Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Hoạt động của tổ chức pháp chế bộ xây dựng ở việt nam hiện nay một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.79 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ HẢI YẾN

HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC PHÁP CHẾ BỘ XÂY DỰNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành

: Lý luận và Lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật

Mã số

: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VĂN ĐỘNG

HÀ NỘI – 2012


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể các giáo sư, tiến sĩ đã nhiệt tình
giảng dạy tôi trong suốt thời gian tôi theo học lớp Cao học luật Khóa XVIII


của trường Đại học Luật Hà Nội. Đặc biệt là PGS.TS Nguyễn Văn Động đã
tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và viết luận văn.
Mặc dù đã cố gắng nỗ lực rất nhiều trong quá trình viết và hoàn thành
luận văn, song chắc chắn luận văn này vẫn khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu
sót. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô để
có thể mở rộng và hoàn thiện đề tài luận văn trong các nghiên cứu sau.
Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 19 tháng 04 năm 2012
Học viên

Đặng Thị Hải Yến


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

TỪ VIẾT TẮT

Ý NGHĨA

1

HĐND:

Hội đồng nhân dân


2

UBND:

Ủy ban nhân dân

3

VBQPPL:

Văn bản quy phạm pháp luật

4

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC PHÁP
CHẾ BỘ XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...................................... 6
1.1. Tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng ở Việt Nam hiện nay ...................... 6
1.1.1. Khái niệm tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng ...................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng ............................... 12
1.1.3. Cơ cấu và chức năng của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng ............. 20
1.2. Hoạt động của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng ở Việt Nam hiện nay
.............................................................................................................. 23
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm hoạt động của tổ chức pháp chế Bộ Xây

dựng ................................................................................................ 23
1.2.2. Nội dung, hình thức và phương pháp hoạt động của tổ chức pháp
chế Bộ Xây dựng ............................................................................ 26
1.3. Những điều kiện bảo đảm cho hoạt động của tổ chức pháp chế Bộ
Xây dựng ............................................................................................. 29
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC PHÁP CHẾ
BỘ XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................. 31
2.1. Những ƣu điểm, thành tựu và nguyên nhân .................................... 31
2.1.1. Về nội dung hoạt động ................................................................... 31
2.1.2. Về hình thức và phương pháp hoạt động ....................................... 41
2.1.3. Về những điều kiện bảo đảm ......................................................... 42
2.2. Một số nhƣợc điểm, hạn chế và nguyên nhân .................................. 44
2.2.1. Về nội dung hoạt động ................................................................... 44
2.2.2. Về hình thức và phương pháp hoạt động ....................................... 50
2.2.3. Về những điều kiện bảo đảm ......................................................... 51


Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
TỔ CHỨC PHÁP CHẾ BỘ XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN TỚI ...................................................................................................... 54
3.1. Về nhận thức tƣ tƣởng ....................................................................... 54
3.2. Về nội dung, hình thức và phƣơng pháp hoạt động ........................ 57
3.2.1. Về nội dung hoạt động ................................................................... 57
3.2.1.1. Đối với công tác xây dựng VBQPPL ...................................... 57
3.2.1.2. Đối với công tác rà soát, hệ thống hóa VBQPPL ................... 58
3.2.1.3. Đối với công tác kiểm tra và xử lý VBQPPL .......................... 59
3.2.1.4. Đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ........................ 60
3.2.1.5. Đối với công tác khác và nhiệm vụ mới được giao ................. 62
3.2.2. Về hình thức và phương pháp hoạt động ....................................... 62
3.3. Về các điều kiện bảo đảm................................................................... 64

3.3.1. Về pháp luật ................................................................................... 64
3.3.2. Về tổ chức, chất lượng đội ngũ công chức pháp chế ..................... 68
3.3.3. Về ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của công chức pháp chế Bộ
Xây dựng ........................................................................................ 71
3.3.4. Về cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính ........................................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và kiện toàn Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân –
một nhà nước đề cao vị thế của pháp luật trong xã hội. Ở đó, pháp luật được
coi là phương tiện, công cụ quan trọng để duy trì, bảo vệ trật tự xã hội, tạo
điều kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội. Xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam đòi hỏi không ngừng tăng cường pháp chế và nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam, tăng cường pháp chế, thực hiện quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp
luật, nhất là trong giai đoạn thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội mới, tiếp tục
triển khai Nghị quyết số 48-NQ/TƯ về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết
số 49-NQ/TƯ về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị,
chủ trương chuyển đổi mô hình doanh nghiệp nhà nước theo Luật Doanh nghiệp
năm 2005, phát huy vai trò, hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc củng
cố và tăng cường công tác pháp chế là vấn đề cần thiết nhằm nâng cao hiệu

lực, hiệu quả quản lý nhà nước, mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
Xây dựng là một ngành kinh tế - kỹ thuật có đóng góp quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, là một ngành có tốc độ phát triển nhanh
chóng, có tác động trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Đặc biệt là trong những năm gần đây, với phạm vi rộng trên 07 lĩnh vực
(xây dựng; kiến trúc, quy hoạch xây dựng; hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu công


2

nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao; phát triển đô thị; nhà ở và công sở;
kinh doanh bất động sản; vật liệu xây dựng). Để thực hiện quản lý nhà nước
tốt được những lĩnh vực kể trên thì một trong những điều kiện quan trọng và
cần phải có đó là một hành lang pháp lý đầy đủ và có chất lượng tốt cho ngành xây
dựng. Bộ là cơ quan quản lý ngành, có nhiệm vụ xây dựng chính sách, chiến lược
và những quy định để quản lý tốt lĩnh vực được giao. Nhiều văn bản quy phạm
pháp luật (VBQPPL) đã được ban hành để điều chỉnh lĩnh vực này, tuy nhiên,
cũng như nhiều ngành, lĩnh vực khác hiện nay, thực tế vẫn còn tình trạng xây
dựng các chính sách pháp luật chưa sát, chưa phù hợp với thực tiễn cuộc
sống; nhiều VBQPPL đã được ban hành nhưng khi đi vào cuộc sống còn lúng
túng vì thiếu hoặc chậm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành và các điều
kiện khác....Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ngành xây dựng
cần chú trọng, ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ
chức pháp chế của Bộ.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn
đề lý luận và thực tiễn liên quan đến công tác pháp chế của Bộ Xây dựng, tìm
ra những hạn chế, nguyên nhân và trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp để
tiếp tục hoàn thiện các quy định hiện hành và giải quyết những vướng mắc
của thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến công tác pháp chế Bộ Xây dựng

là việc làm rất cần thiết, không những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý
nghĩa quan trọng cả về thực tiễn trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Đó cũng
là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Hoạt động của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng
ở Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn
thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tổ chức pháp chế là một đơn vị chuyên môn thuộc cơ cấu tổ chức của các
cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhà nước, có vai trò đảm bảo yêu cầu chấp


3

hành nghiêm chỉnh pháp luật và trật tự, kỷ cương trong hoạt động quản lý nhà
nước, quản lý xã hội của cơ quan và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp. Đây là “đối tượng” mà từ trước đến nay rất ít được quan tâm cả về mặt
lý luận nghiên cứu cũng như trên thực tiễn hoạt động. Hoạt động của tổ chức
pháp chế là một trong những vấn đề quan trọng và tương đối phức tạp trong
công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, tăng cường pháp
chế XHCN, nhất là trong những năm gần đây. Trong thời gian qua đã có một số
bài viết về những vấn đề có liên quan đến tổ chức pháp chế như: “Thực trạng
công tác pháp chế ở Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn” của Vụ Pháp
chế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; “Tổ chức pháp chế trong lực
lượng quân đội nhân dân” của Bộ Quốc phòng ; “Công an nhân dân với yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa” của Vụ Pháp
chế, Bộ công an; “Tổ chức pháp chế ở Ủy ban dân tộc – Thực trạng và kiến
nghị” của Vụ Pháp chế, Ủy ban dân tộc…. Các bài viết này chủ yếu tập trung
nghiên cứu về những kết quả đạt được và những hạn chế, khó khăn trong công
tác pháp chế của mỗi cơ quan trên, qua đó đề xuất một số kiến nghị.
Xây dựng là một ngành kinh tế - kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong
quá trình tạo ra cơ sở vật chất thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của

đất nước. Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động xây dựng,
thời gian gần đây Nhà nước và Bộ Xây dựng đã chú trọng đến công tác xây
dựng hệ thống VBPL về xây dựng và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cần sớm điều chỉnh.
Thực tế hiện nay, và cùng với quy định mới bổ sung của Nghị định số
55/2011/NĐ-CP ngày 04 tháng 7 năm 2011 quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế thì tổ chức pháp chế đã
được giao thêm nhiều nhiệm vụ, quyền hạn mới như theo dõi thi hành pháp
luật, trách nhiệm bồi thường của nhà nước, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp...


4

Tuy nhiên, tổ chức pháp chế của Bộ Xây dựng hiện nay còn nhiều bất cập, quá
lỏng lẻo; không thành lập tổ chức pháp chế tại các Cục thuộc Bộ mà bố trí
người làm công tác pháp chế kiêm nhiệm nên không phát huy được hiệu quả
của công tác pháp chế. Do vậy, yêu cầu cấp bách đặt ra là phải kiện toàn,
củng cố về mặt tổ chức của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng nhằm phát huy vai
trò và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức này. Vì vậy, luận văn “Hoạt
động của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng ở Việt Nam hiện nay – Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn” hy vọng là công trình nghiên cứu đồng bộ và cập nhật với
tình hình thực tế góp phần nhằm hoàn thiện, tăng cường năng lực, hiệu quả
hoạt động của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là Tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ Luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động
của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của Luận văn
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản Việt

Nam về nhà nước, pháp luật. Trong Luận văn này, tác giả còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích - tổng hợp, so sánh, thống kê,...
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
Nhằm đạt được mục đích trên, tác giả có nhiệm vụ bước đầu xây dựng
cơ sở lý luận về hoạt động của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng; đánh giá thực
trạng hoạt động của nó và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng ở Việt Nam hiện nay.


5

6. Những đóng góp mới của Luận văn
Đây là lần đâu tiên, tác giả nghiên cứu khá toàn diện những vấn đề lý
luận về hoạt động của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng; bước đầu đánh giá khá
chính xác và toàn diện thực trạng hoạt động của tổ chức pháp chế Bộ Xây
dựng và đề xuất được các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức
pháp chế Bộ Xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
có kết cấu 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động của tổ chức pháp
chế Bộ Xây dựng ở Việt Nam hiện nay; Chương 2: Thực trạng hoạt động của tổ
chức pháp chế Bộ Xây dựng ở Việt Nam hiện nay và Chương 3: Giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng ở Việt Nam trong
thời gian tới.


6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC PHÁP
CHẾ BỘ XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Khái niệm tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng
Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam yêu cầu các lĩnh
vực đời sống xã hội đều phải được quản lý, điều hành bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế. Tuy nhiên, quản lý xã hội bằng pháp luật,
tăng cường pháp chế không phải dừng lại ở việc ban hành pháp luật mà vấn
đề là phải thi hành pháp luật, phải đưa pháp luật đi vào đời sống xã hội.
Trước yêu cầu, đòi hỏi của công cuộc đổi mới, xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, cải cách hành chính, cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước, chuyển đổi mô hình tổ chức và hoạt động của các doanh
nghiệp nhà nước đòi hỏi phải có sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác pháp
chế, nhất là trong điều kiện thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TƯ về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TƯ về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 của Bộ Chính trị.
Được biết đến với tư cách là người “gác cửa” về mặt pháp luật, tổ chức
pháp chế ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình trong hoạt động
quản lý nhà nước. Pháp chế là công việc “âm thầm”, nhưng đang đóng góp
những công việc chuyên môn rất quan trọng cho việc ban hành văn bản của
các cấp thẩm quyền ở Bộ, ban, ngành, địa phương, doanh nghiệp. Tổ chức
pháp chế từ khi ra đời đến nay, qua các giai đoạn phát triển đã được giao thêm
nhiều nhiệm vụ, quyền hạn mới. Điều đó thể hiện vị trí, vai trò và tầm quan
trọng của nó trong quản lý nhà nước.


7


Tổ chức pháp chế không chỉ được thành lập tại các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
(UBND) cấp tỉnh (gọi chung là tổ chức pháp chế trong các cơ quan quản lý
nhà nước) mà còn được thành lập ở các doanh nghiệp nhà nước.
Tổ chức pháp chế trong các cơ quan quản lý hành chính nhà nước thực
hiện các nhiệm vụ như xây dựng pháp luật, thẩm định, rà soát, hệ thống hóa
và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), phổ biến, giáo dục pháp
luật, kiểm tra việc thực hiện pháp luật…. Ngoài ra, theo Nghị định mới nhất
về Tổ chức pháp chế Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04 tháng 7 năm
2011 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ
chức pháp chế (sau đây gọi tắt là Nghị định số 55/2011/NĐ-CP) còn bổ sung
thêm nhiệm vụ về công tác bồi thường của Nhà nước, hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp, tham mưu về các vấn đề pháp lý và tham gia tố tụng.
Tổ chức pháp chế trong các doanh nghiệp nhà nước thực hiện các
nhiệm vụ như tham mưu, giúp lãnh đạo doanh nghiệp trong việc quản lý, điều
hành tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh; xây dựng và hoàn thiện các nội
quy, quy chế quản lý nội bộ; tham gia trực tiếp vào các vụ việc nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp; chủ trì, phối hợp tổ chức kiểm tra
việc thực hiện pháp luật, nội quy, quy chế và kiến nghị những biện pháp xử lý
vi phạm; tham gia đàm phán, soạn thảo, ký kết các hợp đồng hoặc cho ý kiến
về mặt pháp lý đối với dự thảo hợp đồng kinh tế, văn bản do các bộ phận khác
thuộc doanh nghiệp nhà nước soạn thảo…
Công tác pháp chế là hoạt động mang tính chuyên ngành luật, tuy có sự
khác biệt nhất định giữa công tác pháp chế trong các cơ quan hành chính nhà
nước với công tác pháp chế trong các doanh nghiệp nhưng có điểm chung là
đều thực hiện chức năng tham mưu, tư vấn về những vấn đề pháp luật; góp
phần quan trọng vào quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.


8


Nghị định số 178-HĐBT ngày 17 tháng 6 năm 1985 về tổ chức pháp
chế ở các ngành, các đơn vị sản xuất, kinh doanh thuộc khu vực nhà nước
(sau đây gọi tắt là Nghị định số 178-HĐBT) là VBQPPL đầu tiên để thành lập
tổ chức pháp chế được áp dụng chung cho tất cả các Bộ, ngành. Trước đây đã
có những VBQPPL quy định về tổ chức pháp chế nhưng không quy định
chung cho tất cả các Bộ, ngành trong bộ máy nhà nước mà chỉ quy định về
một số tổ chức nhất định.
Nghị định đã quy định thành lập tổ chức pháp chế ở Bộ, còn chuyên
viên pháp lý hoặc cán sự pháp lý chuyên trách công tác pháp chế ở các Sở
chuyên môn, Liên hiệp các xí nghiệp, Tổng công ty, Công ty, Xí nghiệp liên
hợp, xí nghiệp. Căn cứ Nghị định nêu trên các Bộ, Ủy ban nhà nước, cơ quan
khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng có khối lượng công tác pháp chế lớn thì thành
lập Vụ chính sách và pháp chế; nếu nhiệm vụ nghiên cứu chính sách đã giao
cho các Vụ khác đảm nhiệm thì thành lập Vụ Pháp chế. Các Bộ có khối lượng
công tác pháp chế không lớn và chưa có Vụ chính sách và pháp chế thì thành
lập Phòng Pháp chế trực thuộc Bộ trưởng. Là Nghị định ban đầu về tổ chức
pháp chế Bộ, ngành, song Nghị định đã quy định khá hợp lý, rõ ràng về cơ
cấu, tổ chức của Tổ chức pháp chế. Tuy nhiên, vai trò, vị thế của tổ chức pháp
chế thời kỳ này còn mờ nhạt, hiệu quả hoạt động chưa cao.
Sau 12 năm thực hiện Nghị định số 178-HĐBT, tổ chức pháp chế Bộ,
ngành đã được nhân rộng, đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế được củng
cố và phát triển. Nhằm quy định cụ thể, rõ nét hơn về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Tổ chức pháp chế Bộ, ngành, ngày 06 tháng 9 năm 1997,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94-CP ngày 06 tháng 9 năm 1997 về Tổ
chức pháp chế ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau
đây gọi tắt là Nghị định số 94-CP). Tuy nhiên, nghị định này đã thu hẹp lại,
chỉ quy định thành lập tổ chức pháp chế ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan



9

thuộc Chính phủ (gọi chung là tổ chức pháp chế Bộ), hình thức thành lập Vụ
Pháp chế hoặc Phòng Pháp chế, không quy định về tổ chức và hoạt động của
Tổ chức pháp chế các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và ở các
doanh nghiệp nhà nước.
Củng cố và tăng cường công tác pháp chế là vấn đề cần thiết, nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, mở rộng dân chủ, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, nhất là trong bối cảnh thực hiện chủ trương đổi
mới, xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời,
khắc phục những thiếu sót của Nghị định số 94-CP và tiếp tục kiện toàn tổ
chức và hoạt động của tổ chức pháp chế, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán
bộ làm công tác pháp chế tại các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp nhà
nước, ngày 18/5/2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 122/2004/NĐ-CP
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và doanh nghiệp nhà nước (sau đây gọi
tắt là Nghị định số 122/2004/NĐ-CP ). Nghị định phân loại tổ chức pháp chế
thành bốn nhóm (tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ; tổ chức pháp
chế các cơ quan thuộc Chính phủ; tổ chức pháp chế cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp tỉnh; tổ chức pháp chế trong các doanh nghiệp nhà nước). Ở
Nghị định này, kế thừa quy định trước đó ở Nghị định số 178-HĐBT đồng
thời để phù hợp với tình hình mới, Chính phủ lại bổ sung quy định tổ chức
pháp chế ở các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh và doanh nghiệp nhà nước. Bên
cạnh đó, quy định cụ thể, chi tiết hơn, rộng hơn các quyền, nghĩa vụ của tổ
chức pháp chế....
Nghị định số 122/2004/NĐ-CP ra đời, đã góp phần quan trọng trong
việc củng cố, kiện toàn về tổ chức và hoạt động, nâng cao hiệu quả của Tổ
chức pháp chế trong các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương và



10

doanh nghiệp nhà nước; tăng cường pháp chế và bảo vệ lợi ích của Nhà nước.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam,
tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật; chủ trương đổi mới, hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương, cổ phần hóa và chuyển đổi mô hình của các doanh nghiệp nhà nước,
phát huy vai trò, hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, thì các quy định của Nghị
định số 122/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ, cũng như việc triển
khai công tác pháp chế trên thực tế đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, đòi hỏi phải
được khắc phục, tháo gỡ kịp thời..
Để khắc phục những hạn chế, bất cập đang tồn tại trong công tác pháp
chế, ngày 04 tháng 7 năm 2011 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
55/2011/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy
của tổ chức pháp chế. Kế thừa Nghị định số 122/2004/NĐ-CP, Nghị định này
tiếp tục quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy
của tổ chức pháp chế ở Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau
đây gọi chung là UBND cấp tỉnh), doanh nghiệp nhà nước và bổ sung quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức pháp chế ở Tổng cục và tương
đương, Cục thuộc Bộ và cơ quan ngang Bộ, đồng thời cũng bổ sung thêm quy
định quản lý nhà nước về công tác pháp chế. Theo Nghị định số 55/2011/NĐCP, ở Bộ, cơ quan ngang Bộ có Vụ Pháp chế; cơ quan thuộc Chính phủ có
Ban pháp chế hoặc Phòng Pháp chế trực thuộc Văn phòng; cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cấp tỉnh có Phòng Pháp chế.
Qua mỗi nghị định là một bước tiến mới mở rộng hơn, chi tiết hơn các
nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức pháp chế. Các quy định trong các VBQPPL
về tổ chức pháp chế cũng diễn tiến theo thời gian từ đơn giản đến phức tạp, từ



11

quy định chung chung đến chi tiết, cụ thể và ngày càng hoàn thiện hơn, phù
hợp với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đời sống xã hội.
Tổ chức pháp chế có lịch sử ra đời từ khá sớm và trải qua nhiều lần
thay đổi bởi các VBQPPL, nhưng cho đến nay chưa có VBQPPL nào giải
thích cụ thể cụm từ “tổ chức pháp chế” nói chung được hiểu như thế nào mà
chỉ đưa ra quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức pháp chế.
Theo Từ điển Tiếng Việt, tổ chức là làm cho thành một chỉnh thể, có
một cấu tạo, một cấu trúc và những chức năng chung nhất định. Như vậy,
theo cách định nghĩa này và từ những khái quát trên về tổ chức pháp chế,
chúng ta có thể đưa ra khái niệm về tổ chức pháp chế như sau:
Tổ chức pháp chế là đơn vị chuyên môn được thành lập theo quy định
của pháp luật, gồm tập thể cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên pháp chế
có kiến thức pháp luật, có ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý, được đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ pháp chế; có chức năng tham mưu, tư vấn những vấn đề
pháp lý trong phạm vi ngành, lĩnh vực nhất định.
Bộ Xây dựng là một Bộ quản lý ngành, là cơ quan của Chính phủ thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về: xây dựng; kiến trúc, quy hoạch xây
dựng; hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ
cao; phát triển đô thị; nhà ở và công sở; kinh doanh bất động sản; vật liệu xây
dựng; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong lĩnh vực quản lý nhà nước của
Bộ. Xây dựng là một lĩnh vực quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Muốn đầu tư xây dựng có hiệu quả thì
công tác quản lý nhà nước đóng một vai trò quyết định. Bởi vậy, trong cơ cấu
tổ chức của Bộ cũng như các Bộ, ngành khác, song song với các đơn vị
chuyên ngành chỉ có ở mỗi Bộ bao giờ cũng có các đơn vị tổng hợp mà các
Bộ đều có để giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Trong số
đó, đơn vị có chức năng tham mưu các vấn đề về pháp luật là Vụ Pháp chế.



12

Theo quy định của Chính phủ tại Nghị định số 122/2004/NĐ-CP, Bộ có Vụ
Pháp chế và có thể có tổ chức pháp chế ở các Cục thuộc Bộ. Tuy nhiên, trên
thực tế, Bộ Xây dựng chỉ có tổ chức pháp chế là Vụ Pháp chế, còn tại các Cục
thuộc Bộ Xây dựng chỉ bố trí người làm công tác pháp chế kiêm nhiệm.
Tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng là cơ quan được thành lập theo quy
định của pháp luật, gồm các công chức pháp chế có kiến thức pháp luật, có ý
thức pháp luật và văn hóa pháp lý, được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ pháp
chế; có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước
bằng pháp luật các lĩnh vực thuộc chức năng quản lý nhà nước của Bộ được
Chính phủ giao.
Tóm lại, tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng là một tổ chức trong hệ thống
mạng lưới tổ chức pháp chế được Chính phủ quy định thành lập, có chức
năng, nhiệm vụ cụ thể, do Bộ Tư pháp thống nhất quản lý. Người làm công
tác pháp chế có quy định chức danh, tiêu chuẩn rõ ràng, có kiến thức pháp
luật và kiến thức chuyên ngành xây dựng, bên cạnh đó còn được đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp Vụ Pháp chế để nâng cao chuyên môn.
1.1.2. Đặc điểm của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng
Xây dựng là một ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng trong quá trình tạo
ra cơ sở vật chất thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước.
Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động xây dựng, thời
gian gần đây, Nhà nước ta và Bộ Xây dựng đã chú trọng đến công tác xây
dựng hệ thống VBQPPL về xây dựng ngày càng thống nhất, đồng bộ. Tổ chức
pháp chế Bộ Xây dựng là một đơn vị chuyên môn thuộc cơ cấu tổ chức của Bộ,
có vai trò đảm bảo yêu cầu chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và trật tự, kỷ
cương trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội của Bộ. Tổ chức pháp
chế Bộ Xây dựng hay nói cách khác, chính là Vụ Pháp chế Bộ Xây dựng là

đơn vị đầu mối về công tác pháp chế của Bộ. Tổ chức pháp chế này có một số
đặc điểm cơ bản như sau:


13

Thứ nhất, tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng là đơn vị chuyên môn được
thành lập theo quy định của pháp luật. Tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng là tổ
chức được Chính phủ quy định thành lập, nhằm thực hiện các hoạt động thuộc
lĩnh vực pháp luật giúp Bộ trưởng thực hiện việc quản lý nhà nước bằng pháp
luật trong ngành xây dựng. Văn bản quy phạm pháp luật cao nhất quy định về
tổ chức pháp chế Bộ, ngành là Nghị định của Chính phủ, tính đến nay, có 04
nghị định ra đời, thay thế nhau quy định về tổ chức này. Văn bản quy phạm
pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất quy định về tổ chức pháp chế đang có
hiệu lực là Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04 tháng 7 năm 2011 quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế. Tổ
chức pháp chế là đơn vị chuyên môn, không phải được thành lập một cách tự
do, tự phát mà phải theo quy định của Chính phủ, hoạt động một cách có hệ
thống, có chức năng, nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng.
Thực hiện quy định của Nghị định số 94-CP quy định các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước về ngành,
lĩnh vực công tác trong cả nước có Vụ Pháp chế hoặc Phòng Pháp chế. Vụ
Pháp chế Bộ Xây dựng được thành lập theo Quyết định số 1045/1997/QĐ-TTg
ngày 08/12/1997 của Thủ tướng Chính phủ. Căn cứ vào Quyết định nêu trên,
Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã ban hành Quyết định số 909/BXD-TCLĐ ngày
15/12/1997 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Pháp chế. Tuy
nhiên, do yêu cầu đổi mới trong các thời kỳ khác nhau nên chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Vụ Pháp chế cũng được quy định lại tại các Quyết định số
888/QĐ-BXD ngày 25/6/2003, Quyết định số 1388/QĐ-BXD ngày 01/9/2004,
Quyết định số 679/QĐ-BXD ngày 09/5/2008.

Trước khi Vụ Pháp chế trực thuộc Bộ Xây dựng được thành lập (năm
1997), công tác pháp chế của Bộ được ghép với Văn phòng Bộ do một hoặc hai
chuyên viên thực hiện. Khối lượng công việc lớn mà số lượng người làm công


14

tác pháp chế của Bộ lại quá ít nên trong suốt thời gian dài, công tác pháp chế
của Bộ không mang lại nhiều hiệu quả.
Là đơn vị chuyên môn, Vụ Pháp chế thực hiện các công việc của công
tác pháp chế theo quy định của pháp luật. Đó là các công việc về xây dựng
pháp luật (chủ trì hoặc phối hợp trong việc lập đề nghị, lập dự kiến chương
trình xây dựng pháp luật; soạn thảo VBQPPL; thẩm định, góp ý VBQPPL…);
rà soát, hệ thống hóa; kiểm tra và xử lý VBQPPL; phổ biến, giáo dục pháp
luật; theo dõi tình hình thi hành pháp luật và kiểm tra việc thực hiện pháp
luật….Những nội dung công việc này đã được quy định cụ thể, chi tiết tại
Quyết định số 679/QĐ-BXD ngày 09/5/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Vụ Pháp chế Bộ Xây dựng.
Thứ hai, tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng gồm tập thể những người vừa
có trình độ cử nhân luật trở lên, vừa có kiến thức chuyên ngành xây dựng.
Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, y tế, giáo dục, xây dựng, giao thông,
nông nghiệp…Để thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước, từ lâu, đã tiến
hành phân cấp, phân quyền theo ngành, lĩnh vực, theo đơn vị hành chính để
quản lý hiệu quả nhất. Điều đó đòi hỏi nguồn nhân sự cũng phải “có chuyên
môn” theo ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, pháp luật lại điều chỉnh mọi lĩnh vực
mà Chính phủ lại thống nhất quản lý các ngành, lĩnh vực. Để xây dựng được
những VBQPPL có chất lượng, phù hợp với đòi hỏi của đời sống xã hội thì
cần phải có lực lượng những người làm công tác pháp chế tham mưu, giúp
việc cho lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện chức năng

quản lý nhà nước của mình.
Đối với người làm công tác pháp chế, để thực hiện các công việc thuộc
chức năng, nhiệm vụ của mình chắc chắn phải có kiến thức pháp luật nhưng
để thực hiện tốt và tốt nhất các công việc được giao thì ngoài kiến thức pháp


15

luật cần phải có kiến thức chuyên ngành, lĩnh vực mình công tác. Bởi để thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ, nhất là chức năng tham mưu thì bản thân
những người làm công việc tham mưu phải hiểu được, nắm bắt được nội
dung, cơ chế hoạt động, những đặc thù….của ngành, lĩnh vực mà mình công
tác. Ngành xây dựng là một ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, để thực hiện
việc quản lý nhà nước có hiệu quả lĩnh vực này cần có một hành lang pháp lý
ngành tốt. Để tạo được hành lang đó cần có kiến thức pháp luật sâu rộng và
kiến thức chuyên ngành xây dựng tốt. Đây cũng chính là yêu cầu cần thiết đối
với người làm công tác pháp chế xây dựng.
Về chức danh, tiêu chuẩn của người làm công tác pháp chế, Nghị định
số 178-HĐBT chưa đề cập tới. Nhưng kể từ Nghị định số 94- CP nội dung
này đã được quy định và được hướng dẫn bởi Thông tư liên tịch số
302/1997/TTLT-BTCCBCP-BTP của Ban tổ chức Chính phủ - Bộ Tư pháp
ngày 30 tháng 12 năm 1997 hướng dẫn thực hiện một số quy định về tổ chức
pháp chế ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Theo Thông
tư này, “cán bộ pháp chế phải là người có trình độ cử nhân luật, vừa có kiến
thức chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ, ngành mình”. Không chỉ quy định chung
bắt buộc mà Thông tư liên tịch còn hướng dẫn cụ thể: “Trong trường hợp cán
bộ pháp chế đã có bằng cử nhân luật, có thực tiễn soạn thảo văn bản, nhưng
chưa có kiến thức chuyên ngành, thì Bộ, ngành cần có kế hoạch tiếp tục đào
tạo để đạt yêu cầu kiến thức về chuyên ngành”; “Trong trường hợp cán bộ
pháp chế đã có bằng cử nhân chuyên ngành, có kinh nghiệm chuyên môn, đã

tham gia soạn thảo văn bản, nhưng chưa có kiến thức pháp luật, thì Bộ, ngành
cần phối hợp với Bộ Tư pháp lập kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kiến
thức pháp luật”.
Nhận thức rõ điều đó, Nghị định số 122/2004/NĐ-CP ra đời, thay thế
Nghị định số 94- CP đã tiếp tục duy trì và phát triển quy định về tiêu chuẩn


16

của công chức pháp chế. Nghị định quy định rõ “Công chức pháp chế ở các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh phải là công chức từ ngạch chuyên viên trở lên, có trình độ cử
nhân luật hoặc cử nhân chuyên ngành, có kiến thức pháp lý, bảo đảm thực
hiện tốt nhiệm vụ được giao”. Nếu như Thông tư liên tịch số 302/1997/TTLTBTCCBCP-BTP, mới chỉ quy định “chú ý lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ,
công chức từ ngạch chuyên viên trở lên để đảm bảo thực hiện được tốt nhiệm
vụ, quyền hạn của cán bộ pháp chế, tổ chức pháp chế Bộ” thì Nghị định số
122/2004/NĐ-CP đã quy định bắt buộc “phải là công chức từ ngạch chuyên
viên trở lên”. Điều đó cho thấy, vai trò, tầm quan trọng của công tác pháp chế
hiện nay. Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-BTP-BNV ngày 24 tháng 01
năm 2005 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 122/2004/NĐ-CP
cũng hướng dẫn cụ thể vấn đề này, “Trong trường hợp công chức làm công
tác pháp chế đã có bằng cử nhân luật, nhưng chưa có kiến thức chuyên ngành
thuộc lĩnh vực mình công tác thì hàng năm Bộ, ngành có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng, nâng cao để đạt yêu cầu kiến thức về chuyên ngành”; “Trong
trường hợp công chức làm công tác pháp chế đã có bằng cử nhân chuyên
ngành, nhưng chưa có kiến thức pháp lý, thì hàng năm Bộ, ngành lập kế
hoạch và phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức việc đào tạo cử nhân luật hoặc bồi
dưỡng, nâng cao kiến thức pháp lý (chậm nhất sau 3 năm làm công tác pháp
chế thì phải có chứng chỉ của các cơ sở đào tạo luật)”. Quy định này là cần
thiết, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn công việc. Tuy nhiên, thực tế triển

khai quy định này thì nhiều Bộ, ngành, địa phương còn chưa thật chuẩn chỉ,
nghiêm chỉnh. Bộ Xây dựng cũng là một trong số đó, còn nhiều người làm
công tác pháp chế kiêm nhiệm, chưa có bằng cử nhân luật hoặc kể cả kiêm
nhiệm lẫn chuyên trách có bằng cử nhân luật nhưng sau nhiều năm công tác
vẫn chưa có bằng, chứng chỉ hoặc được tham gia khóa đào tạo, bồi dưỡng


17

kiến thức chuyên ngành thuộc lĩnh vực mình công tác mà chủ yếu các cá nhân
tự tìm hiểu, học hỏi nâng cao kiến thức.
Về vấn đề này, Nghị định số 55/2011/NĐ-CP bổ sung những quy định
mới theo hướng xác định rõ những người làm công tác pháp chế và tiêu chuẩn
người làm công tác pháp chế (Điều 11 và khoản 1 Điều 12. Theo Nghị định
này, người làm công tác pháp chế là công chức pháp chế ở tổ chức pháp chế
thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cấp tỉnh; cán bộ pháp chế ở các đơn vị quân đội, công an
nhân dân; viên chức pháp chế ở đơn vị sự nghiệp công lập; và nhân viên pháp
chế ở tổ chức pháp chế thuộc doanh nghiệp nhà nước. Nghị định cũng quy
định rõ các tiêu chuẩn của người làm công tác pháp chế, theo đó, công chức
pháp chế “phải là công chức từ ngạch chuyên viên và tương đương, có trình
độ cử nhân luật trở lên”; viên chức pháp chế là “viên chức có chức danh nghề
nghiệp, có trình độ cử nhân luật trở lên”. Riêng đối với người đứng đầu tổ
chức pháp chế phải có trình độ cử nhân luật trở lên và có ít nhất 05 năm trực
tiếp làm công tác pháp luật. Để giải quyết vấn đề thực tế đối với những người
hiện đang làm công tác pháp chế mà chưa có trình độ cử nhân luật, Nghị định
quy định những người này phải tham gia chương trình đào tạo về pháp luật và
bồi dưỡng kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ về công tác pháp chế do Bộ Tư
pháp tổ chức. Sau 05 năm, kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực, người làm
công tác pháp chế phải có trình độ cử nhân luật.

Như vậy, theo quy định mới thì người làm công tác pháp chế chỉ cần
đáp ứng điều kiện “có trình độ cử nhân luật”, chứ không đòi hỏi “có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao để đạt yêu cầu kiến thức về chuyên ngành”. Yêu
cầu này, có lẽ để mở cho mỗi cá nhân làm công tác pháp chế tự mình trau dồi,
hoàn thiện theo khả năng chăng? Điều đó sẽ thêm một khó khăn đối với
những người làm công tác pháp chế và góp phần làm chậm tiến trình đi tới
thành công của mỗi tổ chức pháp chế.


18

- Thứ ba, người làm công tác pháp chế của Bộ Xây dựng được bồi
dưỡng kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ về công tác pháp chế. Việc bồi dưỡng
kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ cho những người làm công tác pháp chế là
quan trọng, cần thiết trong thực hiện công tác chuyên môn. Về vấn đề này,
Nghị định số 94-CP quy định: “Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm hướng
dẫn nghiệp vụ của tổ chức pháp chế Bộ ( tổ chức pháp chế ở các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ); bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán
bộ pháp chế Bộ”. Thông tư liên tịch số 302/1997/TTLT-BTCCBCP-BTP
Hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị định số 94-CP hướng dẫn như
sau: “Hàng năm Bộ Tư pháp tổ chức các lớp bồi dưỡng về kỹ thuật soạn thảo
văn bản quy phạm pháp luật, giới thiệu các văn bản pháp luật mới ban hành
cho đội ngũ cán bộ pháp chế”.
Trách nhiệm bồi dưỡng kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ về công tác pháp
chế được xác định là thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp. Nghị định số
122/2004/NĐ-CP quy định Bộ Tư pháp có nhiệm vụ “phối hợp với các Bộ,
ngành tổ chức bồi dưỡng và hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm
công tác pháp chế”. Theo báo cáo tổng kết 06 năm thực hiện Nghị định số
122/2004/NĐ-CP: Hàng năm, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ
cho cán bộ, công chức làm công tác pháp chế; tổ chức nhiều hội nghị tập

huấn, hội nghị chuyên đề bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác pháp chế từ
Trung ương đến các địa phương; trả lời các kiến nghị, yêu cầu về chuyên môn,
nghiệp vụ. Đồng thời, phối hợp với các Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh chỉ đạo
các tổ chức pháp chế và cơ quan tư pháp tổ chức các đợt tập huấn chuyên môn,
nghiệp vụ về công tác pháp chế cho lãnh đạo, cán bộ làm công tác pháp chế
trong phạm vi ngành, lĩnh vực hoặc địa phương [21, tr.16]. Báo cáo không đưa
ra các con số cụ thể, nhưng qua đó cũng thấy được rằng “nhiệm vụ bồi dưỡng
kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ về công tác pháp chế” đã được Bộ Tư pháp
triển khai thực hiện, dù chưa được thường xuyên, liên tục.


19

Nghị định số 55/2011/NĐ-CP thay thế Nghị định số 122/2004/NĐ-CP quy
định Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì hoặc phối hợp với các Bộ, ngành
“hướng dẫn, tổ chức bồi dưỡng kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ về công tác
pháp chế; định kỳ hàng quý tổ chức sinh hoạt pháp chế”. “Sinh hoạt pháp
chế” là một nội dung mới được quy định trong văn bản này. Đây sẽ là hoạt
động sinh hoạt chuyên môn rất hữu ích, nhằm trao đổi chuyên môn, kinh
nghiệm…của các tổ chức pháp chế.
Thứ tư, tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng là cơ quan tham mưu và là đầu mối
thực hiện công tác pháp chế của Bộ. Vụ Pháp chế là cơ quan tham mưu giúp
Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với ngành xây
dựng; tổ chức thực hiện công tác xây dựng pháp luật, thẩm định, rà soát, hệ
thống hóa VBQPPL, kiểm tra VBQPPL, phổ biến, giáo dục pháp luật, kiểm
tra việc thực hiện pháp luật trong các lĩnh vực xây dựng; kiến trúc, quy hoạch
xây dựng; hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công
nghệ cao; phát triển đô thị; nhà ở và công sở; kinh doanh bất động sản; vật
liệu xây dựng....Ngoài ra, trên thực tế, Vụ Pháp chế còn thực hiện các nhiệm
vụ theo dõi tình hình thi hành pháp luật trên cơ sở Nghị định số 93/2008/NĐCP ngày 22/8/2008 của Chính phủ; công tác bồi thường của Nhà nước trên cơ

sở Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009; công tác hỗ trợ
pháp lý cho doanh nghiệp trên cơ sở Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày
28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp...Những nhiệm
vụ này mới được bổ sung ở Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, từ khi những quy
định trên có hiệu lực tuy Bộ trưởng Bộ Xây dựng chưa ra văn bản giao bổ
sung nhiệm vụ mới cho Vụ Pháp chế nhưng trên thực tế những nhiệm vụ này
bước đầu đã được Bộ cũng như Vụ Pháp chế triển khai thực hiện. Đặc điểm
này sẽ được nêu cụ thể trong phần chức năng, nhiệm vụ của Vụ Pháp chế Bộ
Xây dựng.


20

Thứ năm, tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng là đơn vị chuyên môn thuộc
cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng. Đây là một trong những tổ chức giúp Bộ
trưởng Bộ Xây dựng thực hiện chức năng quản lý nhà nước của Bộ nhưng
trong hoạt động lại chịu sự quản lý, hướng dẫn kiểm tra về chuyên môn
nghiệp vụ trong công tác pháp chế của Bộ Tư pháp. Thực hiện báo cáo các
nội dung của công tác pháp chế của Bộ Xây dựng theo quý, 06 tháng, hàng
năm hoặc theo yêu cầu của Bộ Tư pháp; chủ trì hoặc phối hợp với Bộ Tư
pháp tổ chức bồi dưỡng kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ về công tác pháp
chế cho những người làm công tác pháp chế của Bộ Xây dựng....
Tóm lại, tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng là một tổ chức được Chính phủ
quy định thành lập, có chức năng, nhiệm vụ cụ thể, do Bộ Tư pháp thống nhất
quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ. Đồng thời, là đơn vị chuyên môn giúp cho
lãnh đạo Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực được
Chính phủ giao. Người làm công tác pháp chế có quy định chức danh, tiêu
chuẩn rõ ràng, có kiến thức pháp luật và kiến thức chuyên ngành xây dựng,
bên cạnh đó còn được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp Vụ Pháp chế để nâng cao
chuyên môn. Bên cạnh những đặc điểm chung của tổ chức pháp chế thì còn

mang những đặc điểm riêng biệt, đặc thù của ngành xây dựng.
1.1.3. Cơ cấu và chức năng của tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng
Những năm gần đây, cùng với các hoạt động của Bộ Xây dựng, công
tác pháp chế của Bộ cũng có phạm vi hoạt động rất rộng, đa dạng và phức tạp.
Mặc dù vậy, công tác này đã đạt được nhiều kết quả và phát huy được vai trò
quan trọng của mình trong hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng.
Về cơ cấu, tổ chức pháp chế Bộ Xây dựng hiện nay có Vụ Pháp chế và
04 Cục thuộc Bộ có bố trí người làm công tác pháp chế tại Phòng tổng hợp
dưới hình thức kiêm nhiệm. Cơ cấu nhân sự của Vụ Pháp chế Bộ Xây dựng
hiện có 01 Vụ trưởng, 02 Phó Vụ trưởng, 11 công chức chuyên môn, nghiệp
vụ giúp việc và được phân công theo các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ.


×