Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Vai trò của tòa án nhân dân quận, huyện trong công tác thi hành án hình sự trên địa bàn thành phố hà nội hiện nay một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.46 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CỒ KHẮC ĐAM

VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN
TRONG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VĂN ĐỘNG

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện luận văn này, tôi đã
nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, gia đình,
các anh chị em và các bạn. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc
tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
Ban giám hiệu, Khoa sau đại học, Bộ môn lý luận trường Đại
học Luật Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập và hoàn thành luận văn.


Phó giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Văn Động, người thầy đã hết
lòng giúp đỡ, dạy bảo, động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã dạy dỗ và cho tôi những
đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và các anh chị trong
lớp Cao học Lý luận 19A đã luôn ở bên cạnh động viên và giúp đỡ
tôi học tập làm việc và hoàn thành luận văn.
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Tác giả luận văn.


MỤC LỤC
TRANG
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN

7

NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN TRONG CÔNG TÁC THI HÀNH
ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
1.1. Công tác thi hành án hình sự trong phạm vi quận, huyện của

7

Thành phố Hà Nội hiện nay: khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai

trò của Toà án nhân dân quận, huyện
1.1.1. Khái niệm “công tác thi hành án hình sự trong phạm vi quận,

7

huyện” và những đặc điểm cơ bản
1.1.2. Nội dung công tác thi hành án hình sự trên địa bàn quận, huyện

12

của Thành phố Hà Nội
1.1.3. Nội dung vai trò của Toà án nhân dân quận, huyện trong công tác

39

thi hành án hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội
1.2. Những điều kiện bảo đảm thực hiện vai trò của Toà án nhân

42

dân quận, huyện trong công tác thi hành án hình sự trên địa bàn
Thành phố Hà Nội
1.2.1. Điệu kiện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hoá và xã hội

42

1.2.2. Điều kiện về tổ chức, bộ máy, trình độ và năng lực của cán bộ

44


Toà án quận, huyện
1.2.3. Điều kiện về pháp luật và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ Toà
án quận, huyện

46


1.3. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc nâng cao vai trò của Toà án
nhân dân quận, huyện trong công tác thi hành án hình sự trên địa
bàn Thành phố Hà Nội

49

Kết luận Chương 1

51

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI
TRÒ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN TRONG CÔNG
TÁC THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
HÀ NỘI HIỆN NAY

53

2.1. Thực trạng vai trò của Toà án nhân dân quận, huyện trong
công tác thi hành án hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội

53

2.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân


53

2.1.2. Nhược điểm và nguyên nhân

60

2.2. Những giải pháp nâng cao vai trò của Toà án nhân dân quận,
huyện trong công tác thi hành án hình sự trên địa bàn Thành phố
Hà Nội

67

2.2.1. Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Toà án quận, huyện của Thành phố
Hà Nội

67

2.2.2. Về kiện toàn bộ máy thực hiện công tác thi hành án hình sự của
TAND quận, huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội

70

2.2.3. Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự

71

2.2.4. Về những điều kiện bảo đảm thực hiện vai trò của cán bộ Toà án
quận, huyện trong công tác thi hành án hình sự của Thành phố Hà Nội


77

Kết luận của Chương 2

79

KẾT LUẬN CHUNG

81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước nhằm
đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân
(TAND) ra thi hành trên thực tế. Thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng
trong hoạt động tố tụng của các cơ quan thực thi pháp luật, nhằm buộc người
bị xử phạt tù phải chấp hành hình phạt mà Toà án đã quyết định. Một bản án,
quyết định của Toà án có được thi hành nghiêm chỉnh hay không tuỳ thuộc
chủ yếu vào giai đoạn này. Nếu người chấp hành án không tự nguyện chấp
hành án hoặc bỏ trốn thì việc kết tội họ chỉ trên văn bản, còn nếu họ tự
nguyện nghiêm chỉnh chấp hành thì trật tự kỷ cương xã hội và quyền lực nhà
nước được tôn trọng. Thực tế hiện nay có nhiều bản án, quyết định hình sự có
hiệu lực pháp luật vẫn chưa được thi hành do nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân xuất phát từ phía người chấp hành án hoặc từ các cơ quan thi
hành pháp luật hay từ các quy định của pháp luật. Trước tình hình đó, một câu
hỏi đặt ra là phải làm gì và làm như thế nào để các bản án, quyết định hình sự
của Toà án có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, triệt để trên
thực tế. Đó cũng là vấn đề đáng lo ngại của các cơ quan thực thi pháp luật và
là mối quan tâm của toàn xã hội.

Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, công cuộc đổi mới do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan trọng trên nhiều
lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước đã có nhiều
khởi sắc, được nhân dân ta và quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành quả đã đạt được, vẫn còn không ít sơ hở, yếu kém trong quản lý
kinh tế, quản lý xã hội; tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng và diễn
biến phức tạp, đặc biệt là tình trạng phạm tội có tổ chức như tham nhũng,
1


buôn lậu, mua bán phụ nữ, xâm hại trẻ em... phạm tội có sử dụng bạo lực,
cướp của giết người, chống người thi hành công vụ, đâm thuê, chém mướn,
bảo kê nhà hàng và các hành vi phạm tội khác có tính chất côn đồ hung hãn,
gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng, gây lo lắng cho toàn xã hội.
Công tác thi hành án hình sự đã góp phần quan trọng vào việc giữ gìn
trật tự, kỷ cương xã hội, cải tạo được nhiều người phạm tội, giúp đỡ họ tái hòa
nhập cộng đồng. Bên cạnh những đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm, thực tiễn thi hành án phạt tù cũng đã đặt ra nhiều vấn
đề vướng mắc đòi hỏi khoa học thi hành án hình sự phải nghiên cứu, giải
quyết để làm sáng tỏ về mặt lý luận như khái niệm thi hành án hình sự, vai trò
của Toà án trong công tác thi hành án hình sự... Trong khi đó, xung quanh
những vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành án hình sự còn nhiều ý kiến
tranh luận khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc chọn chủ đề "Vai trò của Toà án nhân dân quận, huyện
trong công tác thi hành án hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện
nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học
nhằm giải quyết các vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn thi hành án
hình sự, góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành án hình
sự, hướng dẫn thống nhất áp dụng các quy định, đang trở nên cấp thiết vừa có
tính lý luận vừa có giá trị thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thi hành án phạt tù là vấn đề đã được nhiều nhà luật học trong nước
quan tâm nghiên cứu.
- Những vấn đề cần lưu ý về việc ra quyết định thi hành án hình sự của
Đỗ Văn Chính đăng trên Tập san Toà án nhân dân, Số 6/2000, tr.1 - 3 là bài
2


viết cung cấp những kỹ năng và những lưu ý trong quá trình ra quyết định thi
hình án hình sự.
- Những vấn đề cấp bách về lý luận và thực tiễn trong thi hành án hình
sự của Hoàng Ngọc Nhất đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/2001,
tr. 41 và Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về chính sách thi hành án hình sự
của PGS.TSKH. Lê Cảm đăng trên Tạp chí kiểm sát. Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, số 10/2006, tr. 3 - 12 đã cung cấp một cách nhìn khái quát và hoàn
thiện vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành án hình sự trong điều kiện Việt
Nam chưa có Luật thi hành án hình sự thống nhất như hiện nay.
- Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn của Võ Khánh Vinh, Nguyễn Mạnh Kháng (chủ biên), Nxb. Tư
pháp, Hà Nội, 2006 là công trình tương đối đầy đủ về công tác thi hành án
hình sự cũng như hệ thống các cơ quan thi hành án hình sự. Đây là tác phẩm
nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn những vấn đề lý luận cơ bản về thi hành án hình
sự, mức độ tác động của pháp luật thi hành án hình sự; hệ thống, mô hình các
cơ quan thi hành án hình sự; tổng kết một cách đầy đủ thực tế thi hành án hình
sự ở Việt Nam nhằm chỉ ra những kinh nghiệm thành công cũng như chưa
thành công của thực tiễn công tác thi hành án hình sự, từ đó xây dựng luận cứ
khoa học cho nhiệm vụ tiếp tục đổi mới công tác thi hành án hình sự trong
giai đoạn trước khi Luật thi hành án hình sự được ban hành năm 2010.
- Bình luận khoa học luật thi hành án hình sự và các quy định mới nhất
về thi hành án hình sự của Trần Minh Hưởng, Nxb. Thời đại, Hà Nội, 2010 là

công trình khoa học cung cấp kịp thời, toàn diện về cơ sở lý luận, thực tiễn
Luật thi hành án hình sự và các quy định mới nhất về thi hành án hình sự.
Đồng thời công trình phân tích cụ thể, đối chiếu với thực tiễn thi hành pháp
luật, làm cho các điều luật được giải thích rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu. Phần nào
3


đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, tìm hiểu, nâng cao nhận thức và triển khai có
hiệu quả Luật thi hành án hình sự và các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn
thi hành.
- Luật thi hành án hình sự năm 2010 sau khi có hiệu lực thi hành bước
đầu đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án hình sự trong phạm vi cả
nước, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành
chính cũng như bảo đảm tốt hơn quyền lợi trách nhiệm của các đối tượng
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thi hành án hình sự năm 2010.
- Một số vướng mắc trong công tác thi hành án hình sự và kiến nghị
hoàn thiện của Nguyễn Văn Tuấn đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân,
TANDTC, số 7/2012, tr. 23 - 25, nghiên cứu về những vướng mắc, hướng sửa
đổi và các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt án
treo, biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ thực tiễn thi hành bản án,
quyết định hình sự có hiệu lực pháp luật của Toà án.
Các công trình nói trên đã đề cập các khía cạnh khác nhau của việc thi
hành án hình sự ở mức độ khác nhau nhưng chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện và có hệ thống về vai trò của TAND quận, huyện
trong công tác thi hành án hình sự hiện nay và các giải pháp nâng cao hiệu
quả thi hành án hình sự.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là TAND quận, huyện của Thành

phố Hà Nội. Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp, khó khăn, do đó trong
phạm vi một luận văn, chúng tôi chỉ có thể đề cập vai trò của TAND quận,
4


huyện trong công tác thi hành án hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện
nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích đề xuất được những giải pháp
nâng cao vai trò của TAND quận, huyện trong công tác thi hành án hình sự
trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay.
Nhằm đạt được mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ phân tích làm
sáng tỏ cơ sở lý luận về vai trò của TAND quận, huyện trong công tác thi
hành án hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay; đánh giá thực trạng
vai trò đó và đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò của TAND quận, huyện
trong công tác thi hành án hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
của Luận văn
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật và các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa (XHCN); về chính sách hình sự nói chung, chính sách thi hành án
hình sự của TAND nói riêng. Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khác để hoàn thành luận văn như phân tích, tổng
hợp, so sánh, thống kê…
6. Giá trị lý luận và thực tiễn của Luận văn
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của Luận văn có ý nghĩa quan
trọng đối với hoạt động của TAND quận, huyện trong công tác thi hành án
hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Việc đề xuất hệ thống các giải pháp
nâng cao vai trò của TAND quận, huyện trong công tác thi hành án hình sự

5


trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay góp phần hoàn thiện các quy định
của pháp luật về thi hành án hình sự, hướng dẫn những cán bộ làm công tác
thi hành án hình sự tại Toà án quận, huyện áp dụng thống nhất các quy định
về thi hành án hình sự.

Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực

tiễn về vai trò của TAND quận, huyện trong công tác thi hành án hình sự trên
địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay, Luận văn đề xuất một số giải pháp cụ thể
nhằm góp phần nâng cao vai trò của TAND quận, huyện trong công tác thi
hành án hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay, đáp ứng nhu cầu
công cuộc cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành 2 chương: Chương 1 luận giải cơ sở lý luận về vai trò của
TAND quận, huyện trong công tác thi hành án hình sự trên địa bàn Thành phố
Hà Nội hiện nay; Chương 2 đánh giá thực trạng của TAND quận, huyện trong
công tác thi hành án hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay và đề
xuất vai trò đó trong thời gian tới.

6


CHNG 1
C S Lí LUN V VAI TRề CA TO N NHN DN QUN,
HUYN TRONG CễNG TC THI HNH N HèNH S TRấN A
BN THNH PH H NI HIN NAY

1.1. Cụng tỏc thi hnh ỏn hỡnh s trong phm vi qun, huyn ca
Thnh ph H Ni hin nay: khỏi nim, c im, ni dung v vai trũ ca
To ỏn nhõn dõn qun, huyn
1.1.1. Khỏi nim cụng tỏc thi hnh ỏn hỡnh s trong phm vi qun,
huyn v nhng c im c bn
Theo Hỏn - Vit t in ca o Duy Anh, thi hnh l: "em cỏi vic
ó trự nh sn m lm ra cho cú hiu qu"(1). Nh vy, thi hnh ỏn cú th
c hiu l em bn ỏn ca To ỏn ra thi hnh trờn thc t cho cú hiu qu;
cũn thi hnh ỏn hỡnh s l vic a cỏc bn ỏn, quyt nh hỡnh s ca To ỏn
ó cú hiu lc phỏp lut ra thi hnh trờn thc t. iu ny cú ngha l ch cỏc
bn ỏn, quyt nh ca To ỏn ó cú hiu lc phỏp lut v ang cú hiu lc
phỏp lut mi c em thi hnh. ú l cỏc bn ỏn, quyt nh hỡnh s c
quy nh ti khon 1 iu 226 BLTTHS nm 2003 nhng cha quỏ thi hiu
thi hnh bn ỏn theo quy nh ti iu 55 BLHS nm 2009; nhng bn ỏn v
quyt nh ca To ỏn cp s thm khụng b khỏng cỏo, khỏng ngh theo trỡnh
t phỳc thm; nhng bn ỏn v quyt nh ca To ỏn cp phỳc thm; nhng
quyt nh ca To ỏn cp giỏm c thm hoc tỏi thm.
Theo quy nh ca phỏp lut hin hnh, nhng bn ỏn, quyt nh hỡnh
s ca To ỏn ó cú hiu lc phỏp lut khụng c thi hnh ngay m cũn phi
ch mt th tc hnh chớnh. ú l vic Chỏnh ỏn To ỏn ó xột x s thm v

(1)

Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển, Nxb. Lê Văn Tân, Hà Nội, 1932, tr. 398.

7


án hoặc được ủy quyền phải ra quyết định thi hành án thì mới được thi hành.
Vì vậy, thi hành án hình sự không phải bao giờ cũng kịp thời và đúng như

pháp luật quy định.
Thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực của Toà án là một hoạt
động phức tạp, đa dạng liên quan đến nhiều lĩnh vực từ việc thi hành các hình
phạt chính như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có
thời hạn, tù chung thân, tử hình đến các hình phạt bổ sung như cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú,
quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền (khi không
áp dụng là hình phạt chính), trục xuất (khi không áp dụng là hình phạt chính);
các biện pháp tư pháp như tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm,
trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi, bắt
buộc chữa bệnh; các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội như giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng.
Như vậy, thi hành án hình sự, biện pháp tư pháp có quan hệ hữu cơ, tác động
qua lại, chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ này, hình phạt và biện pháp tư
pháp giữ vai trò quyết định, quy định nội dung, phương pháp, hình thức, thời
gian thi hành án hình sự. Có thể dễ dàng chứng minh điều này, vì thi hành
hình phạt tử hình khác với thi hành hình phạt tù, khác với thi hành các hình
phạt không phải là tù và tử hình và càng khác với thi hành các biện pháp tư
pháp. Ngược lại, thi hành án hình sự có tác động trở lại đối với hình phạt, biện
pháp tư pháp, làm cho mục đích của hình phạt, biện pháp tư pháp được thực
hiện trên thực tế, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Thực chất của thi hành án hình sự là việc tổ chức thi hành các hình
phạt, biện pháp tư pháp được quy định trong bản án hoặc quyết định hình sự
có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Đó chính là việc thực thi công lý trên cơ sở
chân lý đã được hoạt động tố tụng hình sự chứng minh.
8


Thi hành án hình sự là một giai đoạn trong tố tụng hình sự và có thể coi
đó là giai đoạn cuối cùng của một vụ án hình sự. Công tác điều tra, truy tố và

xét xử là rất quan trọng. Quyết định hình phạt của Toà án chính là sự đánh
giá, sự lên án của Nhà nước đối với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.
Nếu chỉ dừng ở mức đánh giá, lên án mà không thực hiện bằng các biện pháp
mang tính cưỡng chế đặc trưng của quyền lực Nhà nước thì tác dụng giáo dục,
răn đe, phòng ngừa và tính chịu hình phạt hạn chế, thậm chí là không có tác
dụng. Chính vì vậy, pháp luật hình sự đã có những quy định cụ thể về thi hành
án hình sự, các ngành tư pháp trung ương nói chung và TANDTC nói riêng
cũng đã ban hành một số thông tư liên tịch, nghị quyết để hướng dẫn một số
quy định của BLHS năm 2009, BLTTHS năm 2003 về thi hành án hình sự
nhằm đảm bảo việc thi hành nghiêm túc các bản án, quyết định của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành
ngay.
Nội dung thi hành án hình sự rất rộng, bao gồm: thủ tục, chế độ, tổ
chức thi hành án, áp dụng các biện pháp hành chính, giáo dục, y tế, văn hoá,
xã hội và thực hiện chế độ, chính sách đối với người bị kết án. Các quan hệ xã
hội cụ thể phát sinh trong quá trình thi hành và chấp hành hình phạt như: việc
đưa bản án ra thi hành, chỉ định cơ quan tổ chức thi hành án, tổ chức lực
lượng, cơ sở vật chất đảm bảo cho thi hành án; quản lý nhà nước về công tác
thi hành án; quy định về quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án; nghĩa vụ
của cơ quan nhà nước hữu quan... do pháp luật thi hành án hình sự quy định.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đi đến kết luận rằng: Công tác thi hành
án hình sự là việc đưa các bản án, quyết định hình sự của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật ra thi hành trên thực tế.

9


Trong quá trình nghiên cứu, soạn thảo, thẩm tra dự án Bộ luật thi hành
án, vấn đề xác định tính chất của hoạt động thi hành án cũng thu hút được
nhiều sự quan tâm. Điều đáng lưu ý là trong dự án Bộ luật thi hành án trình

Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp vừa qua, thì phạm vi điều chỉnh của dự án Bộ
luật là rất rộng, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực thi hành án hình sự, dân sự,
hành chính… Ngoài nội dung thi hành các bản án, quyết định của Toà án,
phạm vi điều chỉnh của dự án Bộ luật này còn bao gồm việc thi hành các phán
quyết của Trọng tài thương mại Việt Nam, các bản án, quyết định của Toà án
nước ngoài đã được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Với phạm vi
rộng, đa dạng này, việc xác định rõ tính chất của hoạt động thi hành án nói
chung để từ đó có cơ sở quy định một cách thống nhất, khoa học trong dự án
Bộ luật (như về giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án; về hoạt động kiểm
sát của Viện kiểm sát nhân dân trong từng lĩnh vực thi hành án…) là một yêu
cầu quan trọng, song cũng là vấn đề phức tạp xét cả về lý luận và thực tiễn.
Lâu nay, quan niệm về họat động thi hành án thu hút được nhiều sự
quan tâm và được nhìn nhận trên nhiều phương diện khác nhau:
Thứ nhất, có ý kiến cho rằng, nếu xét về những đặc điểm cơ bản của
hoạt động thi hành án, thì có thể coi đây là một giai đoạn tiếp nối và cũng là
sau cùng của hoạt động tố tụng nói chung. Ngay trong hệ thống pháp luật hiện
hành, họat động thi hành án cũng đã được xác định thuộc phạm vi điều chỉnh
trong các văn bản pháp luật về tố tụng. Ví dụ: theo quy định tại Điều 1
BLTTHS năm 2003 hiện hành: “Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự,
thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự;” BLTTHS
năm 2003 còn có một phần riêng (Phần thứ năm) về “Thi hành bản án và
quyết định của Toà án” bao gồm 5 chương, 17 điều quy định cụ thể về trình
tự, thủ tục thi hành án hình sự.

10


Bên cạnh đó, loại ý kiến này cũng cho rằng: Việc các cơ quan, tổ chức,
đơn vị không phải là các cơ quan tiến hành tố tụng được giao những nhiệm vụ
nhất định trong công tác thi hành án không làm thay đổi về bản chất của họat

động này; điều này cần được nhìn nhận dưới khía cạnh về sự phân công, phân
nhiệm và phối hợp trong công tác thi hành án; tương tự như việc các cơ quan
bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm mặc dù không phải là các cơ quan tiến
hành tố tụng nhưng pháp luật tố tụng vẫn quy định thẩm quyền của các cơ
quan này trong việc thực hiện một số hoạt động điều tra. Hơn nữa, có thể nói
thi hành án không tách rời, mà gắn liền với họat động của các cơ quan tiến
hành tố tụng. Trong thi hành án hình sự, theo quy định của BLTTHS năm
2003 hiện hành thì Toà án có nhiệm vụ ra quyết định thi hành án hoặc uỷ thác
thi hành án (Điều 256), theo dõi việc thi hành án (Điều 260), cho hoãn, tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù (Điều 263), giảm hoặc miễn chấp hành hình
phạt (Điều 269) v.v.. Có thể nói, đây là những thẩm quyền quan trọng trong
công tác thi hành án được giao cho Toà án đảm nhiệm. Trong các đạo luật về
tố tụng hình sự, về tố tụng dân sự của nhiều nước trên thế giới cũng đều có
nội dung quy định về việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án.
Thứ hai, có ý kiến cho rằng hoạt động thi hành án là hoạt động hành
chính hay hành chính - tư pháp; bởi vì căn cứ để thi hành án chính là các bản
án, quyết định của Toà án; cách thức, biện pháp thi hành án đều tuân theo
những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định; cơ quan thi hành án phải tác
động trực tiếp tới đối tượng phải thi hành để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng
các biện pháp cưỡng chế thi hành….
Thứ ba, có ý kiến cho rằng, quan niệm thi hành án là hoạt động tư
pháp, thi hành án là hoạt động hành chính hay hành chính - tư pháp đều có
những hạt nhân hợp lý nhất định; tuy nhiên, đi sâu vào phân tích từng khía
cạnh cụ thể của từng quan điểm thì cũng đều bộc lộ những mâu thuẫn không
11


thể giải quyết được. Từ đó, ý kiến này cho rằng “cần phải xem xét thi hành án
như một hiện tượng phức tạp, có tính đặc thù, không nên tìm mọi cách giải
thích, quy kết, cố đưa nó về một dạng hoạt động thuần tuý, coi đó hoặc là hoạt

động hành chính hoặc là hoạt động tư pháp đơn thuần… Có thể khẳng định:
thi hành án như là hoạt động “bản lề” nối liền giữa hoạt động tư pháp và hoạt
động hành chính. Chính điều này đã tạo nên tính chất phức tạp, đặc thù của
thi hành án, khiến cho thi hành án có tính chất “lưỡng tính”, vừa mang tính
chất của hoạt động tư pháp, vừa chịu sự tác động, chi phối mạnh mẽ của hoạt
động quản lý hành chính.
Trong quá trình thẩm tra dự án Bộ luật thi hành án vừa qua, có ý kiến
của thành viên Uỷ ban pháp luật cho rằng, trong dự án Bộ luật này chưa thể
hiện rõ vấn đề rất cơ bản, đó là việc xác định rõ tính chất của hoạt động thi
hành án. Tương tự như các quan niệm nêu trên, các thành viên của Uỷ ban
cũng chia sẻ vấn đề này từ những giác độ khác nhau, cụ thể là: thi hành án là
một giai đoạn tiếp theo của các giai đoạn tố tụng trước đó; thi hành án là
nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước; thi hành án là họat động hành
chính - tư pháp.
1.1.2. Nội dung công tác thi hành án hình sự trên địa bàn quận,
huyện của Thành phố Hà Nội
Trên thực tế thì các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay cũng không
phân định rõ rệt cơ quan tư pháp nào có chức năng "chủ trì" trong thi hành án,
do đó mỗi quan điểm trên đều đưa ra những lập luận riêng để bảo vệ quan
điểm của mình. Xét về góc độ thực tiễn thì hiện nay một bản án, quyết định
về hình sự có thể do nhiều cơ quan thi hành, nhất là trong trường hợp bản án,
quyết định đó có nhiều bị cáo, có nhiều loại hình phạt được áp dụng hoặc có
nhiều quyết định về dân sự, về hình phạt bổ sung.
12


Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập vấn đề thẩm quyền của TAND quận, huyện
trong công tác thi hành án mà không đi sâu về việc phân tích xem các quan
điểm nào về việc "chủ trì" thi hành án hình sự là của cơ quan tư pháp nào.
Theo quy định của BLHS năm 2009 và BLTTHS năm 2003 thì TAND

quận, huyện có thẩm quyền thực hiện các việc về thi hành án hình sự, đó là: ra
quyết định thi hành án hình sự hoặc quyết định uỷ thác thi hành án hình sự
cho TAND cùng cấp ra quyết định thi hành án; ra quyết định hoãn thi hành án
phạt tù; ra quyết định về giảm thời gian thử thách của án treo; ra quyết định
miễn, giảm chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ; xem xét việc miễn,
giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí; ra quyết định xoá án tích
hoặc cấp giấy chứng nhận xoá án tích.
Như vậy, từ khi bản án, quyết định hoặc những phần của bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành án cho đến khi bản án,
quyết định đó được thi hành xong đều là công việc của Toà án, tức là căn cứ
vào các quy định của pháp luật hình sự, Toà án phải thực hiện đầy đủ, nghiêm
túc và chính xác nhằm đảm bảo các bản án, quyết định phải đưa ra thi hành
được thực hiện nghiêm chỉnh.
- Ra quyết định thi hành án hình sự hoặc ra quyết định uỷ thác thi hành
án hình sự cho Toà án khác cùng cấp
+ Về việc ra quyết định thi hành án hình sự: tại Điều 255 BLTTHS năm
2003 quy định những bản án, quyết định được thi hành gồm: bản án, quyết
định sơ thẩm của Toà án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp
luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị; những bản án, quyết định
của Toà án cấp phúc thẩm. Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Toà
án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm
hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt
tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn
13


thời hạn đã tạm giam thì bản án, quyết định của Toà án được thi hành ngay
mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Mặc dù Điều 255 BLTTHS chỉ
quy định những bản án và quyết định nêu trên được thi hành, nhưng theo quy
định tại Điều 240 BLTTHS thì những phần của bản án, quyết định sơ thẩm

của Toà án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Khoản 1 Điều 237 BLTTHS quy định: "Những phần của bản án bị
kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp quy định
tại khoản 2 Điều 255 của Bộ luật này…”. Điều này phù hợp với quy định tại
Điều 240 BLTTHS năm 2003. Lẽ ra, Điều 255 BLTTHS năm 2003 phải quy
định thêm trường hợp những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án
không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi
hành mới phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 237 và Điều 240 BLTTHS
năm 2003.
Như vậy, nếu Toà án căn cứ vào quy định tại Điều 240 BLTTHS năm
2003 để ra quyết định thi hành án hình sự đối với các bị cáo không kháng cáo,
không bị kháng cáo, kháng nghị và quyết định đó được thi hành trước khi có
bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm (đã áp giải thi hành án, đã thi
hành phần dân sự trong vụ án hình sự, đã thi hành các hình phạt bổ sung…)
mà sau đó bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm lại sửa án sơ thẩm
theo hướng có lợi cho những bị cáo này thì rõ ràng quyết định thi hành án
phần bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án sơ thẩm phải
được huỷ bỏ. Vấn đề là ai có quyền ra quyết định huỷ bỏ hoặc thay thế quyết
định thi hành án trước đây. Hiện nay, TANDTC chưa có hướng dẫn cụ thể về
vấn đề này, nhưng theo chúng tôi thì Chánh án Toà án đã ra quyết định thi
hành án có quyền ra quyết định khác để thi hành bản án, quyết định phúc
thẩm (nếu bản án, quyết định đó phải đưa ra thi hành).
14


Về nguyên tắc mọi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đều phải
được thi hành nghiêm chỉnh và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công
dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm
của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án và phải

chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó. (Điều 22 BLTTHS
năm 2003). Tuy nhiên, không phải mọi bản án quyết định của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật thì Toà án đều phải ra quyết định thi hành án hình sự bởi vì
có những bản án, quyết định không phải ra quyết định thi hành. Ví dụ: những
bản án, quyết định mà Toà án tuyên bố bị cáo không phạm tội, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt, áp dụng hình phạt tù khi thời hạn phạt tù bằng
hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam, quyết định đình chỉ vụ án của Toà án
cấp sơ thẩm hoặc quyết định đình chỉ, huỷ bản án sơ thẩm trong trường hợp bị
cáo đã chết, cảnh cáo tại phiên toà, buộc xin lỗi công khai….
Như vậy, Toà án chỉ ra quyết định thi hành án hình sự đối với những
trường hợp bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà bản án,
quyết định đó đã áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình,
hình phạt trục xuất, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng cho
hưởng án treo. Đối với các bản án, quyết định của Toà án có phần dân sự
trong vụ án hình sự thì kể cả trường hợp Toà án phải ra quyết định hoặc
không phải ra quyết định thi hành án hình sự đều do cơ quan thi hành án dân
sự ra quyết định thi hành.
Đối với các bản án, quyết định có áp dụng các hình phạt bổ sung như
quản chế, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định, cấm cư trú, tước một số quyền công dân… đã nằm trong các bản án,
quyết định, là một phần của bản án, quyết định đó nên khi Toà án ra quyết
định thi hành bản án, quyết định số … ngày … tháng … năm … của Toà án
… thì đồng thời cũng là quyết định thi hành các hình phạt bổ sung (nếu có).
15


Việc thi hành các hình phạt bổ sung nói trên thuộc trách nhiệm của Uỷ ban
nhân dân địa phương hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc
làm việc.
Riêng đối với hình phạt trục xuất (dù là hình phạt chính hay hình phạt

bổ sung) do cơ quan công an thực hiện, căn cứ vào quyết định thi hành án
hình sự của Toà án.
Riêng đối với hình phạt tiền (dù là hình phạt chính hay hình phạt bổ
sung) do cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành.
+ Điều 256 BLTTHS năm 2003 và Điều 21, Điều 22 Luật thi hành án
hình sự năm 2011 quy định: “Thủ tục đưa ra thi hành bản án và quyết định
của Toà án" thì thời hạn ra quyết định thi hành án là bảy ngày bao gồm cả
ngày làm việc và ngày nghỉ. Trường hợp ngày cuối cùng là ngày nghỉ cuối
tuần hoặc nghỉ lễ thì ngày làm việc tiếp theo của ngày đó là thời hạn cuối
cùng của thời hạn bảy ngày.
Ví dụ: Ngày cuối cùng của thời hạn là ngày thứ bảy thì ngày làm việc
tiếp theo của ngày thứ bảy là thứ hai và thứ hai là thời hạn cuối của thời hạn
bảy ngày. Thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là thời điểm kết
thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng
cáo, kháng nghị là ngày tiếp theo của ngày xác định. Ngày xác định là ngày
Toà án tuyên án hoặc ra quyết định trong trường hợp Viện kiểm sát, bị cáo,
đương sự có mặt tại phiên toà hoặc là ngày bản án, quyết định được giao hoặc
được niêm yết nếu xử vắng mặt.
Theo quy định tại các Điều 254 BLTTHS năm 2003 "Việc giao bản án
và quyết định phúc thẩm" thì trong thời hạn mười ngày kể từ ngày tuyên án
hoặc ngày ra quyết định thì Toà án cấp phúc thẩm phải gửi bản án hoặc quyết
16


định phúc thẩm cho người kháng nghị, Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan công
an nơi đã xử sơ thẩm, người đã kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ, cơ
quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong trường hợp bản án phúc thẩm có
tuyên hình phạt tiền, tịch thu tài sản và quyết định dân sự… Trong thực tiễn,
các bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm thường gửi (giao) không

đáp ứng được quy định của pháp luật. Việc giao nhận bản án, quyết định
thường rất chậm do sau khi xét xử, việc đánh máy bản án, quyết định chậm,
việc rà soát, xin chữ ký trong bản án, quyết định cũng chậm và việc chuyển
giao bản án, quyết định (thường là thông qua bưu điện và gửi bình thường)…
Những sự chậm trễ nêu trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc ra quyết định thi
hành án hình sự của Toà án quận, huyện cấp sơ thẩm. Nếu đúng quy định của
pháp luật thì từ khi bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm tuyên án
hoặc ra quyết định thì chậm nhất là trong 17 ngày (10 ngày giao bản án và
trong thời hạn 7 ngày ra quyết định thi hành án) thì các bản án, quyết định
phúc thẩm phải được đưa ra thi hành. Trong thực tiễn, thời hạn trên không
thực hiện được vì các lý do chậm trễ nên có thể Toà án cấp sơ thẩm ra quyết
định thi hành án không đúng với thời hạn nêu trên. Trong trường hợp kéo dài
thời hạn ra quyết định thi hành án, dù bất cứ lý do nào thì đó cũng là lỗi của
Toà án và người bị kết án sẽ phải chịu thiệt thòi về "khoảng trống" mà Toà án
đã tạo ra. Khi chưa có quyết định thi hành án thì người bị kết án chưa được
chuyển sang trại cải tạo, trại giam.
+ Về việc ra quyết định uỷ thác thi hành án hình sự cho Toà án khác
cùng cấp ra quyết định thi hành án: TAND khác cùng cấp là cùng cấp huyện
(TAND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; Toà án quân sự khu
vực ) hoặc TAND cấp tỉnh (TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Toà án quân sự quân khu và tương đương). Hiện nay tất cả các TAND cấp
17


huyện, Toà án quân sự cấp khu vực đều đã thực hiện thẩm quyền xét xử theo
khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003.
Việc uỷ thác cho TAND cùng cấp quận, huyện ra quyết định thi hành
án hình sự chỉ được thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp:
Trường hợp thứ nhất: Sau khi TAND quận, huyện đã xét xử sơ thẩm
vụ án ra quyết định thi hành án và đã gửi cho cơ quan công an cùng cấp để thi

hành, nhưng cơ quan công an cùng cấp thông báo bằng văn bản cho Toà án
cùng cấp biết là người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ thể.
Trường hợp thứ hai: TAND quận, huyện đã xét xử sơ thẩm vụ án có
căn cứ về việc người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác.
Như vậy, ở trường hợp thứ nhất thì TAND quận, huyện sẽ phải ra hai
quyết định, một là quyết định thi hành án và hai là quyết định uỷ thác thi hành
án. Vấn đề là khi Toà án ra quyết định uỷ thác thi hành án và quyết định này
chỉ ban hành sau khi Toà án đã ra quyết định thi hành án, đã gửi cho cơ quan
công an cùng cấp và nhận được thông báo bằng văn bản của cơ quan công an
cùng cấp cho Toà án biết là người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa
chỉ cụ thể. Trường hợp này sẽ phát sinh vấn đề là quyết định thi hành án của
Toà án cấp sơ thẩm đã ban hành nhưng không được thực hiện bởi Toà án sẽ
phải ra quyết định uỷ thác thi hành án và có thể hiểu là quyết định uỷ thác thi
hành án đã phủ định quyết định thi hành án trước đó, tức là quyết định thi
hành án này không còn hiệu lực thi hành. Cũng có quan điểm cho rằng trong
trường hợp này Toà án đã ra quyết định uỷ thác thi hành án gửi quyết định uỷ
thác và gửi cả quyết định thi hành án. Theo chúng tôi, Toà án ra quyết định uỷ
thác chỉ cần gửi quyết định uỷ thác thi hành án cùng với hai bản sao bản án,
quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật là đủ và đúng với hướng dẫn tại
mục 1 Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 30/6/1993 của TANDTC, Bộ
18


công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn thực hiện một số quy
định của Pháp lệnh thi hành án phạt tù năm 1993".
Ở trường hợp thứ hai: TAND quận, huyện đã xét xử sơ thẩm vụ án có
căn cứ về việc người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác.
Vấn đề đặt ra là: căn cứ về việc người bị kết án đang cư trú trên địa bàn
hành chính khác xuất hiện vào thời điểm nào, trước hay sau khi Toà án ra
quyết định thi hành án hình sự ? Về vấn đề này, trong điểm 2 mục I Nghị

quyết Hội đồng Thẩm phán số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 cũng
không hướng dẫn cụ thể phải giải quyết thế nào. Theo chúng tôi cũng có thể
giải quyết như sau:
a) Nếu toà án chưa ra quyết định thi hành án mà có căn cứ người bị kết
án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác thì ra quyết định uỷ thác thi hành
án, gửi cho toà án được uỷ thác các tài liệu kèm theo, trong đó có tài liệu mà
căn cứ vào tài liệu này, toà án biết rõ người bị kết án đang cư trú trên địa bàn
của toà án được uỷ thác thi hành án. Tài liệu này giúp cho toà án được uỷ thác
thi hành án ra quyết định thi hành án và tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan
công an thi hành quyết định của toà án.
b) Nếu sau khi toà án đã ra quyết định thi hành án mới biết là có căn cứ
người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác, có thể thông tin (căn
cứ) này không phải do cơ quan công an cung cấp hoặc thông báo bằng văn
bản mà do từ các nguồn thông tin khác thì toà án sơ thẩm thực hiện việc uỷ
thác thi hành án như hướng dẫn ở trường hợp thứ nhất (như việc nhận được
thông báo bằng văn bản của cơ quan công an về việc người bị kết án đã
chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ thể).

19


Để đảm bảo theo dõi, quản lý tốt việc uỷ thác, nhận uỷ thác thi hành án,
tránh tình trạng toà án đã uỷ thác thi hành án cho rằng sau khi đã gửi các tài
liệu về uỷ thác thi hành án là đã hoàn thành nhiệm vụ, không còn thẩm quyền,
không còn trách nhiệm và toà án được uỷ thác có nhận được quyết định, tài
liệu kèm theo việc uỷ thác thi hành án không, có ra quyết định thi hành án
không, đồng thời tránh tình trạng Toà án được uỷ thác tuy nhận được là hồ sơ
uỷ thác thi hành án nhưng không thực hiện việc ra quyết định thi hành án.
Như vậy, có thể xảy ra (và trong thực tiễn đã xảy ra) trường hợp quyết định
thi hành án được ban hành nhưng không gửi hoặc đã nhận hồ sơ thi hành án

nhưng không thực hiện. Cả hai trường hợp này đều dẫn tới người bị kết án
vẫn không có quyết định thi hành án và nếu không bị phát hiện thì họ đương
nhiên được hưởng thời hiệu thi hành án. Điều này có nghĩa là bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật không còn được thi hành. Chúng tôi cho rằng,
TANDTC cần có hướng dẫn, quy định cụ thể về vấn đề này. Theo chúng tôi,
nên có quy định cụ thể về việc giao nhận hồ sơ uỷ thác thi hành án. Chẳng
hạn, toà án đã uỷ thác phải gửi cùng hồ sơ uỷ thác phiếu gửi, toà án được uỷ
thác phải ký, đóng dấu vào phiếu gửi và gửi trả lại toà án đã uỷ thác như một
xác nhận đã nhận được hồ sơ uỷ thác thi hành án, phiếu gửi này được lưu tại
toà án đã uỷ thác để xác định đã gửi hồ sơ uỷ thác và toà án đã nhận uỷ thác
thi hành án. Cũng có thể quy định toà án được uỷ thác phải gửi cho toà án đã
uỷ thác quyết định thi hành án hoặc thông báo bằng văn bản cho toà án đã uỷ
thác và các tài liệu này được lưu tại toà án đã uỷ thác để quản lý, theo dõi chặt
chẽ việc uỷ thác thi hành án hình sự.
- Ra quyết định hoãn chấp hành án phạt tù
Hoãn thi hành án là thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối
với người phạm tội, bị phạt tù nhưng có một trong các tình tiết quy định tại
khoản 1 Điều 61 hoãn chấp hành hình phạt tù, BLHS năm 2009. Theo quy
20


định tại Điều 261 của BLHS năm 2003 và Điều 23 Luật thi hành án hình sự
năm 2010 quy định: hoãn chấp hành hình phạt tù là việc Toà án đã ra quyết
định thi hành án đối với người bị xử phạt tù đang được tại ngoại, nhưng xét
thấy có những căn cứ quy định tại Điều 61 BLHS năm 2009 hoặc xét thấy có
căn cứ khác để chưa buộc họ phải chấp hành hình phạt ngay.
+ Về thẩm quyền và thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù: Thẩm quyền
ban hành quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù thuộc Chánh án Toà án đã
ra quyết định thi hành án phạt tù. Ví dụ: Chánh án TAND quận A đã ra quyết
định thi hành án phạt tù có quyền ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù.

Về thủ tục để hoãn chấp hành hình phạt tù: Viện kiểm sát và cơ quan
Công an cùng cấp có văn bản đề nghị hoặc người bị kết án có đơn xin hoãn
chấp hành hình phạt tù. Trường hợp không có đề nghị hoặc có đơn xin hoãn
chấp hành hình phạt tù, Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phạt tù
có thể tự mình xét và ra quyết định cho người bị kết án được hoãn chấp hành
hình phạt tù nếu người thân thích của người bị kết án (cha, mẹ, vợ, chồng, anh
chị em…) hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án làm việc hoặc chính
quyền địa phương nơi người bị kết án thường trú có đề nghị bằng văn bản.
Đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù phải
có trách nhiệm lập hồ sơ đề nghị hoãn; hồ sơ xin hoãn chấp hành hình phạt tù
bao gồm các tài liệu: bản sao bản án hoặc trích lục bản án hình sự; văn bản đề
nghị của những cơ quan, tổ chức, cá nhân, viện kiểm sát, công an cùng cấp…
(những người được đề nghị hoặc xin hoãn).
Kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về tình trạng bệnh tật của người
bị kết án. Đối với trường hợp người bị kết án bị HIV đã chuyển sang giai
đoạn AIDS thì chỉ cần kết quả xét nghiệm HIV và phải xác định rõ là đang có
các nhiễm trùng cơ hội và tiên lượng xấu. Trường hợp này được coi là người
21


×