Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

So sánh các quy định về cho thuê lại lao động trong bộ luật lao động việt nam và pháp luật trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.82 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HỒ THỊ QUỲNH TRANG

SO SÁNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG
TRONG BỘ LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM 2012
VÀ PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Ngân Bình

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Học viên

Hồ Thị Quỳnh Trang




LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm
của các thầy giáo, cô giáo và những người thân của tôi.
Trước tiên, tôi muốn được gửi lời cảm ơn đến Khoa Sau Đại học cùng
các thầy cô giáo Khoa Pháp luật Kinh tế trường Đại học Luật Hà Nội đã
truyền đạt kiến thức quý báu cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu
tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Đỗ Ngân Bình đã hết mực quan tâm,
động viên và hướng dẫn tôi tận tình trong suốt quá trình thực hiện đề tài
luận văn thạc sĩ luật học.
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã khích lệ
và giúp đỡ tôi trong thời gian qua để có thể hoàn thành tốt nhất luận văn
này.

Học viên

Quỳnh Trang


BẢNG TỪ VIẾT TẮT

BLLD:

Bộ luật Lao động

HĐLĐ:


Hợp đồng lao động

NLĐ:

Người lao động
NSDLĐ:

Người sử dụng lao động


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài .................................................................. 4
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................................................... 4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài ................................ 5
6. Cơ cấu của luận văn ................................................................................... 6
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHO THUÊ LẠI LAO
ĐỘNG VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ......... 7
CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG ....................................................................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về cho thuê lại lao động ........................................ 7
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của hoạt động cho thuê lại lao động ................ 7
1.1.1.1 Khái niệm cho thuê lại lao động ......................................................... 7
1.1.2 Ảnh hưởng của hoạt động cho thuê lại lao động ................................. 13
1.1.2.1 Ảnh hưởng tích cực........................................................................... 13
1.1.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực.......................................................................... 16
1.1.3 Phân biệt hoạt động cho thuê lại lao động với một số hoạt động khác.17
1.2. Điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động cho thuê lại lao động................ 19

1.2.1 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ cho thuê lại
lao động ....................................................................................................... 19
1.2.2 Một số nội dung cơ bản của pháp luật về cho thuê lại lao động ......... 21
Kết luận chương 1 ........................................................................................ 25
CHƯƠNG II: NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG
BLLĐ VIỆT NAM 2012 VÀ PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC ....................... 26
VỀ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG............................................................... 26
2.1. Tổng quan quy định về cho thuê lại lao động trong BLLĐ Việt Nam 2012
và pháp luật Trung Quốc .............................................................................. 26
2.1.1 Quy định về cho thuê lại lao động trong BLLĐ Việt Nam 2012 .......... 26


2.1.2. Quy định về cho thuê lại lao động trong Luật về hợp đồng lao động của
Trung Quốc năm 2007 .................................................................................. 28
2.2. Những điểm tương đồng trong BLLĐ Việt Nam 2012 và pháp luật Trung
Quốc về cho thuê lại lao động ...................................................................... 29
2.2.1. Các điều kiện đối với các bên tham gia hoạt động cho thuê lại lao động
và các điều kiện có liên quan khác. .............................................................. 29
2.2.2. Hợp đồng cho thuê lại lao động giữa doanh nghiệp cho thuê lại lao
động và bên thuê lại lao động....................................................................... 30
2.2.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ cho thuê lại lao động.. 31
2.2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cho thuê lại lao động ............ 31
2.2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thuê lại lao động ................... 32
2.2.3.3. Quyền và nghĩa vụ của NLĐ thuê lại ............................................... 34
2.3. Những điểm khác trong BLLĐ Việt Nam 2012 và pháp luật Trung Quốc
khi quy định về cho thuê lại lao động ........................................................... 36
2.3.1. Các điều kiện đối với các bên tham gia hoạt động cho thuê lại lao
động và các điều kiện có liên quan khác....................................................... 36
2.3.2. HĐLĐ giữa doanh nghiệp cho thuê lại lao động với NLĐ thuê lại .... 39
2.3.3 Hợp đồng cho thuê lại lao động giữa doanh nghiệp cho thuê lại lao

động và doanh nghiệp thuê lại lao động ....................................................... 41
2.3.4 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ cho thuê lại lao động... 44
2.3.4.1. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cho thuê lại lao động ............ 44
2.3.4.2. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thuê lại lao động ................... 47
2.3.4.3. Quyền và nghĩa vụ của NLĐ thuê lại ............................................... 51
2.3.5. Trách nhiệm pháp lý đối với các bên khi vi phạm pháp luật về cho thuê
lại lao động .................................................................................................. 52
Kết luận chương 2 ........................................................................................ 54
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ
CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG TRÊN CƠ SỞ THAM KHẢO ..................... 55
KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC ....................................................... 55


3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về cho thuê lại lao động của Việt
Nam ............................................................................................................. 55
3.2. Những yêu cầu cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật về cho thuê lại lao
động của Việt Nam....................................................................................... 56
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về cho thuê lại lao động của
Việt Nam trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc trong điều kiện
thực tế ở Việt Nam ....................................................................................... 58
3.3.1.Đề xuất hình thức pháp luật điều chỉnh hoạt động cho thuê lại lao động
..................................................................................................................... 58
3.3.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về cho thuê lại lao
động ............................................................................................................. 60
Kết luận chương 3 ........................................................................................ 68
KẾT LUẬN.................................................................................................. 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 71


1


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cho thuê lại lao động ở Việt Nam là một xu hướng khách quan có ý
nghĩa quan trọng không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả về mặt xã hội. Cho
thuê lại lao động xuất phát từ chính nhu cầu sản xuất kinh doanh của
NSDLĐ, đáp ứng nhu cầu việc làm của NLĐ và nhu cầu của xã hội. Hoạt
động cho thuê lại lao động đã xuất hiện từ lâu tại Việt Nam nhưng chưa
thực sự phổ biến. Tuy nhiên theo quy luật của kinh tế thị trường và trong
quá trình hội nhập, xu hướng hoạt động cho thuê lại lao động ngày càng trở
nên phổ biến, nhất là trong một thị trường lao động còn chưa hoàn hảo
hoặc ở những khu vực giàu tiềm năng có thị trường lao động phát triển
mạnh (như ở các đô thị lớn, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công
nghiệp tập trung...).
BLLĐ năm 2012 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012 đã có sự
điều chỉnh phù hợp với thực tế thị trường lao động và quan hệ lao động
hiện nay; trong đó BLLĐ năm 2012 đã thêm một mục gồm 6 Điều có nội
dung hoàn toàn mới về “cho thuê lại lao động”. Mặc dù trong thực tiễn cho
thuê lại lao động không phải là hoạt động mới xuất hiện tại Việt Nam
nhưng xét dưới góc độ pháp luật thì đây là một nội dung hoàn toàn mới bởi
lần đầu tiên được quy định trong BLLĐ nhằm giải quyết yêu cầu cấp thiết
trong thực tiễn. BLLĐ quy định những vấn đề cơ bản, chủ yếu về hình thức
sử dụng lao động mới, từ đó tạo lập khung pháp lý cho vấn đề cho thuê lại
lao động để nhằm điều chỉnh quan hệ lao động mới phát sinh từ việc cho
thuê lại lao động. Để hoàn thiện các quy định của pháp luật về cho thuê lại
lao động, các nhà lập pháp Việt Nam cần phải có sự nghiên cứu, tiếp thu có
chọn lọc các quy định của pháp luật về cho thuê lại lao động của các quốc



2

gia có nền lập pháp phát triển trong khu vực nói riêng và trên toàn thế giới
nói chung.
Trong số các quốc gia đó, Trung Quốc là sự lựa chọn được các nhà
nghiên cứu lập pháp đặc biệt quan tâm bởi Trung Quốc có nhiều điểm
tương đồng với Việt Nam về điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
“Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia xây dựng Nhà nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản với Nhà nước”. Việt Nam và Trung Quốc chủ trương xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, Trung Quốc và Việt Nam còn
có đặc điểm chung đều là các thành viên mới gia nhập Tổ chức Thương
mại quốc tế. Đối với cả hai quốc gia, việc tham gia vào Tổ chức Thương
mại quốc tế là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới hệ thống pháp luật nói
chung và pháp luật về cho thuê lại lao động nói riêng. Đồng thời, Trung
Quốc cũng có nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật
khi chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc nghiên cứu pháp luật về cho thuê lại lao động
của Trung Quốc thông qua so sánh hai hệ thống pháp luật của Việt Nam và
Trung Quốc điều chỉnh vấn đề cho thuê lại lao động sẽ góp phần tiếp thu
học hỏi những kinh nghiệm của Trung Quốc để hoàn thiện các quy định về
cho thuê lại lao động là cần thiết.
Đây là những lý do cơ bản để tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu: “So
sánh các quy định về cho thuê lại lao động trong BLLĐ Việt Nam 2012
và pháp luật Trung Quốc”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, vấn đề cho thuê lại lao động còn khá mới mẻ. Trước khi
BLLĐ2012 được thông qua cũng đã có một số công trình nghiên cứu về



3

vấn đề này, tiêu biểu là : (i) Báo cáo nghiên cứu chuyên đề của ThS. Mai
Đức Thiện – Trưởng phòng pháp chế lao động, Vụ pháp chế, Bộ Lao động
– Thương binh và xã hội : “Hoạt động cho thuê lại lao động với việc sửa
đổi BLLĐ ở Việt Nam” tổng kết đánh giá các hoạt động của Vụ Pháp chế
trong quá trình sửa đổi BLLĐ, đã tiến hành nghiên cứu về cho thuê lại lao
động và đưa ra một số đề xuất, kiến nghị về khung pháp luật điều chỉnh
hoạt động cho thuê lại lao động trong BLLĐ sửa đổi; (ii) các Báo cáo của
các Sở Lao động – Thương binh và xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương về thực trạng cho thuê lại lao động trên địa bàn quản lý của mình, tuy
nhiên các báo cáo này còn khá sơ sài, chưa thể phản ánh toàn cảnh bức
tranh sinh động về cho thuê lại lao động đã và đang diễn ra tại Việt
Nam;(iii) Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường / Chủ nhiệm đề tài: TS.
Nguyễn Xuân Thu “Cho thuê lại lao động - Một hướng điều chỉnh của pháp
luật lao động Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế”, đề tài này cũng đã đề cập những vấn đề lý luận về cho thuê lại lao động
và đưa ra những kiến nghị xây dựng luật; (iv) luận văn thạc sĩ luật học của
Đào Thùy Dung “Cho thuê lại lao động ở Việt Nam – thực trạng và hướng
điều chỉnh của pháp luật lao động”, luận văn này mới chỉ nêu thực trạng và
đưa ra một vài kiến nghị về xây dựng luật; (iv) bên cạnh đó còn có nhiều
bài viết trên các báo, tạp chí. Các bài viết này chủ yếu tập trung đánh giá
vào một vài khía cạnh thực trạng cho thuê lại lao động ở Việt Nam và đưa
ra một vài đề xuất kiến nghị sửa đổi BLLĐ. Trường đại học luật Hà Nội
cùng các chuyên gia Cộng hòa liên bang Đức cũng đã tổ chức hội thảo về
vấn đề cho thuê lại lao động tại Hà Nội vào năm 2011.
Vấn đề cho thuê lại lao động lần đầu tiên được quy định trong BLLĐ
2012 được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/6/2012. Kể

từ thời điểm này cũng đã có một số bài viết trên các báo, tạp chí viết về các
quy định về cho thuê lại lao động trong BLLĐ 2012, tuy nhiên các bài viết


4

mới chỉ tập trung viết một vài khía cạnh của vấn đề. Hiện nay vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu có hệ thống, toàn diện về quy định về cho thuê
lại lao động trong BLLĐ Việt Nam 2012, đặc biệt là việc nghiên cứu trên
cơ sở tìm hiểu pháp luật nước ngoài để nhằm bổ sung, hoàn thiện pháp luật
về cho thuê lại lao động. Chính vì vậy công trình nghiên cứu đề tài “So
sánh các quy định về cho thuê lại lao động trong BLLĐ Việt Nam 2012
và pháp luật Trung Quốc” hoàn toàn độc lập và không phải sự lặp lại của
công trình nghiên cứu nào.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu nói trên nhằm hướng tới những mục tiêu sau đây:
Thứ nhất, tìm hiểu những vấn đề chung có tính chất lý luận về cho
thuê lại lao động và pháp luật về cho thuê lại lao động
Thứ hai, so sánh quy định về cho thuê lại lao động trong BLLĐ Việt
Nam 2012 và Luật hợp đồng lao động Trung Quốc để tìm ra những điểm
tương đồng và khác biệt giữa pháp luật hai nước về vấn đề này.
Thứ ba, tìm hiểu những kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc ban
hành và thực thi pháp luật về cho thuê lại lao động. Từ đó, xem xét khả
năng vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc trong điều kiện thực tiễn ở
Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn này tập trung nghiên cứu pháp luật về cho thuê lại lao động
trong BLLĐ Việt Nam 2012 và pháp luật Trung Quốc vì đây là đề tài có
tính chất so sánh và tìm hiểu pháp luật của 2 quốc gia nói trên. Các vấn đề
được nghiên cứu đó là: i) các điều kiện đối với các bên tham gia hoạt động

cho thuê lại lao động và các điều kiện có liên quan khác: điều kiện về
doanh nghiệp cho thuê lại lao động; điều kiện về công việc được thực hiện
cho thuê lại lao động; ii) HĐLĐ giữa doanh nghiệp cho thuê lại lao động
với NLĐ thuê lại; iii) Hợp đồng cho thuê lại lao động giữa doanh nghiệp


5

cho thuê lại lao động và doanh nghiệp thuê lại lao động; iv) Quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ cho thuê lại lao động; v) trách nhiệm
pháp lý khi vi phạm pháp luật về cho thuê lại lao động.
Do bị giới hạn về số lượng trang nên trong luận văn này tác giả chỉ
tập trung nghiên cứu và so sánh hai văn bản pháp luật chính của Việt Nam
và Trung Quốc khi điều chỉnh về vấn đề cho thuê lại lao động. Đó là BLLĐ
Việt Nam 2012 và Luật về HĐLĐ của Trung Quốc 2007. Những vấn đề
chưa cụ thể trong Bộ luật hoặc luật được cụ thể hóa bằng các quy định
trong văn bản dưới luật của cả hai nước sẽ được nghiên cứu ở những đề tài
tiếp theo.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Khóa luận được thực hiện trên cở sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để
giải quyết các vấn đề về liên quan đến việc nghiên cứu pháp luật về cho
thuê lại lao động.
Bên cạnh đó trong từng nội dung cụ thể của luận văn, tác giả cũng đã sử
dụng phối hợp các phương pháp sau đây:
Thứ nhất, phương pháp so sánh tổng hợp. so sánh các quy định pháp
luật về cho thuê lại lao động trong BLLĐ Việt Nam 2012 và Luật HĐLĐ
của Trung Quốc dựa trên các tiêu chí nhất định- chính là các nội dung sẽ so
sánh. Khi so sánh, chúng ta sẽ có cái nhìn tổng quát về các quy định pháp
luật của hai nước về cho thuê lại lao động.

Thứ hai, kết hợp các phương pháp đối chiếu, phân tích, đánh giá dựa
trên việc sử dụng so sánh để tìm ra những nét tương đồng và khác biệt
giữa các quy định về cho thuê lại lao động của pháp luật Việt Nam và
Trung Quốc, lý giải được nguyên nhân của sự tương đồng và khác biệt đó.
Trên cơ sở kết quả của các phương pháp trên sẽ đánh giá tính hợp lý các
bài học kinh nghiệm của Trung Quốc trong xây dựng và thực hiện về pháp


6

luật cho thuê lại lao động. Từ đó, vận dụng linh hoạt kinh nghiệm của
Trung Quốc để hoàn thiện pháp luật về cho thuê lại lao động của Việt Nam.
6. Cơ cấu của luận văn
Luận văn bao gồm Lời nói đầu, 3 chương, Kết luận và Danh mục tài
liệu tham khảo. Ba chương của luận văn với nội dung sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về cho thuê lại lao động và sự điều
chỉnh pháp luật đối với hoạt động cho thuê lại lao động
Chương 2: Những điểm tương đồng và khác biệt trong BLLĐ Việt
Nam 2012 và pháp luật Trung Quốc khi quy định về cho thuê lại lao động
Chương 3: Đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định về cho thuê lại
lao động của Việt Nam trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc.


7

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG
VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG


1.1. Những vấn đề lý luận về cho thuê lại lao động
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của hoạt động cho thuê lại lao động
1.1.1.1 Khái niệm cho thuê lại lao động
Khái niệm cho thuê lại lao động (labour outsourcing) khá phổ biến
trên thế giới từ nhiều thập kỷ qua, đặc biệt là ở các nước Tây Âu, Nhật
Bản, Hàn Quốc... Ngay cả một số nước trong khu vực như Thái Lan,
Singapore, Malaysia, Philippines thì hoạt động cho thuê lại lao động cũng
đã phát triển khá chuyên nghiệp. Hoạt động này cũng đã diễn ra tương đối
nhiều ở Việt Nam, tuy nhiên pháp luật Việt Nam chỉ mới quy định về vấn
đề này trong BLLĐ 2012.
Hiện nay với sự phát triển của khoa học luật lao động và nhận thức
về quan hệ cho thuê lại lao động thì các nước đều có những quan điểm nhất
định hay những tên gọi khác nhau về quan hệ cho thuê lại lao đông như: lao
động cho thuê tạm thời (Châu Âu, Mỹ...), lao động phái cử hay cung ứng
lao động (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc); hay cho thuê lại lao động
(Việt Nam).
Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) trong các công ước và khuyến nghị
của mình tuy không quy định trực tiếp về vấn đề cho thuê lại lao động,
song gián tiếp thể hiện thông qua các quy định về việc làm tạm thời
(khuyến nghị việc làm 198) và đặc biệt là các quy định về tổ chức việc làm
tư nhân (công ước số 181 và Khuyến nghị 188)1 . Các tổ chức việc làm tư
nhân theo mục đích của Công ước 181 và Khuyến nghị 188 bao gồm những
1

ThS. Mai Đức Thiện ( 2011, tr.31)


8

tổ chức tham gia khớp chào việc và hồ sơ xin việc, và cũng là các tổ chức

sử dụng NLĐ nhằm mục đích cung ứng cho bên thứ ba. Bên thứ ba này sẽ
giao việc và giám sát NLĐ trong việc thực hiện công việc được giao...
Trong mối quan hệ đó, một tổ chức việc làm tư nhân có thể là “NSDLĐ”
chính nhưng doanh nghiệp sử dụng cũng sẽ gánh một số nghĩa vụ của
NSDLĐ khi mối quan hệ giữa doanh nghiệp sử dụng và NLĐ bao hàm
những yếu tố lệ thuộc hay phụ thuộc2. Như vậy, có thể thấy cho thuê lao
động (quan hệ việc làm tam giác) theo quan điểm của ILO được hiểu là
việc các tổ chức việc làm tư nhân (chủ sử dụng lao động chính) tuyển dụng
lao động nhưng không trực tiếp sử dụng mà để cung cấp lao động cho bên
thứ ba (doanh nghiệp trực tiếp sử dụng lao động). Doanh nghiệp sử dụng
lao động có quyền giao việc cũng như giám sát NLĐ trong việc thực hiện
công việc được giao nhưng quyền lợi của NLĐ lại do tổ chức việc làm tư
nhân chịu trách nhiệm chính.
Ở Việt Nam, hoạt động này vẫn còn khá mới mẻ và vấn đề này lần
đầu tiên được ghi nhận trong BLLĐ 2012. Tại Điều 53 –BLLĐ 2012 quy
định: “Cho thuê lại lao động là việc người lao động đã được tuyển dụng
bởi một doanh nghiệp được cấp phép hoạt động cho thuê lại lao động sau
đó làm việc cho một người sử dụng lao động khác, chịu sự điều hành của
người sử dụng lao động sau và vẫn duy trì quan hệ lao động với doanh
nghiệp cho thuê lại lao động.” Việt Nam tiếp cận quan niệm về cho thuê lại
lao động dưới góc độ NLĐ cho thuê lại. Theo khái niệm trên thì lao động
cho thuê lại là những NLĐ đã được tuyển dụng bởi một doanh nghiệp
(bằng HĐLĐ giữa NLĐ và doanh nghiệp đó), được NSDLĐ khác thuê lại
trong một thời gian nhất định thông qua hợp đồng cho thuê lại lao động
giữa doanh nghiệp cho thuê lại lao động và bên thuê lại lao động. Trong
thời gian làm việc cho bên thuê lại lao động, NLĐ chịu sự quản lý, điều
2

ThS. Mai Đức Thiện (2011, tr.31)



9

hành của bên thuê lại lao động, nhưng quan hệ lao động vẫn được duy trì
với doanh nghiệp cho thuê lại lao động. Điều này có nghĩa những quyền lợi
cơ bản của NLĐ (tiền lương, bảo hiểm...) được doanh nghiệp cho thuê lại
lao động bảo đảm theo HĐLĐ đã giao kết giữa hai bên và theo quy định
của pháp luật. Tuy nhiên, NLĐ vẫn có thể được hưởng các phúc lợi như
những NLĐ chính thức của bên thuê lại lao động do bên thuê lại lao động
này thực hiện.
Theo Luật HĐLĐ Trung Quốc ban hành ngày 29/6/2007 thì việc
cho thuê lao động được thực hiện dưới hình thức hợp đồng phái cử. Theo
các điều 57,59, 60, 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67 của luật này thì cho thuê lao
động phái cử lao động) được hiểu là việc đơn vị phái cử tuyển dụng lao
động và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với NLĐ nhưng phái cử lao
động của mình sang làm việc tại một đơn vị khác. Hợp đồng giữa đơn vị
phái cử và NLĐ được phái cử là HĐLĐ, còn hợp đồng giữa đơn vị phái cử
và đơn vị nhận phái cử là hợp đồng phái cử. Điều 58 Luật HĐLĐ Trung
Quốc có quy định: “ Đơn vị phái cử là đơn vị tuyển dụng lao động như
được nêu trong luật này và sẽ thực hiện nghĩa vụ của đơn vị đối với người
lao động....HĐLĐ giữa đơn vị phái cử và NLĐ được phái cử sẽ là HĐLĐ
có thời hạn với thời hạn không dưới hai năm. Đơn vị phái cử sẽ trả tiền
lương lao động hàng tháng”. “ Khi có NLĐ được phái cử, đơn vị phái cử
sẽ ký hợp đồng phái cử với đơn vị mà NLĐ được phái cử đến. Hợp đồng
phái cử sẽ quy định vị trí công tác cho những lao động được phái cử, số
người được phái cử, điều khoản phái cử, số tiền và phương thức thanh toán
lương lao động và phí bảo hiểm xã hội và trách nhiệm nếu vi phạm hợp
đồng” ( Điều 59 Luật HĐLĐ Trung Quốc).
Như vậy, có thể thấy theo quan điểm của ILO, pháp luật các nước,
cũng như của Việt Nam và Trung Quốc, dù được tiếp cận dưới góc độ nào



10

(góc độ của NLĐ được cho thuê lại hay góc độ doanh nghiệp cho thuê lại
lao động) thì nhìn chung cho thuê lại lao động đều có một số dấu hiệu sau:
- Doanh nghiệp cho thuê lao động tuyển dụng và ký kết các HĐLĐ
đối với NLĐ nhưng sau đó lại cho NSDLĐ khác thuê lại trong một thời hạn
nhất định theo hợp đồng cho thuê lại giữa hai NSDLĐ.
- Quyền lợi của NLĐ thuê lại vẫn do doanh nghiệp cho thuê lại lao
động thực hiện và đảm bảo.
- Trong thời gian làm việc ở bên thuê lại lao động, NLĐ phải chịu sự
giám sát điều hành của bên thuê lại lao động.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về cho thuê lại lao
động như sau: Cho thuê lại lao động là việc một doanh nghiệp tiến hành
tuyển dụng lao động (ký hợp đồng đối với NLĐ) nhưng sau đó lại cho
doanh nghiệp khác thuê lại để sử dụng trong một thời gian nhất định.
Trong thời gian làm việc tại doanh nghiệp thuê lại lao động, quyền lợi của
NLĐ vẫn do doanh nghiệp cho thuê lao động đảm bảo nhưng NLĐ phải
chịu sự giám sát, điều hành, quản lý của doanh nghiệp thuê lại lao động.
1.1.1.2 Đặc điểm của hoạt động cho thuê lại lao động
Thứ nhất, hoạt động cho thuê lại lao động có sự tham gia của ba chủ
thể
Hoạt động cho thuê lại lao động luôn có sự tham gia của ba chủ thể:
NLĐ cung ứng sức lao động để đổi lấy tiền lương; doanh nghiệp cho thuê
lại lao động là người tuyển dụng, ký HĐLĐ với NLĐ và cử NLĐ đến làm
việc trong doanh nghiệp khác; và bên thuê lại lao động là người nhận NLĐ
từ doanh nghiệp cho thuê lại lao động và trực tiếp sử dụng lao động đó cho
các hoạt động kinh doanh của mình. Bên thuê lại lao động có thể là tổ chức,
cá nhân, nhưng chủ yếu vẫn là doanh nghiệp bởi nhu cầu lớn về lao động

trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.


11

Có thể thấy, mối quan hệ của hoạt động cho thuê lại lao động phức
tạp hơn các quan hệ việc làm thông thường khác bởi lẽ đó không chỉ là mối
quan hệ giữa NLĐ và một NSDLĐ mà còn là mối quan hệ “tay ba” giữa ba
chủ thể NLĐ và hai NSDLĐ như đã nêu ở trên. Về mối quan hệ giữa các
chủ thể tham gia quan hệ cho thuê lại lao động, theo quan điểm của ILO và
pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, cho thuê lại lao động là mối
quan hệ việc làm tam giác phát sinh giữa NLĐ và hai chủ sử dụng lao
động.3
Cho thuê lại lao động thực chất gồm ba mối quan hệ:
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp cho thuê lại lao động và NLĐ cho thuê
lại. Quan hệ này thực chất là quan hệ lao động được thiết lập trên cơ sở của
HĐLĐ. Doanh nghiệp cho thuê lại lao động chính là NSDLĐ và lao động
được cho thuê lại là NLĐ. Doanh nghiệp cho thuê lao động có trách nhiệm
trả lương và đảm bảo các quyền lợi của NLĐ theo quy định của pháp luật.
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp cho thuê lại lao động và bên thuê lại
lao động là quan hệ mang tính dịch vụ được hình thành trên cơ sở hợp đồng
cho thuê lại lao động (cung ứng lao động cho thuê).
+ Quan hệ giữa NLĐ thuê lại và bên thuê lại lao động: mối quan hệ
này hiện tại vẫn đang gây tranh cãi trong giới học thuật, khó gọi tên chính
xác. Tuy nhiên cần phải các định rằng đây là mối quan hệ có lợi cho người
thứ ba (Doanh nghiệp cho thuê lao động) và bên thuê lại lao động tuy
không phải là NSDLĐ nhưng lại có quyền điều hành, quản lý đối với lao
động thuê lại.
Thứ hai, cho thuê lại lao động là ngành nghề kinh doanh có điều kiện
Cho thuê lại lao động là một quan hệ đặc biệt giữa ba chủ thể, khác

với những quan hệ việc làm truyền thống, cho thuê lại lao động là một hoạt
động kinh doanh của bên cho thuê lại lao động, không chỉ liên quan chặt
3

ThS. Mai Đức Thiện (2011, tr 29)


12

chẽ đến quyền và nghĩa vụ của các bên, đặc biệt là bên yếu thế NLĐ, mà
còn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, quy hoạch vùng, chính sách việc
làm, trật tự xã hội của một quốc gia. Vì vậy mà các nước luôn đặt hoạt
động cho thuê lại lao động là một ngành kinh doanh có điều kiện, theo đó
pháp luật đặt ra các điều kiện đối với bên cho thuê lại lao động để đảm bảo
giao dịch giữa các chủ thể được diễn ra một cách an toàn và nhằm bảo đảm
quyền lợi cho NLĐ, giảm thiểu rủi ro cho các bên tham gia quan hệ, phát
triển kinh tế - xã hội theo đúng hướng.
Thứ ba, hoạt động cho thuê lại lao động vừa mang tính kinh tế, vừa
mang tính xã hội
Hoạt động này phải dựa vào và chịu sự điều tiết của các quy luật
kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung –
cầu. Bên cung cấp lao động phải tính toán mọi hoạt động của mình làm sao
để bù đắp được chi phí và có lãi; bên có nhu cầu sử dụng lao động cũng
phải tính toán kỹ hiệu quả của việc sử dụng lao động đem lại. Đó là những
biểu hiện mang tính kinh tế.
Về mặt xã hội, cho thuê lại lao động là giải pháp quan trọng nhằm
giải quyết việc làm cho lực lượng lao động, qua đó góp phần đảm bảo cuộc
sống của NLĐ cùng gia đình của họ, đồng thời còn góp phần giải quyết nạn
thất nghiệp đang nhức nhối trong xã hội.
Như vậy, cho thuê lại lao động chứa đựng đồng bộ các yếu tố kinh tế

và xã hội. Nó không chỉ liên quan đến việc làm, giải quyết việc làm, hạn
chế thất nghiệp, bảo đảm đời sống cho NLĐ,... mà còn liên quan đến đầu tư
nguồn nhân lực, thu nhập, thu hút đầu tư, tăng trưởng và phát triển doanh
nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế xã hội. Trên cơ sở đặc điểm này, pháp
luật cần có định hướng điều chỉnh phù hợp, giải quyết đồng bộ những vấn
đề kinh tế và xã hội đặt ra đối với hoạt động cho thuê lại lao động.


13

1.1.2 Ảnh hưởng của hoạt động cho thuê lại lao động
1.1.2.1 Ảnh hưởng tích cực
Cho thuê lại lao động đóng vai trò quan trọng trong thị trường lao
động hiện đại. Cho thuê lại lao động đã giúp cho các doanh nghiệp linh
hoạt trong việc tăng giảm nhu cầu lực lượng lao động, trong khi vẫn đảm
bảo cho NLĐ cơ hội việc làm, làm việc theo các tiêu chuẩn lao động, tiền
lương, thời gian làm việc ở mức độ công bằng. Nhìn chung, cho thuê lại lao
động đáp ứng được nguyện vọng và mang lại lợi ích kinh tế cho cả ba bên:
doanh nghiệp cho thuê, bên thuê lại lao động và NLĐ cho thuê lại và nền
kinh tế - xã hội nói chung.
Đối với doanh nghiệp cho thuê lại lao động thì hoạt động cho thuê
lại lao động mang lại nguồn lợi nhuận đó chính là khoản phí do bên thuê lại
lao động trả khi thuê lại lao động. Doanh nghiệp cho thuê lao động là các
doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm, bản thân các doanh nghiệp này
cũng muốn mở rộng phạm vi của hoạt động dịch vụ việc làm, nhất là hoạt
động cho thuê lại lao động - một lĩnh vực hoạt động mà theo họ là thức
thời, phù hợp với sự vận động tất yếu của thị trường lao động, mang lại
nguồn thu không nhỏ cho các doanh nghiệp. Trên thế giới có rất nhiều công
ty có doanh thu khổng lồ từ dịch vụ cung ứng lao động/dịch vụ việc làm, có
thể kể đến các công ty hàng đầu thế giới như Adecco của Thụy Sĩ với trên

31 triệu Đô la Mỹ, Randstad của Hà Lan với trên 23 triệu Đô la Mỹ,
Manpower của Mỹ với trên 21 triệu Đô la mỹ trong năm 20084. Đặc biệt,
các công ty này đã mở rộng trên phạm vi toàn cầu, với nguồn doanh thu rất
lớn. Tiêu biểu là công ty Adecco của Thụy Sĩ Tập đoàn Adecco đặt trụ sở
tại Thụy Sĩ với hơn 32.000 nhân viên và gần 5.500 chi nhánh tại hơn 60
quốc gia và lãnh thổ. Nhà cung cấp dịch vụ nguồn nhân lực có 50 năm kinh

4

Tổ chức lao động quốc tế (2009)


14

nghiệm này cũng là công ty thuộc nhóm 500 công ty lớn nhất thế giới
(Fortune Global 500)5.
Đối với bên thuê lại lao động, dịch vụ cho thuê lại lao động có thể
nói là một giải pháp hữu hiệu mang lại nhiều thuận lợi. Hoạt động cho thuê
lại lao động giúp cung cấp đầy đủ và kịp thời số lao động có tay nghề cần
thiết cho các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, kinh doanh đặc thù hay
theo thời vụ, giúp các doanh nghiệp này đỡ mất thời gian và chi phí tuyển
dụng, đào tạo. Khi hết nhu cầu lao động thì doanh nghiệp đi thuê lại lao
động có thể cắt giảm nhanh chóng số lượng lao động theo hợp đồng cung
cấp dịch vụ với doanh nghiệp cho thuê lại lao động mà không bị ràng buộc
bởi các quy định của pháp luật lao động. Cho thuê lại lao động tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với nguồn nhân lực cao cấp
như các chuyên gia, nhà quản lý kinh nghiệm...với giá cả phải chăng bằng
việc thuê lại các nhân sự này trong một thời hạn nhất định, thay vì chi phí
rất cao nếu họ làm việc thường xuyên tại doanh nghiệp. Hoạt động cho thuê
lại lao động cũng có thể giúp cho doanh nghiệp đi thuê lại lao động hấp dẫn

hơn trong mắt các nhà đầu tư, đặc biệt là các quỹ đầu tư nước ngoài hay
các đối tác kinh doanh chiến lược, vì họ có thể đổ vốn trực tiếp vào các
hoạt động tạo ra doanh thu của doanh nghiệp mà họ tham gia đầu tư. Hoạt
động cho thuê lại lao động cũng tạo sự dễ dàng cho các doanh nghiệp thay
thế những nhân viên không phù hợp bằng các nhân sự khác vào các vị trí
chủ chốt để bảo đảm hoạt động hiệu quả.
Đối với NLĐ, cho thuê lại lao động là giải pháp cho một lực lượng
lao động không muốn hoặc không thể kiếm được công việc ổn định. Cụ thể
như NLĐ có nghề trong một số lĩnh vực, không muốn gắn bó với một đơn
vị cụ thể; những NLĐ vừa bị “thải ra” từ một số doanh nghiệp do thực hiện
việc sắp xếp lại nhưng chưa tìm được một công việc ổn định và thường
5

Quốc Hùng (2011)


15

xuyên hoặc những sinh viên cần tìm hiểu một công việc trong thời gian rất
ngắn. Hay đối với những NLĐ có tay nghề thấp thì hình thức lao động cho
thuê lại tạm thời giúp họ có những kinh nghiệm, học hỏi được những kỹ
năng mới và từ đó trở thành bước đệm để họ tiến tới tìm kiếm được công
việc tốt hơn. Hình thức lao động tạm thời này cũng chính là cơ hội để NLĐ
có thể tìm được việc làm lâu dài . NLĐ có thể được tuyển dụng trực tiếp
bởi chính doanh nghiệp thuê lại lao động trong thời gian làm thuê hoặc
ngay sau khi hết thời hạn làm thuê, hết thời hạn hợp đồng lao động với
doanh nghiệp cho thuê lao động. Tại Mỹ trung bình 20% số NLĐ tạm thời
thành công trong việc được chuyển lên tuyển dụng trực tiếp6.
Đối với nền kinh tế - xã hội của quốc gia và cả trên thế giới, cho
thuê lại lao động đã mang lại những hiệu quả nhất định. Theo tài liệu

nghiên cứu của ILO, ngành công nghiệp dịch vụ việc làm tư nhân toàn cầu
đã phát triển nhanh chóng kể từ giữa những năm 1990 – và tăng gấp đôi
trong giai đoạn 1994 – 1999 và một lần nữa trong các năm 1996 – 2006 đạt
mức 341 tỷ USD trong năm 2007. Trong năm 2007 sáu thị trường quốc gia
thống trị ngành công nghiệp này trên toàn cầu, chiếm 80% tổng doanh thu;
Hoa kỳ (28%), Vương quốc Anh (16%), Nhật Bản (14%), Pháp (9%), Đức
(6%), Hà Lan (5%), các thị trường còn lại chiếm 20% tổng doanh thu trên
toàn cầu. Con số này phản ánh sự phát triển nhanh chóng từ chỉ có 8%
trong năm 2004, phản ánh cả sự tăng trưởng thực tếvà dự liệu sẵn có về
mức độ việc làm tạm thời trong thị trường (ví dụ Brazil không có dữ liệu
trong năm 2004, những vẫn đại diện cho 3% thị trường toàn cầu trong năm
2007). Trong thập kỷ qua, thị trường tăng trưởng mạnh nhất là Nhật Bản,
từ quy mô thị trường là 14,7 tỷ USD năm 2000 lên 43,3 tỷ USD trong năm
20077.
6
7

Youngmo Yoon (2011, tr.11)
Tổ chức lao động Quốc tế (2009, tr. 158)


16

Như vậy, dịch vụ cung cấp lao động tư nhân đã góp phần tăng trưởng
GDP cho các quốc gia, có thể thấy những nền kinh tế lớn trên thế giới
ngành dịch vụ này phát triển rất mạnh. Hằng năm các công ty này cũng
đóng góp một lượng đáng kể vào ngân sách Nhà nước thông qua việc đóng
các loại thuế theo quy định của pháp luật. Về mặt xã hội, cho thuê lại lao
động tạo ra cơ hội việc làm cho NLĐ, giảm gánh nặng của nhà nước đối
với vấn nạn thất nghiệp, từ đó bảo đảm trật tự xã hội, nâng cao đời sống

của người dân.
Ảnh hưởng tiêu cực
Bên cạnh những mặt tích cực về kinh tế, xã hội như đã nêu ở trên thì
cho thuê lại lao động cũng có những mặt tiêu cực nhất định về mặt xã hội.
Thứ nhất, những lao động của doanh nghiệp cho thuê lại lao động sẽ
không có động lực cao để phấn đấu tăng năng suất lao động hay sáng tạo
kỹ thuật phục vụ cho lợi ích của bên đi thuê lại lao động vì họ không phải
là lao động chính thức của bên thuê lại lao động. Nếu cho thuê lại lao động
áp dụng cho các công việc có tính ổn định lâu dài(đặc biệt đối với lao động
phổ thông) sẽ hình thành một bộ phận lao động không được đào tạo nghề.
Sau nhiều năm làm các công việc giản đơn này đến công việc giản đơn
khác theo yêu cầu của công ty cho thuê lại lao động, NLĐ vẫn chỉ là lao
động phổ thông. Tính chất lao động bấp bênh cũng khiến họ mất đi định
hướng phát triển nghề nghiệp.
Thứ hai, doanh nghiệp cho thuê lại lao động tuyển dụng lao động
với giá rẻ và nhượng lại quyền sử dụng lao động này cho doanh nghiệp có
nhu cầu sử dụng dịch vụ với giá cao hơn. Hay nói cách khác, lợi nhuận của
các doanh nghiệp này xuất phát chủ yếu từ việc cắt lại một phần tiền lương
của NLĐ và chênh lệch cho phí tham gia bảo hiểm xã hội.
Thứ ba, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường “lách
luật” cắt giảm chi phí lương để đối phó với việc Nhà nước thường xuyên


17

tăng mức lương tối thiểu cho những lao động làm việc cho các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bằng cách thuê lại lao động của các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ cho thuê lại lao động (thường là các doanh nghiệp
trong nước) mà các doanh nghiệp này lại được áp dụng mức lương tối thiểu
thấp hơn so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

1.1.3 Phân biệt hoạt động cho thuê lại lao động với một số hoạt
động khác
Hiện nay có một số hoạt động có nhiều đặc điểm gần giống với hoạt
động cho thuê lại lao động, chẳng hạn như : cung ứng lao động, môi giới
lao động, thuê dịch vụ... Để có sự điều chỉnh đúng đắn đối với hoạt động
cho thuê lại lao động cần phân biệt hoạt động cho thuê lại lao động với các
hoạt động trên.
a) Cho thuê lại lao động và thuê dịch vụ
Trong quan hệ cho thuê lại lao động, giữa doanh nghiệp thuê lại lao
động và NLĐ vẫn tồn tại mối quan hệ nhất định: mối quan hệ chỉ quản lý
và NSDLĐ cho thuê lại vẫn có trách nhiệm nhất định đối với NLĐ về điều
kiện làm việc, quản lý lao động…, thì trong quan hệ thuê dịch vụ, bên sử
dụng dịch vụ sẽ không tham gia vào việc điều hành, quản lý NLĐ miễn là
chất lượng dịch vụ đạt được kết quả như họ mong muốn, mọi quyền lợi của
số lao động này sẽ do công ty đã ký kết hợp đồng với họ thực hiện. Trong
quan hệ cho thuê lại lao động, việc NLĐ tham gia vào cơ chế đối thoại giữa
doanh nghiệp cho thuê lao động và doanh nghiệp sử dụng lao động tại nơi
làm việc cần phải được tính đến, còn trong quan hệ thuê dịch vụ việc tham
gia của NLĐ (trực tiếp thực hiện dịch vụ) vào cơ chế đối thoại giữa DN cho
thuê dịch vụ và doanh nghiệp thuê dịch vụ không đặt ra và không cần thiết.
b) Cho thuê lại lao động và “ cung ứng lao động”
Có nhiều chủ thể khác nhau tham gia vào các hoạt động đa dạng làm
cầu nối giữa NLĐ và NSDLĐ, như: các hoạt động giới thiệu việc làm do


18

các cơ quan quản lý nhà nước phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội tổ
chức như hội chợ việc làm hay sàn giao dịch việc làm, hoạt động giới thiệu
việc làm của các tổ chức giới thiệu việc. Ở Việt Nam, các cơ sở pháp lý cho

phép doanh nghiệp được tham gia vào hoạt động giới thiệu việc làm là
Điều 18 BLLĐ và Nghị định số 39/2003/NĐ – CP ngày 18 tháng 4 năm
2003 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của BLLĐ. Các điều kiện hoạt động giới thiệu việc làm của doanh nghiệp
lại được điều chỉnh bằng Nghị định số 19/2005/ NĐ – CP ngày 28 tháng 02
năm 2005 quy định điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của Tổ chức
giới thiệu việc làm ( được sửa dổi, bổ sung bằng Nghị định 71/2008/NĐ –
CP ngày 05 tháng 06 năm 2008)
Cấu trúc chung của hoạt động cung ứng lao động của tổ chức giới
thiệu việc làm là: một số doanh nghiệp/ trung tâm giới thiệu việc làm tiến
hành tuyển chọn nhân viên theo nhu cầu của doanh nghiệp sử dụng lao
động, trong trường hợp cần thiết thì tổ chức đào tạo họ để đáp ứng yêu cầu
của doanh nghiệp sử dụng lao động và ràng buộc họ. Các doanh nghiệp sử
dụng lao động được cung ứng nhân viên theo yêu cầu mà không phải tốn
nhân lực, thời gian cho việc tuyển chọn. Đổi lại, doanh nghiệp sử dụng lao
động phải trả phí giới thiệu cho doanh nghiệp tuyển chọn, NLĐ ký HĐLĐ
trực tiếp với doanh nghiệp sử dụng lao động.
Cấu trúc của hoạt động cho thuê lại lao động: trước hết, doanh
nghiệp tuyển dụng lao động ký HĐLĐ với NLĐ, sau đó cho doanh nghiệp
khác thuê lại. Doanh nghiệp cho thuê lao động nhận được phí dịch vụ từ
việc cho thuê trên cơ sở hợp đồng cho thuê lại lao động. Doanh nghiệp
thuê lại lao động sẽ bố trí việc làm cho NLĐ nhưng không ký HĐLĐ với
NLĐ mà trả tiền công cho NLĐ và phí dịch vụ cho doanh nghiệp cung ứng
lao động.


×