Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Hoàn thiện pháp luật về đánh giá tác động môi trường ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.56 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHU THẾ HUYỀN

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 603801001

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Lê Văn Long

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của Tiến sỹ, Thầy giáo Lê Văn
Long. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn nêu trong luận văn
đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Chu Thế Huyền




LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cảm ơn trân trọng và sâu sắc nhất đến
Tiến sỹ, Thầy giáo Lê Văn Long – người hướng dẫn thực hiện
luận văn này, đến các thầy cô giáo của Trường Đại học Luật
Hà Nội, đến gia đình và bạn bè – những người đã giúp đỡ hết
sức mình cho luận văn này hoàn thành!
Tác giả luận văn

Chu Thế Huyền


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BVMT
DA
ĐMC
ĐTM
HĐND
PTBV
QCVN
TCMT
TN&MT
UBND

:
:
:
:
:

:
:
:
:

Bảo vệ môi trường
Dự án
Đánh giá tác động môi trường chiến lược
Đánh giá tác động môi trường
Hội đồng nhân dân
Phát triển bền vững
Quy chuẩn Việt Nam
Tiêu chuẩn môi trường
Tài nguyên và Môi trường
Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn ..............................................5
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn ..............................................5
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của Luận văn .....5
6. Giá trị lý luận và thực tiễn của Luận văn...........................................................5
7. Cơ cấu của Luận văn ............................................................................................6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH
GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .........................7
1.1. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ

TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................7
1.1.1. Khái niệm Đánh giá tác động môi trường....................................................7
1.1.2. Khái niệm pháp luật về Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam hiện
nay.............................................................................................................................11
1.1.3. Vai trò của pháp luật về Đánh giá tác động môi trường ..........................14
1.1.4. Nội dung của pháp luật về Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam
hiện nay ....................................................................................................................15
1.2. KHÁI NIỆM, MỤC TIÊU, NGUYÊN TẮC VÀ TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY...............................................................................................................25
1.2.1. Khái niệm hoàn thiện pháp luật về Đánh giá tác động môi trường ....25
1.2.2. Mục tiêu và nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về Đánh giá tác động môi
trường.......................................................................................................................25
1.2.3. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật về Đánh giá tác động môi trường ở Việt
Nam ..........................................................................................................................28


Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..............34
2.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM ...............................................................................34
2.1.1. Pháp luật về Đánh giá tác động môi trường giai đoạn trước năm 1993 .34
2.1.2. Pháp luật về Đánh giá tác động môi trường giai đoạn từ năm 1993 đến
thời điểm ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2005.....................................36
2.1.3. Pháp luật về Đánh giá tác động môi trường giai đoạn sau Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005 đến nay ..............................................................................38
2.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................................................................41
2.2.1. Ưu điểm của pháp luật về Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam
hiện nay ....................................................................................................................41

2.2.2. Những hạn chế, bất cập của pháp luật về Đánh giá tác động môi
trường ở Việt Nam và nguyên nhân ...................................................................45
2.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...........................................................56
KẾT LUẬN

68


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người, sinh vật
và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội bền vững. Trước tình trạng trái đất đang
nóng dần lên, ô nhiễm môi trường không chỉ là vấn nạn của một quốc gia mà đã trở
thành một vấn nạn của tất cả các quốc gia trên thế giới. Ngày nay, việc bảo vệ môi
trường (BVMT) đang trở thành nhiệm vụ vô cùng quan trọng của tất cả các quốc
gia. BVMT gắn liền với phát triển bền vững và trở thành một nội dung quan trọng
trong chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Việt Nam
cũng nằm trong xu thế đó.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc BVMT nên Đảng và Nhà nước ta đã
xác định “bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn không chỉ của
nước ta mà còn của cả nhân loại, là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với
cuộc đấu tranh xóa đói, giảm nghèo ở mỗi quốc gia và cuộc đấu tranh vì hoà bình,
tiến bộ của xã hội trên phạm vi toàn thế giới”[28]. Nhằm thể chế hoá quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng về bảo vệ môi trường, Nhà nước ta đã ban hành
hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), trong đó Luật BVMT năm
1993, cũng như Luật BVMT năm 2005 là quan trọng nhất.
Đồng thời, Nhà nước cũng ban hành hàng loạt các Luật và Pháp lệnh quy định
việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên môi trường như Luật đất đai năm 2003; Luật bảo vệ

và phát triển rừng năm 2004; Luật khoáng sản năm 2010; Pháp lệnh bảo vệ và kiểm
dịch thực vật năm 2001; Bộ luật dân sự năm 2005; Bộ luật hình sự năm 2009.
Có thể nói, Đảng và Nhà nước ta bằng những chủ trương, đường lối, chính sách
và những quy định của pháp luật đã tác động mạnh mẽ vào hoạt động của các tổ chức,
cá nhân trong việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, trên thực tế vì
những lý do khác nhau mà các quy định pháp luật về môi trường chưa được thực hiện
tốt, các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường lại đang có xu hướng gia tăng. Bằng
chứng là môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị ô nhiễm và suy thoái. Việc thi hành pháp


2
luật về BVMT chưa nghiêm, ý thức tự giác bảo vệ và giữ gìn môi trường nơi công
cộng chưa trở thành thói quen trong lối sống của đại bộ phận dân chúng. Vì vậy, việc
nghiên cứu để tìm ra các biện pháp bảo đảm thực hiện tốt pháp luật bảo vệ môi trường
là cần thiết và ngày càng trở nên cấp bách.
Một trong những biện pháp quan trọng mà các quốc gia sử dụng để BVMT
đó chính là ĐTM. Thông qua việc ĐTM sẽ dự báo được các tác động đến môi
trường khi thực hiện các dự án đầu tư, trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp phù hợp
để xử lý hoặc ngăn chặn những tác động tiêu cực khi triển khai dự án. Do đó, ĐTM
là một trong những công cụ hữu hiệu để thực hiện nguyên tắc phòng ngừa; đảm bảo
sự phát triển hài hoà giữa các lợi ích kinh tế - xã hội với các lợi ích về môi trường.
Để hoạt động ĐTM được tiến hành có hiệu quả, Nhà nước đang hoàn thiện
dần hệ thống các quy định pháp luật về ĐTM cho phù hợp với tình hình mới. Luật
BVMT năm 2005 đã dành riêng Chương 3 (từ Điều 14 đến Điều 27) cho ĐTM.
Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ĐTM thời gian qua cho thấy pháp
luật về ĐTM ở Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định. Các quy định của
pháp luật về ĐTM đã góp phần làm cho hoạt động BVMT không ngừng được phát
triển và tăng cường, thực hiện tốt công tác BVMT gắn liền với sự phát triển bền
vững. Tuy nhiên, pháp luật về ĐTM ở Việt Nam hiện nay vẫn còn đang thiếu, nhất
là những quy định cụ thể, hơn nữa lại chưa đồng bộ, chưa có tính hệ thống, phân

cấp trách nhiệm giữa các cơ quan, tổ chức chưa rõ ràng, thậm chí có những quy
định giữa các văn bản còn bị mâu thuẫn, chồng chéo lên nhau làm hạn chế hiệu quả
của việc thực thi các quy định pháp luật về ĐTM trên thực tế.
Trên cơ sở các quy định pháp luật chưa hoàn chỉnh ấy, kết quả của hoạt
động ĐTM chưa đạt được như mong muốn và vẫn chưa “thoát” ra khỏi cách làm
cũ, chưa phát huy được những điểm mạnh của các điều kiện thuận lợi của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Việc nhiều chủ đầu tư chưa nghiêm túc
thực hiện ĐTM, việc một số cơ quan, tổ chức tư vấn về ĐTM chưa thật sự
nghiêm túc trong tư vấn, dẫn đến chất lượng Báo cáo ĐTM còn thấp; việc quy


3
định không rõ ràng trách nhiệm pháp lý của các bên khi tham gia các quan hệ
pháp luật trong ĐTM cũng như không có chế tài cụ thể để xử lý các vi phạm
trong lĩnh vực này; việc quy trình và thủ tục ĐTM chưa hoàn chỉnh…đã ảnh
hưởng nhiều đến chất lượng của các Báo cáo ĐTM.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, đồng thời nâng cao hơn nữa hiệu
quả công tác ĐTM ở Việt Nam trong thời gian tới, việc tiếp tục sửa đổi, bổ sung
các quy định pháp luật của nước ta về ĐTM là một nhu cầu tất yếu khách quan
và có ý nghĩa thiết thực trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường.
Mặt khác, từ trước đến nay, ở nước ta chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách đầy đủ và có hệ thống về khái niệm, đặc điểm, vai trò, những tiêu chí pháp
luật về ĐTM và thực trạng pháp luật về ĐTM ở Việt Nam. Xuất phát từ những yêu
cầu cấp thiết như trên, tác giả chọn chủ đề “Hoàn thiện pháp luật về đánh giá
tác động môi trường ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sỹ luật học
nhằm nghiên cứu, góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
về ĐTM nói riêng và pháp luật về BVMT nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ những năm 80, ở nước ta đã tiến hành nghiên cứu, xây dựng pháp luật về
BVMT, trong đó có các quy định về ĐTM. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề ĐTM

vẫn còn là một hoạt động mới mẻ đối với Việt Nam. Hiện nay các tài liệu về ĐTM
đang lưu hành ở nước ta chủ yếu là các tài liệu dịch do Chương trình môi trường
của Liên hợp quốc cung cấp cho Cục môi trường thuộc Bộ khoa học công nghệ và
Môi trường (nay là Tổng cục môi trường thuộc Bộ tài nguyên và môi trường). Công
trình đầu tiên do các nhà khoa học Việt Nam viết về ĐTM là cuốn sách “ĐTM - phương
pháp luận” của GS. Lê Thạc Cán (Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1994). Tiếp đó là
Đề án “Xây dựng năng lực quản lý môi trường ở Việt Nam” của trường Đại học khoa
học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội mà kết quả là sự ra đời của cuốn sách “ĐTM”
vào đầu năm 1999 và cuốn “Sổ tay hướng dẫn ĐTM chung của các dự án phát triển”
đầu năm 2000. Đây là những tài liệu nghiên cứu vấn đề ĐTM một cách tổng quan,


4
cung cấp cho người đọc những vấn đề cơ bản nhất về ĐTM như các phương pháp
kỹ thuật sử dụng để ĐTM, các nội dung cần chú ý trong xây dựng báo cáo ĐTM,...
những tài liệu này đã đặt nền tảng cho việc xây dựng và phát triển các quy định của
pháp luật Việt Nam về ĐTM sau này.
Liên quan đến ĐTM còn có một số bài tham luận, bài viết trong các hội thảo
và các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành luật học:
- Bài viết: “Hiện trạng về ĐTM ở Việt Nam và phương hướng trong thời gian
tới” của tác giả Chu Thị Sàng đăng trên tạp chí Bảo vệ môi trường, số 06/1997;
- Bài viết: “Những vấn đề cần xem xét để bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống tiêu
chuẩn về môi trường ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Khắc Kinh đăng trên tạp chí
Bảo vệ môi trường, số 01/1999;
- Bài viết “Tác động môi trường trong giai đoạn xây dựng Cảng Cái Lân”
của đồng tác giả Nguyễn Thị Trà Vinh và Đặng Phương Nga đăng trên Tạp chí
Hoạt động khoa học, số 11/2001;
- Bài viết “Bàn về Hội đồng thẩm định báo cáo ĐTM” của tác giả Vũ Thị
Duyên Thủy đăng trên tạp chí Luật học số 02/2003;
- Bài viết: “Về việc thực hiện pháp luật ĐTM ở Việt Nam” của tác giả Lê Sơn

Hải đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 06/2005;
- Bài viết: “Xem xét sửa đổi, bổ sung quy định về ĐTM chiến lược, ĐTM và
cam kết bảo vệ môi trường” của đồng tác giả Bùi Cách Tuyến, Mai Thanh Dung và
Phạm Anh Dũng đăng trên tạp chí Môi trường, số 08/2010.
Nhìn chung các bài viết trên đây đã nghiên cứu và làm sáng tỏ được một số
vấn đề khá sâu sắc về pháp luật môi trường nói chung cũng như pháp luật về ĐTM
nói riêng. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại giải quyết những vấn đề
cụ thể ở từng góc độ, từng thời điểm nhất định, chưa mang tính tổng quan và toàn
diện. Vì thế, có thể nói, cho đến nay ở nước ta chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách đầy đủ và có hệ thống về khái niệm, đặc điểm, vai trò, những tiêu chí pháp
luật về ĐTM và thực trạng pháp luật về ĐTM ở Việt Nam.


5
Mặc dù vậy, các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố trên đây là
những tài liệu tham khảo có giá trị, là cơ sở, nền tảng để nghiên cứu và thực hiện đề
tài "Hoàn thiện pháp luật về đánh giá tác dộng môi trường ở Việt Nam hiện nay”
trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là hoàn thiện pháp luật về môi trường ở
Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, phức tạp nên trong khuôn khổ
luận văn thạc sỹ này chúng tôi chỉ nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về ĐTM ở Việt
Nam hiện nay.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là đề xuất những phương hướng hoàn
thiện pháp luật về ĐTM ở Việt Nam hiện nay. Để đạt được mục tiêu đó, Luận văn
có nhiệm vụ: xác lập cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về ĐTM ở Việt
Nam hiện nay; đánh giá thực trạng pháp luật về ĐTM và đề xuất phương hướng
hoàn thiện pháp luật về ĐTM ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của Luận văn

Cơ sở phương pháp luận của Luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về nhà nước và pháp luật trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê...
6. Giá trị lý luận và thực tiễn của Luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn: góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề nhận
thức lý luận về ĐTM, pháp luật về ĐTM và hoàn thiện pháp luật về ĐTM ở Việt
Nam hiện nay. Luận văn góp phần đánh giá toàn diện thực trạng pháp luật về ĐTM,
trên cơ sở đó đề xuất các phương hướng khả thi nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật
về ĐTM ở Việt Nam hiện nay.


6
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết
cấu thành 2 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật về ĐTM ở Việt Nam
hiện nay.
- Chương 2: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về ĐTM ở Việt
Nam hiện nay.


7

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH
GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ
TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1.1. Khái niệm Đánh giá tác động môi trường

Khái niệm ĐTM xuất hiện trên cơ sở khái niệm môi trường. Ngày nay các
thuật ngữ "môi trường" và các khái niệm có liên quan như "ô nhiễm môi trường",
"suy thoái môi trường", "sự cố môi trường", "hệ sinh thái", "đa dạng sinh học"...
ngày càng được sử dụng rộng rãi trong khoa học, trên các phương tiện thông tin đại
chúng, trong nhân dân và trong các văn bản của Nhà nước.
Môi trường sử dụng trong lĩnh vực khoa học pháp lý là một khái niệm được
hiểu như là mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường được hiểu
như là yếu tố, hoàn cảnh và điều kiện tự nhiên bao quanh con người. Điều 01 Luật
BVMT 2005 định nghĩa: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân
tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát
triển của con người và sinh vật” [32]. Như vậy, theo Luật BVMT năm 2005, "môi
trường" bao gồm cả yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo - những yếu tố tạo
thành môi trường. Trong đó, những yếu tố vật chất tự nhiên như đất, nước, không
khí, âm thanh, ánh sáng, các hệ động vật, hệ thực vật có vai trò quan trọng nhất
trong tất cả các yếu tố hợp thành nên khái niệm môi trường. Chúng hình thành và
phát triển vốn có và nằm ngoài khả năng quyết định của con người. Con người chỉ
có thể tác động tới chúng ở những chừng mực nhất định.
Do nhu cầu ngày càng cao của con người đối với cả đời sống vật chất và đời
sống tinh thần nên con người ngày càng tác động nhiều hơn đến các yếu tố tự nhiên
nhằm làm sản sinh ra các yếu tố mang tính chất nhân tạo phục vụ cho đời sống.
Trong quá trình con người tác động vào những yếu tố tự nhiên như đất, nước, không


8
khí, âm thanh, ánh sáng, các hệ động vật, hệ thực vật thì môi trường có thể bị ô
nhiễm, bị suy thoái, thậm chí xảy ra cả sự cố môi trường.
Để bảo đảm việc giữ gìn môi trường trong lành, các quốc gia đều cần phải
xây dựng các tiểu chuẩn chất lượng môi trường. "Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn
cho phép của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng của
chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định

làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường" [32].
Theo khoản 7 Điều 3 Luật BVMT 2005 thì “suy thoái môi trường là sự suy
giảm về chất lượng và số lượng của thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu đối
với con người và sinh vật” [32]. Ví dụ: suy thoái hệ sinh thái rừng. Rừng ở nước ta
cũng như ở nhiều nước trên thế giới đang bị suy thoái mạnh với những biểu hiện:
giảm nhanh về diện tích, trữ lượng, nhiều loài thực vật, động vật bị tuyệt chủng
hoặc đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Nhiều nước trên thế giới, rừng không
còn thực hiện tốt chức năng sinh thái: giữ nước, điều hoà khí hậu, chống xói mòn,
hạn chế thiên tai. Cuộc sống của con người trên thế giới đang bị đe dọa do sự suy
thoái của hệ sinh thái rừng.
Tất cả những biến đổi đó của môi trường đòi hỏi phải có những biện pháp xử
lý thích hợp. Một trong các biện pháp đó là ĐTM.
ĐTM (tên tiếng Anh là Environmental Impact Assessment - viết tắt là EIA)
là một khái niệm pháp lý mới so với nhiều khái niệm pháp lý truyền thống khác như
hợp đồng, quyền sở hữu, tài sản... Tuy nhiên, khác với các khái niệm pháp lý khác
là phải mất nhiều thời gian, thậm chí tới hàng trăm năm mới hoàn thiện và có sự
ảnh hưởng trên quy mô toàn cầu, ĐTM chỉ mới xuất hiện được vài năm đã trở thành
một chế định pháp lý phổ biến trong hệ thống pháp luật của đa số các nước trên thế
giới. Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chung, đầy đủ, vạn năng
về ĐTM. Có thể nêu một vài ví dụ để chứng tỏ tính đa dạng của thuật ngữ này:
“ĐTM là một đánh giá cho tất cả những ảnh hưởng môi trường cũng như
những ảnh hưởng xã hội liên quan, có thể phát sinh từ một dự án (DA)” [31].


9
“ĐTM” là một sự kiểm tra có hệ thống những hậu quả về môi trường của các
DA, các chính sách, các kế hoạch và chương trình” [39].
"ĐTM” là xác định, phân tích và dự báo những tác động lợi và hại, trước mắt
và lâu dài mà việc thực hiện hoạt động có thể gây ra cho tài nguyên thiên nhiên và
chất lượng môi trường sống của con người tại nơi có liên quan tới hoạt động, trên

cơ sở đó đề xuất các biện pháp phòng, tránh, khắc phục các tác động tiêu cực"
[17,tr.16].

Theo Chương trình môi trường của Liên hiệp quốc (UNEP) thì: "ĐTM” là
một quá trình nhằm dự báo các hậu quả môi trường của một dự án. ĐTM xem xét
việc thực hiện đề án sẽ sản sinh ra những vấn đề gì đối với đời sống của con người
tại khu vực dự án và các hoạt động khác tại vùng đó. Sau dự báo ĐTM phải xác
định các biện pháp làm giảm đến mức tối thiểu các hoạt động tiêu cực làm cho dự
án thích hợp với môi trường của nó [31,tr.78].
Trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta, Luật BVMT năm 2005 đã
đưa ra một khái niệm tương đối thống nhất về mặt nội dung với các khái niệm trên
thế giới: “ĐTM là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của các DA
đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai DA đó” [38].
Nhìn chung, các khái niệm về ĐTM hiện nay trên thế giới là hết sức đa dạng
và phong phú. Tại mỗi quốc gia, khái niệm này được hiểu và định nghĩa khác nhau
tùy theo cách nhận thức và quan điểm khác nhau về đối tượng đánh giá và những
chuẩn mực khác nhau mà mỗi quốc gia lựa chọn cho việc thực hiện ĐTM tại quốc
gia mình, nhưng tựu chung lại các khái niệm mà các quốc gia đưa ra có những nội
dung cơ bản là giống nhau và chứa đựng các yếu tố đặc trưng sau:
Thứ nhất, đối tượng ĐTM là các yếu tố môi trường và yếu tố kinh tế - xã hội.
Điều này xuất phát từ việc các quốc gia đều nhìn nhận môi trường với khái niệm
đầy đủ là mang cả hai bộ phận hợp thành là môi trường tự nhiên và môi trường sống
của con người.


10
Thứ hai, phạm vi ĐTM là các hoạt động phát triển. Trong bối cảnh phát triển
các quốc gia đều nhìn nhận vấn đề này trong sự phát triển của nền kinh tế cũng như
trong lĩnh vực xã hội hiện tại các quốc gia ngày càng giành nhiều sự quan tâm hơn
cho sự phát triển bền vững (PTBV) của chính nước mình trong tương lai. Xem xét

vấn đề này trong phạm vi các hoạt động phát triển là đánh giá các hoạt động nhằm
phát triển nhưng phải nhìn nhận và đánh giá một cách cụ thể sự phát triển đó, với
mục đích làm giảm hoặc tránh các tiêu cực phát sinh trong quá trình phát triển đó.
Thứ ba, ĐTM nhằm xác định, dự báo, ngăn ngừa những ảnh hưởng tiềm
năng đến môi trường, xã hội và sức khỏe con người của một hoạt động phát triển.
Đây là mục tiêu mà các quốc gia đều hướng tới trong việc xây dựng luật môi trường
cũng như hoàn thiện các chế định về ĐTM vì đây thực chất là một hoạt động dự báo
và có tác dụng phòng ngừa hết sức hiệu quả các tác động xấu mà một họat động
phát triển có thể gây ra cho môi trường.
Thứ tư, ĐTM nhằm mục đích đưa ra quyết định đúng đắn đảm bảo gắn sự
phát triển kinh tế xã hội với việc BVMT, hay nói cách khác là tạo ra sự phát triển
bền vững (PTBV). Như đã đề cập, thực chất của ĐTM là cung cấp tư liệu đã được
cân nhắc, phân tích một cách khoa học về những lợi ích và tổn thất tiềm tàng về tài
nguyên môi trường để các cơ quan ra quyết định có điều kiện lựa chọn phương án
phát triển một cách hợp lý hơn, chính xác hơn. Chẳng hạn như việc xây dựng một
nhà máy sản xuất xi măng ở nơi đông dân cư, ngoài việc gây ô nhiễm môi trường
xung quanh, nó còn ảnh hưởng đến đời sống nhân dân (về sức khỏe có thể mắc các
căn bệnh về phổi, viêm mũi...) từ đó có thể ngăn chặn bằng cách không cho phép
xây dựng nhà máy tại địa điểm đó hoặc buộc phải sử dụng công nghệ, thiết bị hiện
đại trong sản xuất.
Thứ năm, ĐTM nhằm tìm kiếm những phương thức tiến hành tốt nhất, nhằm
loại bỏ hoặc tối thiểu hóa các tác động có hại và phát huy sử dụng tối đa những tác
động có lợi.


11
Thứ sáu, ĐTM nhằm đảm bảo cho cộng đồng hoặc các cá thể không phải
chịu chi phí vượt quá lợi nhuận mà họ nhận được.
Thứ bảy, ĐTM tạo ra cơ hội để có thể trình bày với người ra quyết định về
tính phù hợp của hoạt động dự án về mặt môi trường, nhằm ra quyết định có tiếp tục

thực hiện hay không.
Thứ tám, thông qua ĐTM nhiều dự án có nguy cơ, rủi ro cao đối với môi
trường và xã hội đó buộc phải chấm dứt hoặc điều chỉnh lại.
Tóm lại, ĐTM được coi như là một công cụ hiệu quả để phòng, chống suy
thoái, ô nhiễm và sự cố môi trường. Thông qua ĐTM sẽ dự báo được các tác động
xấu đối với môi trường khi thực hiện dự án và có các biện pháp phù hợp để xử lý
hoặc hạn chế.
1.1.2. Khái niệm pháp luật về Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam hiện
nay
Như trên đã phân tích, ĐTM là một trong những biện pháp quan trọng mà
các quốc gia cần phải sử dụng để BVMT. Vì vậy, với tư cách là công cụ hữu hiệu
để đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa các lợi ích kinh tế - xã hội với các lợi ích về
môi trường thì đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của Nhà nước về ĐTM. Do đó, pháp
luật về ĐTM ra đời là một tất yếu khách quan. Xuất phát từ đặc thù môi trường là
một khái niệm rộng lớn, đa dạng và cấu thành từ nhiều thành tố như đã phân tích ở
trên, các thành tố môi trường đó có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, một thành tố bị
ô nhiễm sẽ ảnh hưởng xấu đến các thành tố khác của môi trường. Cho nên, BVMT
không những là việc bảo vệ đồng thời các thành tố của môi trường như gìn giữ,
khắc phục sự suy thoái môi trường, các sự cố có thể xảy ra, mà cần phải có quy
định giới hạn, quy định cách thức, tiêu chuẩn hành vi của con người khi khai thác,
sử dụng tài nguyên thiên nhiên môi trường sao cho không để lại hậu quả bất lợi đối
với môi trường thiên nhiên.
Với cách hiểu như trên, pháp luật BVMT bao gồm các quy định pháp luật
nhằm bảo vệ hiệu quả môi trường và các thành tố của nó, đồng thời, Nhà nước cũng


12
ban hành các quy định giới hạn hành vi, xác định nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân
trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên - các thành tố của môi
trường. Do đó, có thể thấy quan hệ xã hội mà pháp luật BVMT nói chung và pháp

luật về ĐTM nói riêng điều chỉnh là rất đa dạng và phức tạp, có thể nhóm thành các
nhóm cơ bản như sau:
- Nhóm quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình khai thác, sử dụng
hoặc tác động đến một hoặc một số yếu tố của môi trường. Tuy nhiên, không phải
bất cứ sự tác động nào của các chủ thể vào các yếu tố của môi trường cũng làm phát
sinh quan hệ pháp luật về về ĐTM. Các vấn đề pháp luật về ĐTM chỉ nảy sinh khi
nào sự tác động đó gây tổn hại hoặc có nguy cơ gây tổn hại đến môi trường.
- Nhóm quan hệ phát sinh giữa chủ đầu tư với cơ quan quản lý nhà nước về
môi trường. Thực chất, mối quan hệ này là mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà
nước về BVMT với cơ quan thực thi ĐTM.
Xét từ góc độ quản lý hành chính nhà nước, cơ quan quản lý tài nguyên và
môi trường là Chính phủ, các bộ, ngành, các cơ quan quản lý nhà nước ở địa
phương (Uỷ ban nhân dân - UBND), các sở, ban, phòng chuyên môn thuộc UBND).
Các cơ quan này có trách nhiệm: ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp
luật về BVMT, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường; xây dựng, chỉ đạo thực
hiện chiến lược, chính sách BVMT, kế hoạch phòng, chống, khắc phục suy thoái
môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường; xây dựng, quản lý các công
trình BVMT, công trình có liên quan đến BVMT; tổ chức, xây dựng, quản lý hệ
thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường;
thẩm định báo cáo ĐTM của các dự án và các cơ sở sản xuất, kinh doanh; cấp, thu hồi
giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường; giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp
hành pháp luật về BVMT; giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo BVMT, xử lý vi
phạm pháp luật về BVMT.
- Ngoài mối quan hệ giữa chủ đầu tư với cơ quan quản lý hành chính nhà
nước về môi trường, pháp luật về ĐTM còn điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa


13
chủ đầu tư và cơ quan, tổ chức tư vấn, soạn thảo báo cáo về ĐTM và giữa cơ quan,
tổ chức tư vấn đối với cơ quan quản lý hành chính nhà nước về môi trường.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, các chủ DA có thể tự mình hoặc thuê
tổ chức dịch vụ tư vấn lập báo cáo về ĐTM và chịu trách nhiệm về các số liệu, kết
quả nêu trong báo cáo về ĐTM (khoản 3 Điều 19 Luật BVMT 2005) [38]. Do đó,
trên thực tế hầu hết các chủ DA không có khả năng tự mình lập báo cáo về ĐTM
mà họ phải thông qua các cơ quan tư vấn và ở đây đã phát sinh mối quan hệ giữa cơ
quan quản lý hành chính nhà nước về môi trường với các tổ chức dịch vụ này.
Như vậy, ĐTM có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Xét dưới
góc độ quản lý, nó được coi là một biện pháp quản lý hành chính nhà nước về môi
trường; xét dưới góc độ khoa học, nó là những nghiên cứu về mối liên hệ, những tác
động biện chứng giữa các chính sách, hoạt động phát triển và môi trường. Xét ở
khía cạnh chủ quan của pháp luật thì ĐTM là hệ thống các quy tắc xử sự mà các chủ
thể cần phải thực hiện một hoạt động phát triển có ảnh hưởng và tác động đến môi
trường.
Trên cơ sở phân tích các mối quan hệ về ĐTM nêu trên, có thể hiểu: pháp
luật về ĐTM là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm
thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý hành
chính nhà nước về môi trường; các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá
trình khai thác, sử dụng hoặc tác động đến một hoặc một vài yếu tố của môi trường.
Pháp luật về ĐTM có những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Một là, phản ánh đặc thù của ĐTM, vừa có những quy phạm mang tính tố
tụng, vừa có những quy phạm mang tính hành chính.
- Hai là, pháp luật ĐTM quy định hoạt động thực tiễn thực hiện quyền lực
của Nhà nước trong việc BVMT, là tổng thể các quy định về trình tự, thủ tục ĐTM.
- Ba là, các quy định pháp luật về ĐTM nằm rải rác trong các văn bản quy
phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau như Luật BVMT, các nghị định,


14
thông tư hướng dẫn thi hành; Luật đất đai, Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật
khoáng sản, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và

nhiều VBQPPL khác.
1.1.3. Vai trò của pháp luật về Đánh giá tác động môi trường
Để thực hiện nhiệm vụ BVMT, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều công
cụ, trong đó công cụ hữu hiệu nhất đó là pháp luật về ĐTM. Vai trò của pháp luật
về ĐTM thể hiện qua những khía cạnh sau:
- Pháp luật về ĐTM là phương tiện thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ
trương và chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác BVMT.
Quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ IX về BVMT đã được thể chế hoá trong
"Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020", trong đó đã xác định: “Chiến lược bảo vệ môi trường là bộ phận cấu thành
không thể tách rời của chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, là cơ sở quan trọng bảo
đảm PTBV đất nước. Phát triển kinh tế phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển
xã hội và BVMT. Đầu tư BVMT là đầu tư cho PTBV” [36]. Đây là việc làm thường
xuyên, lâu dài. Trong BVMT, cần coi phòng ngừa là chính, kết hợp với xử lý và
kiểm soát ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện chất lượng môi trường. BVMT
phải trên cơ sở tăng cường quản lý nhà nước, thể chế và pháp luật đi đôi với việc
nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của mọi người dân, của toàn xã hội về
BVMT.
Trong các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, lần thứ XI đều nhấn
mạnh vấn đề BVMT trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, thực hiện vai
trò của mình, pháp luật về ĐTM đã thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng
thành các quy định cụ thể về ĐTM và làm cho nó đi vào cuộc sống.
- Pháp luật về ĐTM quy định các quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện
khi khai thác và sử dụng các yếu tố của môi trường. Nguồn gốc của mọi biến đổi về
môi trường sống của con người đang xảy ra hiện nay trên thế giới, cũng như ở nước
ta hiện nay là do các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của con người. Các hoạt


15
động này một mặt cải thiện chất lượng cuộc sống của con người, mặt khác cũng tạo

ra hàng loạt các vấn đề như: khan hiếm, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm, suy thoái môi
trường... Pháp luật ĐTM với tư cách là công cụ điều tiết các hành vi của các thành
viên trong xã hội có tác dụng rất lớn trong việc định hướng quá trình khai khai thác
và sử dụng các thành phần của môi trường.
- Pháp luật về ĐTM quy định các chế tài hình sự, hành chính, kinh tế để buộc
các tổ chức, cá nhân phải thực hiện đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật về ĐTM trong
việc khai thác và sử dụng các yếu tố của môi trường.
- Thông qua pháp luật, Nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của các tổ chức, cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ tài nguyên, môi trường như
quyền thanh tra, kiểm tra, giám sát... việc thực hiện pháp luật về ĐTM.
- Một trong những vai trò to lớn của pháp luật BVMT thể hiện ở việc ban
hành các tiêu chuẩn môi trường (TCMT), quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi
trường (QCVN). Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước về môi trường
TCMT, QCVN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. TCMT, QCVN vừa là một quy
phạm kỹ thuật, vừa là một quy phạm pháp luật. Trên cơ sở tiêu chuẩn môi trường,
nhà nước có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn và khắc phục tình trạng ô nhiễm
môi trường và xử lý kịp thời các vi phạm quy định về môi trường, còn các tổ chức,
cá nhân sẽ biết được rõ quyền và nghĩa vụ của mình như thế nào trong quá trình tác
động vào các thành phần môi trường để từ đó họ tự điều chỉnh hành vi của mình, cố
gắng hạn chế đến mức thấp nhất việc vi phạm các quy định của pháp luật môi
trường và từ đó môi trường sẽ được bảo vệ.
1.1.4. Nội dung của pháp luật về Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam
hiện nay
Xuất phát từ khái niệm, đặc điểm của pháp luật về ĐTM như đã nêu trên, đòi
hỏi nội dung pháp luật về ĐTM phải thể hiện sự điều chỉnh đầy đủ, toàn diện đối
với các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động ĐTM, bao gồm:
các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước về môi


16

trường; trình tự, thủ tục ĐTM; các biện pháp bảo đảm hoạt động ĐTM... Cụ thể là
một số nội dung cơ bản sau đây:
- Các quy định về đối tượng phải ĐTM:
Thông thường việc xác định đối tượng phải ĐTM căn cứ vào địa điểm thực
hiện hoạt động phát triển, mục đích hay quy mô của hoạt động phát triển. Theo
quy định của pháp luật hiện hành thì đối tượng phải ĐTM gồm có: dự án công trình
quan trọng quốc gia; dự án có sử dụng một phần diện tích đất hoặc có ảnh hưởng
xấu đến khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, các khu di tích lịch sử - văn hoá, di
sản tự nhiên, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng; dự án có nguy cơ ảnh hưởng
xấu đến nguồn nước lưu vực sông, vùng ven biển, vùng có hệ sinh thái được bảo vệ;
dự án xây dựng kết cấu hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao,
khu chế xuất, cụm làng nghề; dự án xây dựng khu đô thị mới, khu dân cư tập trung;
dự án khai thác, sử dụng nước dưới đất, tài nguyên thiên nhiên quy mô lớn; dự án
khác có tiềm ẩn nguy cơ lớn gây tác động xấu đối với môi trường [23].
Như vậy, pháp luật quy định, trách nhiệm thực hiện việc ĐTM được áp dụng
đối với tất cả các tổ chức, cá nhân tiến hành các DA phát triển. Danh mục các DA
phải lập báo cáo ĐTM đã được Chính phủ quy định cụ thể tại Phụ lục II Nghị định
số 29/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2011 của Chính phủ quy định về đánh giá
môi trường chiến lược, ĐTM và cam kết bảo vệ môi trường và dựa vào mức độ ảnh
hưởng tới môi trường của các DA được phân thành 2 loại:
+ DA loại I gồm những DA có tiềm năng gây ô nhiễm môi trường trên diện
rộng, dễ gây ra sự cố môi trường, khó khống chế và khó xác định TCMT. Các DA
này phải lập và trình thẩm định báo cáo ĐTM, ví dụ như: các công trình nằm trong
hoặc kế cận các khu vực nhạy cảm về môi trường, các khu bảo tồn thiên nhiên, khu
du lịch, di tích văn hóa, lịch sử có tầm cỡ quốc gia và quốc tế, khu công nghiệp, khu
chế xuất, khai thác và chế biến dầu khí...
+ DA loại II gồm những DA còn lại. Những DA này không phải lập báo cáo
ĐTM mà sẽ được đăng ký Bản cam kết BVMT trên cơ sở đưa ra bản cam kết thực



17
hiện các biện pháp giảm thiểu, xử lý chất thải và tuân thủ các quy định của pháp
luật về bảo vệ môi trường. Giống như báo cáo ĐTM, cam kết BVMT cũng bao gồm
các nội dung đánh giá các tác động của DA đối với môi trường và đề xuất các giải
pháp giảm thiểu các tác động này. Tuy nhiên, do mức độ tác động tới môi trường
thấp hơn nên thay vì phải thực hiện các bước trình và xin phê duyệt trước khi triển
khai DA, các chủ DA này được tự mình đưa ra các cam kết về BVMT và tự chịu
trách nhiệm về các cam kết, các biện pháp BVMT mà mình đưa ra và đăng ký với
UBND cấp huyện để được chấp thuận Bản cam kết BVMT.
- Các quy định về quy trình ĐTM:
Theo quy định của pháp luật, trong luận chứng kinh tế kỹ thuật của mỗi dự
án đều phải đề cập hoặc có một chương nói về tác động môi trường của dự án, cơ
quan quản lý hành chính nhà nước về môi trường sẽ tiến hành xem xét hồ sơ và cho
ý kiến nhận xét về khía cạnh môi trường của dự án, cụ thể hơn đây là bước sàng lọc
nhằm xác định dự án thuộc loại phải trình duyệt Báo cáo ĐTM hoặc chỉ cần lập Bản
cam kết BVMT hoặc không cần thiết phải có các thủ tục về môi trường hoặc không
đồng ý cấp phép cho dự án vì lý do môi trường. Giai đoạn này thường kéo dài
khoảng 15 ngày: nếu dự án được xếp vào loại chỉ cần lập Cam kết BVMT, chủ dự
án phải tiến hành lập và trình cơ quan quản lý hành chính nhà nước về BVMT xem
xét. Chấp thuận Bản cam kết BVMT là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền xem
xét cấp phép đầu tư cho dự án. Nếu dự án thuộc diện phải trình duyệt Báo cáo
ĐTM, chủ dự án phải tiến hành lập Báo cáo ĐTM trình cơ quan quản lý hành chính
nhà nước về BVMT xem xét thẩm định ở các cấp khác nhau theo sự phân cấp tại
Nghị định 29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011 của Chính phủ. Quá trình thẩm định
Báo cáo ĐTM kéo dài không quá 60 ngày (đối với Báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền
thẩm định của Bộ TN&MT) hoặc 45 ngày (đối với Báo cáo ĐTM khác), kể từ ngày
hồ sơ thẩm định được gửi đầy đủ tới cơ quan trực tiếp thực hiện chức năng dưới
hình thức tổ chức hội đồng thẩm định. Quá trình thẩm định sẽ đưa ra một số kết quả
sau đây:



18
- Báo cáo ĐTM đạt yêu cầu (có nghĩa là Hội đồng thông qua);
- Báo cáo ĐTM được thông qua nhưng phải chỉnh sửa, bổ sung;
- Báo cáo ĐTM không được chấp nhận.
Sau khi Báo cáo ĐTM được Hội đồng thông qua, Hội đồng thẩm định sẽ
trình lên cấp có thẩm quyền ra quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM. Quyết định phê
duyệt báo cáo ĐTM là cơ sở để cấp giấy phép xây dựng cho dự án.
Theo quy định tại Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011, trước khi
công trình được phép đưa vào sử dụng chính thức, cơ quan quản lý Nhà nước về bảo
vệ môi trường tiến hành kiểm tra các công trình xử lý chất thải và các điều kiện an
toàn khác theo qui định BVMT. Nếu phát hiện công trình không tuân thủ đúng những
phương án BVMT đã được duyệt, thì yêu cầu chủ dự án phải thực hiện theo đúng
Báo cáo ĐTM đã được phê duyệt hoặc Bản cam kết BVMT đã được chấp thuận. Khi
dự án đã thực hiện đúng các yêu cầu về BVMT, cơ quan quản lý nhà nước về BVMT
sẽ xem xét để cấp Giấy xác nhận việc thực hiện các công trình, biện pháp BVMT
phục vụ giai đoạn vận hành của dự án (đối với dự án phải lập báo cáo ĐTM).
- Các quy định về điều kiện của tổ chức lập báo cáo ĐTM:
Để nâng cao chất lượng báo cáo ĐTM và trách nhiệm của Đơn vị tư vấn
trong việc lập báo cáo ĐTM, Điều 16 Nghị định số 29/2011/NĐ-CP đã quy định tổ
chức lập báo cáo ĐTM phải đảm bảo các điều kiện: có cán bộ chuyên ngành môi
trường với 05 năm kinh nghiệm trở lên nếu có bằng đại học, ba (03) năm nếu có
bằng thạc sỹ, một (01) năm đối với trình độ tiến sỹ; có cán bộ chuyên ngành liên quan
đến dự án với trình độ đại học trở lên; có cơ sở vật chất - kỹ thuật, thiết bị chuyên dụng
để đo đạc, lấy mẫu, xử lý, phân tích các mẫu về môi trường, đảm bảo các yêu cầu về
kỹ thuật. Trong trường hợp không có thiết bị chuyên dụng đáp ứng yêu cầu, phải có
hợp đồng thuê đơn vị có đủ năng lực. Đơn vị tư vấn lập báo cáo ĐTM còn phải chịu
trách nhiệm trước chủ dự án và trước pháp luật về các thông tin, số liệu của mình trong
báo cáo ĐTM [23].



19
- Các quy định về nội dung báo cáo ĐTM:
Xuất phát từ thực tế là báo cáo ĐTM được lập đối với các DA đầu tư cụ thể
nên yêu cầu về nội dung báo cáo ĐTM đòi hỏi tính chi tiết cao hơn, cụ thể là nội
dung báo cáo quy định tại Luật BVMT 2005 và Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày
18/4/2011 của Chính phủ và phải thể hiện được các vấn đề sau:
+ Mô tả dự án đầu tư: bao gồm thông tin chi tiết về các hạng mục công trình
của dự án, quy mô về không gian, thời gian và khối lượng thi công; công nghệ vận
hành của từng hạng mục công trình và của cả DA;
+ Các thông tin đánh giá về môi trường gồm: đánh giá về hiện trạng môi
trường cả nơi thực hiện DA và vùng kế cận, đánh giá mức độ nhạy cảm và sức chịu
tải của môi trường; đánh giá chi tiết các tác động môi trường có khả năng xảy ra khi
DA được thực hiện và các thành phần môi trường, yếu tố kinh tế - xã hội chịu tác
động của dự án; dự báo rủi ro về sự cố môi trường do công trình gây ra.
+ Các giải pháp về mặt môi trường được đề xuất gồm: các biện pháp cụ thể
được đề xuất để giảm thiểu các tác động xấu đối với môi trường; các biện pháp
phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường; cam kết thực hiện các biện pháp BVMT
trong quá trình xây dựng và vận hành công trình; danh mục công trình, chương trình
quản lý và giám sát các vấn đề môi trường trong quá trình triển khai thực hiện DA;
dự toán kinh phí xây dựng các hạng mục công trình BVMT trong tổng dự toán kinh
phí của DA.
+ Các thông tin tham vấn: báo cáo ĐTM phải phản ánh được ý kiến của
UBND xã, phường, thị trấn, đại diện cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án; đặc
biệt, các ý kiến không tán thành việc đặt dự án tại địa phương hoặc không tán thành
đối với các giải pháp BVMT phải được nêu trong ĐTM .
Đối với bản cam kết BVMT, yêu cầu về nội dung mặc dù đơn giản hơn nhiều
so với nội dung của báo cáo ĐTM, tuy nhiên các nội dung đặt ra cũng tương đối cụ
thể, bao gồm hai nội dung chính là mô tả về DA (địa điểm, loại hình, quy mô,



×