vì vậy, sách được thể
hiện dưới nhiều hình thức phong phú và đa dạng hơn như băng, đĩa, phim, tranh
ảnh, sách điện tử... Cùng với đó, xuất bản không chỉ đơn thuần là hoạt động để
chuyển thể ngôn ngữ, mà nó còn là tổng hợp của các hoạt động như chế bản (sáng

tạo), in ấn (thể hiện) và phát hành (truyền bá).


8

Ở Việt Nam, hoạt động xuất bản có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã
hội trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Ngay từ thời cổ và trung đại, cùng với
việc du nhập chữ Hán, Việt Nam đã sớm chế tạo ra giấy và khắc ván in. Đến giữa
thế kỷ XIX, triều Nguyễn đã biên soạn, khắc in và xuất bản nhiều bộ sách lớn về
pháp luật, lịch sử, địa lý, y học... với nhiều cơ sở in nổi tiếng từ bắc đến nam. Khi
thực dân Pháp xâm lược, nhiều nhà máy in, nhà xuất bản tư nhân đã ra đời nhằm
phục vụ cho bộ máy cai trị thực dân và phổ biến chữ quốc ngữ.
Tuy nhiên, những ảnh hưởng sâu sắc nhất đến sự phát triển của hoạt động
xuất bản ở Việt Nam là sự bủng nổ cách mạng vô sản trên thế giới và các cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc của mình. Hoạt động xuất bản trở thành vũ khí cách mạng
không thể thiếu để tuyên truyền, vận động đấu tranh dân tộc như in truyền đơn, báo
ngày đến các tác phẩm của các nhà cách mạng trong nước và thế giới đã được thể
hiện bằng chữ quốc ngữ thông qua công tác xuất bản. Từ đây, khái niệm báo chí
cách mạng cũng như xuất bản cách mạng đã được hình thành và phát triển cùng với
tiến trình phát triển tri thức nhân loại. Trải qua cuộc cách mạng tháng Tám, hai cuộc
kháng chiến chống pháp và Mỹ đến hơn 30 năm xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa, khái niệm về hoạt động xuất bản ngày càng được hoàn chỉnh.
Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng nhằm phổ biến, giới
thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc và tinh
hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao
dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, mở rộng giao lưu
văn hóa với các nước, phát triển kinh tế - xã hội, đấu tranh chống mọi tư tưởng và
hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hoạt động xuất bản là một ngành sản xuất của xã
hội, một loại quan hệ xã hội trong khuôn khổ chịu sự quản lý của nhà nước, của một

xã hội có giai cấp. Do vậy, hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo nhà nước nào sẽ tác
động đến hướng đi và nội dung của hoạt động xuất bản ở quốc gia đó. Hoạt động
xuất bản dù dưới hình thức nào cũng sẽ chịu sự quản lý của nhà nước dưới hai góc
độ: truyền bá tư tưởng và kinh doanh.


9

1.1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản
Trong thực tế, hoạt động xuất bản rất đa dạng, song về cơ bản, nó cũng là
một quan hệ xã hội đóng vai trò trung tâm trong việc cung cấp thông tin và khối
lượng tri thức cho con người. Nó liên quan đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội
nên tác động của nó đến nhận thức, tư tưởng của con người là vô cùng lớn. Bất kỳ
một nhà nước nào, một chế độ chính trị nào muốn xây dựng và củng cố bộ máy
chính quyền của mình đều phải sử dụng đến hoạt động xuất bản như một trong
những thứ công cụ hữu hiệu nhất.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản là hoạt động tự
giác có ý thức của các cơ quan nhà nước (chủ thể có thẩm quyền) tác động đến đối
tượng (các tổ chức, cá nhân tham gia xuất bản) nhằm tổ chức, điều hòa, phối hợp
các hoạt động cá nhân, bộ phận, tổ chức trong hệ thống xuất bản ở Việt Nam sao
cho ăn khớp, nhịp nhàng, cân đối để hệ thống liên tục đạt tới trạng thái cân bằng, ổn
định tương đối và có hiệu quả theo phương hướng, mục tiêu đã định. Có thể nói,
quản lý nhà nước về xuất bản vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật, đồng thời
vừa là một nghề. Nó đòi hỏi phải: Có tư duy hệ thống, tôn trọng quy luật khách quan;
nắm vững đối tượng quản lý; luôn sáng tạo, tìm tòi cái mới; có phương pháp,
phương thức, cách thức, thủ thuật, nghệ thuật để quản lý; tiến hành thực hành những
công việc cụ thể được phân công chuyên môn hóa trong hệ thống lao động xã hội.
Đây là nghề cần có kiến thức chuyên sâu; có kỹ năng công việc thành thạo; người
tham gia quản lý phải được đào tạo chu đáo; được rèn luyện trong thực tiễn; tâm
đắc với nghề; trong nghề quản lý luôn có thứ bậc, mỗi vị trí công việc cần có hệ

thống tiêu chuẩn nghề nghiệp đầy đủ, chặt chẽ. Quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động xuất bản bao giờ cũng có tính hai mặt gắn bó với nhau: (a) mặt tổ
chức - công nghệ - kỹ thuật: là xác lập và duy trì hợp lý một cơ cấu tổ chức và cơ
chế quản lý để đảm bảo cho hoạt động xuất bản của đất nước vận hành ổn định, cân
đối thông suốt theo phương hướng, mục tiêu đã định; (b) mặt kinh tế - chính trị - xã hội:
là thực hiện đường lối chính trị của Đảng, Nhà nước và lợi ích của nhân dân lao động.


10

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật nên pháp luật còn được coi là
phương tiện mà nhà nước sử dụng để quản lý xã hội. Có thể nói, hầu hết các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội đều được
nhà nước quản lý bằng pháp luật. Với những thuộc tính của mình, pháp luật là công
cụ quản lý xã hội quan trọng bậc nhất trong xã hội có giai cấp. Do vậy, chỉ quản lý
bằng pháp luật trên các lĩnh vực quan trọng đó của đời sống xã hội thì mục đích
việc quản lý mới đạt được và có hiệu quả cao. Các nhà nước cần quản lý xã hội
bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế. Điều 12, Hiến pháp năm 1992,
sửa đổi, bổ sung năm 2001 cũng đã ghi nhận: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Trong những năm qua, hoạt động xuất bản ở Việt Nam đã từng bước thích
ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững định hướng chính
trị trong quá trình phát triển, ổn định hệ thống tổ chức, có bước phát triển đáng kể
về lực lượng và năng lực hoạt động, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đa dạng ngày càng
cao về xuất bản phẩm của toàn xã hội, góp phần làm ổn định chính trị - xã hội, nâng
cao dân trí, phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá của đất nước.... Nhưng bên cạnh đó,
hoạt động xuất bản cũng gặp rất nhiều những khó khăn, thách thức, đòi hỏi công tác
quản lý nhà nước phải được chú trọng mà tập trung vào việc sử dụng công cụ quản
lý bằng pháp luật là quan trọng nhất và hiệu quả nhất.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về xuất bản là toàn bộ hoạt động của bộ

máy nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật xuất bản để điều chỉnh mọi hoạt động trong
lĩnh vực xuất bản, bảo đảm cho hoạt động xuất bản phát triển đúng định hướng và
có hiệu quả. Điều này cũng góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cụ thể là hoạt động của
cả ba hệ thống cơ quan nhà nước: cơ quan quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính
nhà nước; cơ quan tư pháp.
Đối với cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội ban hành các văn bản pháp
luật xuất bản, như: Luật xuất bản; các nghị quyết về xuất bản. Đồng thời, dựa trên
các quy định của pháp luật, Quốc hội thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước đối


11

với xuất bản, như: thực hiện quyền quyết định, giám sát tối cao đối với hoạt động
xuất bản; quyết định các kế hoạch và chính sách phát triển sự nghiệp xuất bản trong
phạm vi cả nước...
Đối với cơ quan hành chính: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt
động xuất bản trong phạm vi cả nước. Để quản lý nhà nước bằng pháp luật về xuất
bản, Chính phủ đã ban hành các văn bản dưới luật như: Nghị quyết, Nghị định,
Quyết định, Chỉ thị về xuất bản. Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm
giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản; các
Bộ, cơ quan ngang Bộ phối với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý
nhà nước về hoạt động xuất bản theo thẩm quyền; ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực
hiện quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản tại địa phương theo sự phân cấp của
Chính phủ.
Đối với cơ quan tư pháp: Viện kiểm sát nhân dân tham gia quản lý nhà nước
về xuất bản thông qua hoạt động điều tra để xử lý hành vi vi phạm pháp luật xuất
bản gây hậu quả nghiêm trọng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tòa án nhân dân
xét xử các hành vi vi phạm pháp luật xuất bản đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình
sự và các tranh chấp về quyền tác giả theo quy định của pháp luật.

Có thể nói, quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản là
việc nhà nước ban hành và áp dụng các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong hoạt động xuất bản, in ấn và phát hành, nhằm phục vụ
nhiệm vụ chính trị, tư tưởng, đáp ứng nhu cầu đọc của nhân dân, đồng thời thực
hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh, xây dựng ngành xuất bản thành một ngành kinh tế công nghệ phát triển toàn diện, vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật về xuất bản là hoạt động của
Chính phủ, các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các cơ quan
quản lý chuyên môn về xuất bản trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật xuất bản (văn bản dưới luật), dựa trên cơ sở pháp luật để quản lý hoạt động
xuất bản như: đăng ký kế hoạch xuất bản; nhận, đọc, kiểm tra nội dung xuất bản
phẩm lưu chiểu; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển sự


12

nghiệp xuất bản... đồng thời, thực hiện kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại tố
cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động xuất bản.
Như vậy, để nghiên cứu và đưa ra các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước
bằng pháp luật về xuất bản một cách toàn diện dưới góc độ lý luận chung về Nhà
nước và pháp luật, khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về xuất bản sẽ được
nghiên cứu trên ba hoạt động chính của xuất bản là xuất bản, in ấn và phát hành.
1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản
Xuất phát từ những đặc trưng của hoạt động xuất bản và tính tất yếu của việc
quản lý nhà nước đối với hoạt động này, có thể thấy việc quản lý nhà nước bằng
pháp luật đối với hoạt động xuất bản bao gồm những đặc điểm sau đây:
1.1.2.1 Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản phải
đầy đủ, toàn diện
Quản lý nhà nước phải bao quát được các lĩnh vực của hoạt động xuất bản, in
ấn, và phát hành. Có nghĩa là mọi quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động xuất bản
nói chung đều phải có sự điều chỉnh của pháp luật.

Quan hệ xã hội trong hoạt động xuất bản bao gồm các quan hệ giữa các cơ
quan quản lý nhà nước với chủ thể đứng đầu nhà xuất bản như: cấp phép kinh
doanh, báo cáo, xử lý vi phạm; quan hệ giữa đại diện nhà xuất bản và các tác giả với
các vấn đề về bản quyền, nhuận bút; quan hệ giữa nhà xuất bản với cơ sở in; quan
hệ giữa nhà xuất bản với cơ sở phát hành và độc giả... Ba lĩnh vực nói trên của hoạt
động xuất bản có quan hệ mật thiết với nhau. Để tạo ra một ấn phẩm xuất bản, hoạt
động xuất bản có vai trò quan trọng nhất vì nó quyết định nội dung và ý tưởng về
hình thức của ấn phẩm thông qua việc sưu tầm tài liệu, biên tập nội dung theo kế
hoạch xuất bản. Nhưng để từ ý tưởng và nội dung đó hình thành nên ấn phẩm xuất
bản lại cần phải thông qua việc in ấn (đối với sách) và kỹ thuật (đối với ấn phẩm
điện tử). Hơn nữa, mục đích của xuất bản là truyền tải thông tin đến người đọc
(nghe, xem) nên nếu chỉ dừng ở đây, tác phẩm sẽ không có giá trị thực tiễn. Phát
hành chính là khâu cuối cùng, là cầu nối giữa tác giả, nhà xuất bản và người đọc.


13

Có thể nói, để đạt được kết quả đưa thông tin đến người đọc, lưu truyền được
ấn phẩm cũng như việc truyển bá tư tưởng của chế độ chính trị trong các tầng lớp
nhân dân, cả ba lĩnh vực hoạt động xuất bản trên không thể thiếu một khâu nào. Nhà
nước muốn đạt được hiệu quả quản lý xã hội của mình sẽ phải bao quát được hết
các mối quan hệ pháp luật phát sinh trong các lĩnh vực đó.
1.1.2.2 Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản đảm
bảo lợi ích của Nhà nước và của nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, giữa nhà nước và cá nhân có chung lợi
ích, nên có sự thống nhất về quyền và nghĩa vụ pháp lý. Các giá trị của cá nhân
người lao động được đề cao, được tôn trọng; các quyền, tự do của người lao động
ngày càng được mở rộng, được nhà nước và xã hội ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
Các mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân được pháp luật điều chỉnh, nói cách
khác, là các quan hệ đó hình thành và phát triển trên cơ sở pháp luật.

Có thể nói, Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân nên cả nhà nước cũng như cá nhân đều luôn quan tâm tới việc tôn
trọng, thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật, không ngừng tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Quan hệ giữa nhà nước và cá nhân là sự tôn trọng và vì
nhau dựa trên các nguyên tắc của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do vậy, quản lý nhà
nước đối với hoạt động xuất bản phải được xây dựng trên nền tảng các chủ trương,
đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, phản ánh chính xác lợi ích của
quần chúng nhân dân.
Hoạt động xuất bản cũng là một lĩnh vực đời sống xã hội được điều chỉnh
bằng pháp luật. Do vậy, việc thực hiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này luôn
phải đảm bảo hài hòa được lợi ích của Nhà nước và của nhân dân, là động lực để
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.1.2.3 Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản đồng
thời thực hiện trên hai góc độ truyền bá tư tưởng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh
Với thuộc tính là hoạt động văn hóa - tư tưởng, hoạt động sản xuất kinh
doanh, xuất bản chịu sự tác động đồng thời của hệ thống các quy luật phát triển văn


14

hóa và hệ thống các quy luật kinh tế. Do tính chất phức tạp như vậy, nên yêu cầu
quản lý nhà nước bằng pháp luật được đặt ra bức thiết hơn. Quản lý nhà nước bằng
pháp luật phải mở đường cho tự do sáng tạo, đồng thời phải ngăn chặn những độc
hại, tiêu cực do xuất bản gây ra đối với văn hóa, tư tưởng; phải định hướng cho xuất
bản phát triển theo đúng quy luật kinh tế, ngăn ngừa những tác hại từ mặt trái của
cơ chế thị trường. Trong quản lý nhà nước bằng pháp luật, nếu chúng ta coi xuất
bản như các tổ chức kinh tế đơn thuần sẽ dẫn đến tình trạng hoạt động xuất bản bị
thương mại hóa, chỉ chạy theo lợi nhuận kinh doanh; ngược lại, nếu chúng ta chỉ đề
cao vai trò của xuất bản ở phương diện văn hóa, tư tưởng sẽ dẫn đến khả năng bất
chấp quy luật kinh tế. Như vậy, hoạt động xuất bản sẽ phá sản trong điều kiện kinh

tế thị trường.
Có thể nói, quản lý nhà nước bằng pháp luật về xuất bản là quản lý hoạt động
kinh tế trong văn hóa, tư tưởng, đồng thời quản lý hoạt động văn hóa, tư tưởng
trong cơ chế thị trường. Đó là hai mặt của một số vấn đề phải được quản lý một
cách hài hòa, đảm bảo cho xuất bản hoạt động đúng quy luật, phát triển theo trật tự
của pháp luật.
1.1.2.4. Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản phải
hội nhập nhưng vẫn duy trì và bảo tồn bản sắc văn hóa của dân tộc
Trong bối cảnh hội nhập, giao lưu văn hóa giữa các vùng miền, các quốc gia là
một tất yếu. Trong khi đó, mỗi dân tộc có cội nguồn, có truyền thống riêng, được
phản chiếu lên tấm gương văn hóa. Nó là gia sản quá khứ, tạo nên dòng chảy cho
hiện tại và tương lai dân tộc. Vì vậy, việc bảo tồn, kế thừa, phát triển những giá trị
trong di sản văn hóa dân tộc là quốc sách, được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến
pháp của Việt Nam từ trước đến nay. Nhà nước khuyến khích và bồi dưỡng tài năng
nghiên cứu, sáng tạo ra các giá trị tinh thần mới, làm giàu vốn văn hóa dân tộc. Đồng
thời, trao vào tay họ các quyền cao cả mang tính nhân văn sâu sắc trong hoạt động
văn hóa nói chung và xuất bản nói riêng. Và cũng vì vậy, quản lý nhà nước bằng
pháp luật về xuất bản đã đưa ra các chế tài nghiêm khắc đối với những hành vi truyền


15

bá xuất bản phẩm có nội dung trái với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của dân tộc, nhằm bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhu cầu giao lưu văn hóa, tiếp thu tinh hoa từ các nền văn hóa của nhân loại
là nhu cầu của bản thân nền văn hóa dân tộc. Mặt khác, trong thời đại bùng nổ
thông tin hiện nay, với sự phát triển nhảy vọt của Internet, của khoa học và công
nghệ, thì việc nhận thức và ứng dụng các tiến bộ mới của khoa học là đòi hỏi bức
thiết. Mỗi dân tộc phải biết làm giàu bởi trí thức của nhân loại. Điều đó chỉ được
thực hiện khi nhà nước trao cho các chủ thể được xác định các quyền và nghĩa vụ

trong các quan hệ quốc tế về xuất bản.
Nhà nước và xã hội phải bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân
tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại; phát huy mọi tiềm năng sáng tạo trong nhân dân. Trên cơ sở đó, pháp
luật về xuất bản sẽ đóng vai trò tạo ra thiết chế bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại thông qua ấn phẩm được xuất bản.
Qua đó, còn là điều kiện thuận lợi cho sự sáng tạo, đồng thời ngăn chặn những
luồng văn hóa độc hại; định hướng cho văn hóa phát triển, ngăn chặn các tác hại từ
mặt trái kinh tế thị trường làm ảnh hưởng đến định hướng văn hóa - tư tưởng trong công
tác xuất bản sách.
1.2. Nội dung, hình thức quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động xuất bản
Như đã nói ở trên, hoạt động xuất bản gồm ba lĩnh vực chính là: hoạt động
xuất bản, in ấn và phát hành. Như vậy, tương ứng với mỗi loại hoạt động này, Nhà
nước với vai trò quản lý sẽ sử dụng các quy định pháp luật về xuất bản để điều
chỉnh các hoạt động này theo quy trình và nội dung thích hợp với mục đích đảm bảo
tính pháp chế cao nhất.
1.2.1. Đối với hoạt động xuất bản:
Hoạt động xuất bản được coi là một khâu quan trọng nhất quyết định đến nội
dung cũng như hình thức của ấn phẩm được xuất bản. Đó là việc tổ chức, khai thác


16

bản thảo, biên tập thành bản mẫu, in và phát hành hoặc để biên tập, phát hành trực
tiếp qua các phương tiện điện tử. Quản lý nhà nước đối với hoạt động này được
thực hiện thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách phát triển hoạt động xuất bản; ban hành theo thẩm quyền văn bản
quy phạm pháp luật về hoạt động xuất bản và bản quyền tác giả trong hoạt động

xuất bản. Chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực xuất bản được thể hiện trên các
góc độ: Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện xây dựng ngành xuất
bản trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật phát triển toàn diện; Nhà nước có chính sách
đặt hàng đối với xuất bản phẩm về lý luận, chính trị; xuất bản phẩm phục vụ thiếu
niên, nhi đồng, đồng bào dân tộc thiểu số, người khiếm thị; xuất bản phẩm cần phổ
biến rộng rãi nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị, xã hội trọng yếu và thông tin đối
ngoại; trợ cước vận chuyển đối với xuất bản phẩm cho vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; xuất bản
phẩm phục vụ nhiệm vụ thông tin đối ngoại; xuất bản phẩm phục vụ đồng bào miền
núi, hải đảo; Nhà nước mua bản thảo đối với những tác phẩm có giá trị nhưng thời
điểm xuất bản chưa thích hợp hoặc đối tượng sử dụng hạn chế; hỗ trợ mua bản
quyền đối với tác phẩm trong nước và nước ngoài có giá trị phục vụ phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội.
Riêng đối với xuất bản ấn phẩm điện tử, Nhà nước hỗ trợ kinh phí đầu tư xây
dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ - kỹ thuật tiên tiến cho nhà
xuất bản để xuất bản xuất bản phẩm điện tử; Xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu
đặc tả của xuất bản phẩm điện tử nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm,
truy nhập, quản lý và lưu trữ xuất bản phẩm điện tử.
Để quản lý nội dung xuất bản, Nhà nước sử dụng quyền lực của mình thông
qua việc ban hành các văn bản quy phạm quy định quy trình tổ chức đọc, kiểm tra,
thẩm định xuất bản phẩm lưu chiểu. Đồng thời, đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ về hoạt động xuất bản để nâng cao trình độ của đội ngũ biên tập, kỹ thuật
viên. Nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ trong hoạt động xuất bản.
Hoạt động xuất bản cũng là một loại hình kinh doanh, do vậy để hoạt động
này nằm trong khuôn khổ quản lý của Nhà nước, việc cấp, thu hồi các loại giấy


17

phép trong hoạt động xuất bản phải được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền của
Nhà nước. Và tất yếu, những yêu cầu về báo cáo thông tin, thống kê cũng như việc

thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt
động xuất bản là một trong nhưng hoạt động không thể thiếu của quản lý nhà nước.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản còn là việc ban hành các quy
định về việc bảo đảm về quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm
thông qua Nhà xuất bản và quy định không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được
lợi dụng quyền phổ biến tác phẩm để làm thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Các quy định về quyền tác giả tác phẩm văn
học, nghệ thuật và khoa học như khái niệm tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, những
người tham gia vào quan hệ quyền tác giả với tư cách là người sử dụng tác phẩm
thông qua hợp đồng hoặc sử dụng tác phẩm theo quy định khác của pháp luật; xác
định khách thể quyền tác giả bao gồm khái niệm và đặc điểm, phân loại tác phẩm,
những loại hình tác phẩm mà pháp luật cấm phổ biến, không được Nhà nước bảo
hộ; xác định nội dung quyền tác giả bao gồm các quyền của chủ thể tham gia quan hệ
quyền tác giả với 2 nhóm quyền cơ bản là quyền nhân thân và quyền tài sản.
1.2.2. Đối với hoạt động in ấn:
In ấn là việc sử dụng thiết bị kỹ thuật in để tạo ra xuất bản phẩm từ bản mẫu.
Đây là bước thứ hai trong quá trình tạo ra một xuất bản phẩm. Quản lý nhà nước đối
với hoạt động này được thực hiện thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển hoạt động xuất bản. Cụ thể
là, hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng, chuyển
giao công nghệ - kỹ thuật tiên tiến cho cơ sở in phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh,
quốc phòng, thông tin đối ngoại và cơ sở in tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên
giới, hải đảo. Nhà nước cũng có chính sách ưu đãi về tiền thuê đất để làm nhà
xưởng và lãi suất vay vốn cho cơ sở in phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc
phòng, thông tin đối ngoại và cơ sở in tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo.
Bên cạnh nhiệm vụ chính trị nói trên, trong kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, các cơ sở in dù là của Nhà nước hay tư nhân cũng đều có thể có chức
năng kinh doanh trong phạm vi giấy phép được cấp khi thành lập. Người đại diện
theo pháp luật của cơ sở in cũng có quyền hạn và thực hiện những nghĩa vụ nhất
định theo quy định của pháp luật như: quyền tự do kinh doanh, quyền được pháp



18

luật bảo vệ khi có xâm phạm về lợi ích, nghĩa vụ về thuế, thông tin, báo cáo... Việc
cấp, thu hồi các loại giấy phép của các cơ sở in, nghĩa vụ về thuế được coi là một
trong những lĩnh vực quản lý kinh doanh của Nhà nước, chịu sự điều chỉnh của các
quy phạm pháp luật tương ứng.
Hoạt động in cũng là một hoạt động dễ vi phạm về bản quyền tác giả, mà vấn
nạn hiện nay là việc in lậu sách tràn lan. Do vậy, quản lý nhà nước đối với hoạt
động này là phải ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật để bảo vệ
quyền tác giả, nội dung in, chất lượng bản in của tác phẩm. Khi một cơ sở in vi
phạm pháp luật thì việc cơ quan thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động in chính là thực hiện chức năng quản lý
nhà nước của mình.
Ngoài những đặc thù của ngành nghề in, hoạt động in cũng cần ứng dụng
công nghệ tiên tiến để đảm bảo chất lượng của ấn phẩm. Hoạt động này cũng chịu
sự điều chỉnh của pháp luật nói chung về hợp tác quốc tế trong hoạt động in, pháp
luật về bảo vệ môi trường...
1.2.3. Đối với hoạt động phát hành:
Phát hành là việc thông qua một hoặc nhiều hình thức mua, bán, phân phát,
tặng, cho, cho thuê, cho mượn, xuất khẩu, nhập khẩu, hội chợ, triển lãm để đưa xuất
bản phẩm đến người sử dụng. Đây là khâu trung gian, là cầu nối giữa nhà sản xuất
(tác giả, nhà xuất bản) đến người tiêu dùng. Quản lý nhà nước đối với hoạt động
này được thực hiện thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển hoạt động phát hành như: Ưu tiên đầu tư quỹ
đất và kinh phí xây dựng cơ sở vật chất cho hệ thống cơ sở phát hành xuất bản
phẩm tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa,
miền núi, biên giới, hải đảo; Hỗ trợ cước vận chuyển xuất bản phẩm phục vụ nhiệm
vụ, đối tượng và địa bàn; Hỗ trợ kinh phí tổ chức hoạt động quảng bá văn hóa, đất

nước, con người Việt Nam thông qua xuất bản phẩm; tổ chức triển lãm, hội chợ
xuất bản phẩm trong và ngoài nước; Ưu đãi tiền thuê đất, thuê nhà thuộc sở hữu nhà
nước; lãi suất vay vốn đối với cơ sở phát hành xuất bản phẩm.
Cơ sở thực hiện công tác phát hành có thể hoạt động đồng hành hoặc độc lập
với việc xuất bản và in ấn. Nó vừa có nghĩa vụ công ích vừa có thể là hoạt động


19

kinh doanh. Do vậy, đây cũng là một lĩnh vực ngành nghề cần được cấp, thu hồi các
loại giấy phép kinh doanh.
1.3. Vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản
1.3.1. Tạo lập môi trường tự do, bình đẳng cho các chủ thể trong hoạt động
xuất bản
Từ khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng và Nhà nước ta
luôn thực thi chính sách nhất quán, đặc biệt coi trọng quyền tự do, dân chủ của nhân
dân, trong đó có quyền tự do xuất bản, tự do ngôn luận… Nhiều văn bản pháp luật
lần lượt ra đời nhằm xây dựng một hành lang pháp lý hoàn chỉnh, tạo môi trường
thuận lợi cho hoạt động xuất bản phát triển đúng hướng, trên nền tảng luật pháp.
Trong điều kiện ngày nay, khi mà chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh tiến trình
đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trên nguyên
tắc bảo đảm xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì hoạt động xuất bản phải khẳng
định vai trò và vị trí quan trọng của mình trong việc đảm bảo quyền tự do sáng tác,
tự do ngôn luận và quyền tự do kinh doanh của công dân trên tinh thần công dân
được làm những gì mà pháp luật không cấm.
Pháp luật quy định phạm vi, mức độ mà các thành phần kinh tế tham gia vào
hoạt động xuất bản, về các nội dung cấm không được xuất bản, về chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển xuất bản, về quyền và nghĩa vụ pháp lý của các cơ
quan quản lý xuất bản và các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xuất bản và cùng

nhiều nội dung khác trở thành cơ sở pháp lý để Nhà nước thực hiện quản lý hoạt
động xuất bản bằng pháp luật, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành
vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động xuất bản, thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vì vậy, để đảm bảo sự công bằng cho các
chủ thể khi tham gia vào hoạt động xuất bản, Nhà nước quy định các quyền và
nghĩa vụ cụ thể của từng chủ thể như Nhà xuất bản, các cơ quan, tổ chức liên kết
xuất bản, nhà xuất bản trong nước với ngoài nước, tất cả đều bình đẳng trước pháp


20

luật. Các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài được xuất bản các tài liệu, tác phẩm
tại Việt Nam. Điều đó có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy quá trình hội nhập, hợp tác
quốc tế của Việt Nam diễn ra thuận lợi.
1.3.2. Bảo vệ lợi ích hợp pháp của những người sáng tạo ra tác phẩm văn
học, nghệ thuật và khoa học
Vì lĩnh vực xuất bản có vai trò quan trọng và xuất bản phẩm là một loại
“hàng hóa đặc biệt” trong đời sống xã hội nói chung, văn hóa tinh thần nói riêng,
các quan hệ xã hội trong hoạt động xuất bản rất đa dạng, phong phú và phức tạp, nó
đan xen giữa văn hóa - tư tưởng với kinh tế, giữa lao động sáng tạo của tư duy với
lao động sản xuất vật chất, nó xuyên suốt quá trình sản xuất - lưu thông và tiêu dùng
xuất bản phẩm.
Nhu cầu về tự do sáng tạo trong việc sáng tác, công bố và phổ biến tác phẩm
là một đòi hỏi khách quan. Tuy nhiên, sự sáng tạo đó phải vì lợi ích xã hội, vì lợi ích
cộng đồng, trong khuôn khổ pháp luật. Pháp luật quy định những gì được phép làm
đối với các cơ quan nhà nước, nhằm ngăn chặn các hành vi lạm dụng, xâm hại đến
quyền tự do sáng tạo. Đồng thời, pháp luật đề ra các nghĩa vụ tương ứng cho các chủ
thể của hoạt động sáng tạo và quản lý. Đó là hành lang pháp lý, là "cái khung" do
pháp luật tạo lập. Như vậy, quản lý nhà nước bằng pháp luật tạo ra môi trường thuận

lợi, tin cậy để bảo vệ lợi ích hợp pháp của những người sáng tạo ra các tác phẩm văn
học, nghệ thuật và khoa học.
Với vai trò là phương tiện bảo vệ lợi ích hợp pháp của những người bằng lao
động của mình đã sáng tạo ra tác phẩm. Các quy định về quyền của người sáng tạo,
người quản lý và cả nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ các quyền đó, cùng với các quy
định về cơ chế đảm bảo thực hiện, là cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ quyền sở hữu tác
phẩm. Các tác giả được Nhà nước tạo “phương tiện” để đấu tranh bảo vệ lợi ích chính
đáng của mình. Các tranh chấp về quyền tác giả, các hành vi xâm hại lợi ích vật chất
và tinh thần của tác giả được xét xử tại Tòa án dân sự. Như vậy, thông qua việc bảo
hộ quyền tác giả, Nhà nước tiếp tục khuyến khích năng lực sáng tạo của văn nghệ sĩ,
trí thức để có nhiều sản phẩm văn hóa tinh thần có giá trị phục vụ xã hội.


21

1.3.3. Bảo vệ người tiêu dùng
Xuất bản phẩm là hàng hóa. Thị trường xuất bản phẩm là nơi phản ánh mối
quan hệ giữa người mua và người bán. Ở đó, các giá trị của hàng hóa xuất bản phẩm
được thực hiện. Song, xuất bản phẩm không phải là hàng hóa thông thường, nó
mang trong mình những thuộc tính đặc thù, nó có vai trò quan trọng cho sự phát
triển của xã hội, trước hết là việc nâng cao dân trí. Tuy nhiên, khuynh hướng phát
triển tự phát cố hữu của nền kinh tế thị trường sẽ dẫn đến khả năng mất cân đối
cung cầu, gây thiệt hại không riêng cho doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích
của người tiêu dùng. Cùng với đó, những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường
sẽ kéo các đơn vị xuất bản chỉ chú ý đến việc xuất bản và phân phối xuất bản phẩm
ở những lĩnh vực và những khu vực có khả năng phát sinh lợi nhuận cao. Ý nghĩa
xã hội và nhiệm vụ chính trị theo đó sẽ bị hạn chế. Vì thế, để phát triển văn hóa đọc,
định hướng thị hiếu độc giả đến với những mảng xuất bản phẩm có giá trị giáo dục,
thẩm mỹ, ngăn chặn những khuynh hướng lệch lạc, làm thiệt hại đến lợi ích người
tiêu dùng, hạn chế mức chênh lệch hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, tạo điều

kiện để người dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi và hải đảo tiếp cận
được với xuất bản phẩm phù hợp, có chất lượng, pháp luật xuất bản quy phạm hóa
các tiêu chuẩn về nội dung, thẩm mỹ, kỹ thuật của xuất bản phẩm, ngăn chặn được
những xuất bản phẩm có nội dung “độc hại”, bất lợi về chính trị, kinh tế, văn hóa.
1.3.4. Bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động xuất bản
Quản lý nhà nước bằng pháp luật luôn luôn là phương tiện triển khai thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng trong quản lý nhà nước đối với bất kỳ lĩnh vực
nào. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về xuất bản triển khai thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng trong quản lý nhà nước về xuất bản.
Mặc dù, từng thời kỳ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất
nước, Đảng ta có những thay đổi trong chủ trương, đường lối trong quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với xuất bản, song định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt
động xuất bản luôn là kim chỉ nam cho công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.


22

Dù dưới hình thức chủ trương, đường lối của Đảng hay được cụ thể hóa dưới
dạng văn bản pháp quy, quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất
bản luôn thể hiện mục tiêu đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi
ích quốc gia, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Hoạt động xuất bản luôn là kênh thông tin quan trọng để tuyên truyền đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần ổn định
chính trị, phát triển văn hóa và kinh tế, nâng cao dân trí, đời sống tinh thần của nhân
dân. Do đó, tăng cường quản lý nhà nước nói chung và tăng cường quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản là vấn đề cấp thiết luôn được Đảng
và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm để hoạt động này luôn đảm bảo đi đúng định hướng
xã hội chủ nghĩa.
1.4. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với hoạt

động quản lý bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi ra đời đến nay, sau
67 năm xây dựng và hoàn thiện, Nhà nước ta ngày càng thể hiện rõ những phẩm chất
và đặc trưng của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Đó là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, được xây dựng, tổ
chức và hoạt động trên cơ sở những quy định của Hiến pháp, pháp luật và vận hành
trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Nhà nước pháp quyền là một thành tựu to lớn
của lịch sử phát triển lâu dài của nhân loại. Trên cơ sở những tư tưởng vĩ đại của các
nhà tư tưởng và thực tiễn vận động của lịch sử, nhà nước pháp quyền đã từng bước
hình thành, phát triển ngày càng mạnh mẽ và rộng khắp ở nhiều quốc gia. Nhìn lại tiến
trình phát triển của nhà nước pháp quyền trong lịch sử, ta có thể nêu một số đặc trưng
cơ bản của nhà nước pháp quyền như sau: Nhà nước pháp quyền là một tổ chức chính
trị, là cơ quan quyền lực của nhân dân; trong nhà nước pháp quyền, pháp luật mang
tính tối thượng, pháp luật đó thể hiện ý chí chung của nhân dân và vì lợi ích của nhân
dân; nhà nước pháp quyền bảo đảm quyền tự do, dân chủ của nhân dân; mọi hoạt động
của nhà nước pháp quyền đều nhằm thực hiện quyền lợi của nhân dân và nhân dân phải


×