BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HOÀNG HẢI YẾN
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA
KIỂM SÁT VIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ GIA LÂM
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Hoàng Hải Yến
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
BLTTHS:
Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT:
Cơ quan điều tra
HĐXX:
Hội đồng xét xử
KSV:
Kiểm sát viên
TAND:
Tòa án nhân dân
TTHS:
Tố tụng hình sự
VKS:
Viện kiểm sát
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài: ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài: ........................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: ...................................................................... 2
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài ............................. 3
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: ................................................... 3
6. Đóng góp khoa học của đề tài: ....................................................................... 3
7. Cơ cấu đề tài: .................................................................................................. 4
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ
TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM SÁT VIÊN .............................................................. 5
1.1. Một số vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm sát
viên trong tố tụng hình sự. .......................................................................................... 5
1.1.1. Khái quát chung về kiểm sát viên. .............................................................. 5
1.1.2. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm sát viên. ........ 11
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của kiểm sát viên. ............................................................................. 16
1.2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn
của kiểm sát viên. ............................................................................................... 16
1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về trách nhiệm của
Kiểm sát viên. ..................................................................................................... 31
Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................... 32
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG VIỆC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM SÁT VIÊN. .................................................... 34
2.1. Thực trạng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm sát
viên. ........................................................................................................................... 34
2.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của kiểm sát viên. ........................................................................... 34
2.1.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân những hạn chế, vướng mắc
trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm sát viên. ... 39
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của kiểm sát viên. ...................................................................... 54
2.2.1.Giải pháp lập pháp: .................................................................................. 54
2.2.2. Các giải pháp khác: ................................................................................. 58
Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................... 62
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 64
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong những năm vừa qua, nhất là từ khi có Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, ngành kiểm sát đã có những thay đổi
đáng kể nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Trong đó, một trong những vấn đề trọng tâm là nâng cao chất lượng
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm sát viên. Yêu cầu của cái
cách tư pháp đặt ra là “phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách
nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tư pháp theo hướng tăng quyền và trách
nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong việc thực
thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các
hành vi và quyết định tố tụng của mình” [4]. Xuất phát từ yêu cầu đó, hàng năm
ngành kiểm sát đã có những sự quan tâm nhất định đến đội ngũ kiểm sát viên –
những người trực tiếp thực hiện những hoạt động chức năng của ngành. Đặc biệt là
việc nghiên cứu quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm theo ngạch kiểm
sát viên và theo hệ thống tổ chức ngành. Kết quả cho thấy, ngành Kiểm sát nhân
dân nói chung, kiểm sát viên nói riêng đã thực hiện tốt chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các các hoạt động tư pháp, góp phần không nhỏ vào công cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của kiểm sát viên vẫn còn tồn tại
những hạn chế nhất định, như: việc Tòa án, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ để điều tra
bổ sung, điều tra lại nhiều lần; việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự còn
nhiều sai sót, đình chỉ vụ án vì bị can, bị cáo không có tội… nhiều trường hợp Viện
kiểm sát đã phải bồi thường cho người bị oan, sai.
Nhằm góp phần vào việc nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm sát viên
2
cũng như việc nâng cao chất lượng thực hiện những quy định đó, chúng tôi lựa chọn
đề tài: “Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tố tụng hình
sự” làm đề tài nghiên cứu luận văn cao học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Từ trước đến nay có đã có một số công trình khoa học, các bài báo đăng trên
các tạp chí có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm sát viên
nói chung và nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của kiểm sát viên trong các giai
đoạn tố tụng nói riêng như: TS. Đỗ Văn Đương với bài“Chế định Kiểm sát viên
trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp” (Kỷ yếu hội thảo “Một số định hướng sửa đổi Luật tổ chức VKSND đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp” năm 2012); tác giả Trần Công Hòa với đề tài “Kiểm sát
hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm
sát”, Luận văn Thạc sỹ luật học năm 2004; tác giả Hà Minh Hải với đề tài “Chức
năng, nhiệm vụ của kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” Luận văn thạc sĩ luật học, năm 2007; TS.
Dương Thanh Biểu với bài “Vị trí, vai trò của kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm”
(Tạp chí Kiểm sát, số 11/2007). Các công trình khoa học và bài viết nêu trên mới
chỉ đề cập đến nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm sát viên trong một
phạm vi hạn chế. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của các công trình này cũng cho
thấy, tuy là một chế định cơ bản về người tiến hành tố tụng trong luật tố tụng hình
sự nhưng chế định kiểm sát viên vẫn chưa được lưu tâm một cách thỏa đáng và còn
chứa đựng rất nhiều tranh luận. Hiện nay chưa có công trình khoa học nào nghiên
cứu một cách tổng thể về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm sát viên
trong tố tụng hình sự.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của kiểm sát viên theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và những văn bản pháp
luật có liên quan.
3
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà
nước về Nhà nước và pháp luật cũng như quan điểm cải cách tư pháp.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử, phân tích, so sánh, tổng
hợp, thống kê, logic… nhằm giải quyết mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn của các quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của KSV
trong tố tụng hình sự nhằm đề xuất các kiến nghị lập pháp và các giải pháp nâng
cao hiệu quả việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đó.
Với mục đích trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ các khái niệm: kiểm sát viên; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của của kiểm sát viên trong tố tụng hình sự
- Nghiên cứu một cách khái quát những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự và những văn bản pháp luật có liên quan về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của kiểm sát viên.
- Phân tích những hiệu quả đạt được cũng như những vướng mắc, bất cập
trong việc quy định cũng như thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
kiểm sát viên và đưa ra những giải pháp khắc phục.
6. Đóng góp khoa học của đề tài:
Với việc phân tích, lý giải và rút ra một số kết luận khoa học, đề tài góp phần
xác định cơ sở khoa học cho việc nhận thức về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của KSV theo luật tố tụng hình sự Việt Nam được thống nhất. Với việc đề xuất sửa
đổi, bổ sung một số quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của KSV, đề
tài giải quyết được những hạn chế, vướng mắc trong quy định và việc thực hiện
những quy định của pháp luật. Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong
phú thêm các sản phẩm khoa học về pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, có thể sử
4
dụng làm tài liệu để các nhà khoa học luật tố tụng hình sự tham khảo khi nghiên
cứu những vấn đề có liên quan.
7. Cơ cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ
cấu làm 2 chương:
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ
TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM SÁT VIÊN
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG VIỆC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM SÁT VIÊN.
5
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ
TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM SÁT VIÊN
1.1. Một số vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm sát
viên trong tố tụng hình sự.
1.1.1. Khái quát chung về kiểm sát viên.
Trong tố tụng hình sự, kiểm sát viên là một trong những người tiến hành tố
tụng được quy định tại khoản 2 Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự. Để giải quyết một
vụ án hình sự, Nhà nước giao thẩm quyền cho một số người nhất định được sử dụng
quyền lực của Nhà nước thực hiện việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Những
người này khi thực hiện nhiệm vụ được giao có quyền áp dụng các biện pháp hợp
pháp do pháp luật quy định, tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết nhằm giải
quyết vụ án hình sự một cách chính xác, nhanh chóng, bảo vệ quyền lợi của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Họ chính là những người tiến hành
tố tụng trong vụ án hình sự.
“Người tiến hành tố tụng là người được bổ nhiệm, được bầu hoặc cử theo
quy định của pháp luật và được phân công điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”
[17, tr.203]. Nói cách khác, người tiến hành tố tụng là những người đại diện cho cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ trong các giai đoạn tố tụng.
Trong số những người tiến hành tố tụng tại Viện kiểm sát thì kiểm sát viên là
một chức danh tư pháp. Tại khoản 1 Điều 42 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002, Điều 1 Pháp lệnh kiểm sát viên 2002 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2011) thì
khái niệm KSV được định nghĩa như sau: “Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm
theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp”. Tương ứng với hệ thống tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
thì kiểm sát viên được phân cấp thành: kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; kiểm sát viên trung cấp và kiểm sát viên sơ cấp.
Do tính chất, đặc điểm của công tác kiểm sát cùng với vị trí pháp lý và trách
nhiệm pháp lý của kiểm sát viên nên tiêu chuẩn kiểm sát viên là một vấn đề hết sức
6
được quan tâm. Ngay từ khi mới thành lập ngành kiểm sát, trong một cuộc họp của
Bộ Chính trị (tháng 2/1963) bàn về công tác kiểm sát, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa
ra yêu cầu: “Cán bộ kiểm sát phải công minh, chính trực, khách quan, thận trọng,
khiêm tốn”. Trải hơn 50 năm hoạt động của ngành kiểm sát, tiêu chuẩn kiểm sát
viên đã được ghi nhận và thay đổi, bổ sung cho phù hợp với các thời kì. Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 2002, Pháp lệnh kiểm sát viên 2002 quy định: “Công
dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có trình độ cử
nhân luật, đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát, có tinh thần kiên quyết bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của
Pháp lệnh Kiểm sát viên, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì
có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm kiểm sát viên”.
Kiểm sát viên được phân làm ba bậc, đối với mỗi bậc kiểm sát viên lại có
những tiêu chuẩn cụ thể khác nhau:
Tiêu chuẩn của kiểm sát viên sơ cấp: Người có đủ tiêu chuẩn chung nêu trên,
có thời gian làm công tác pháp luật từ bốn năm trở lên, có năng lực thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm
làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân
đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của
Viện kiểm sát quân sự (Điều 18 Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002).
Tiêu chuẩn của kiểm sát viên trung cấp: Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại
Điều 2 của Pháp lệnh Kiểm sát viên và đã là kiểm sát viên sơ cấp ít nhất là năm
năm, có năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, có
khả năng hướng dẫn nghiệp vụ kiểm sát đối với kiểm sát viên sơ cấp thì có thể được
tuyển chọn và bổ nhiệm làm kiểm sát viên trung cấp của Viện Kiểm sát nhân dân;
nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm
làm kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát quân sự (Điều 19 Pháp lệnh Kiểm sát
viên năm 2002).
7
Tiêu chuẩn của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Người có đủ
tiêu chuẩn quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh Kiểm sát viên và đã là kiểm sát viên
trung cấp ít nhất là năm năm, có năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ kiểm sát đối với kiểm sát viên
sơ cấp, kiểm sát viên trung cấp, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì
có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự Trung
ương (Điều 20 Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2003).
Tuy vậy, quy định về thâm niên công tác pháp luật có thể được vận dụng linh
hoạt đáp ứng nhu cầu cán bộ của ngành kiểm sát. Người đang công tác trong ngành
kiểm sát nhân dân hoặc người được cơ quan, tổ chức điều động đến công tác tại
ngành kiểm sát, tuy chưa đủ thời gian làm kiểm sát viên sơ cấp, kiểm sát viên trung
cấp hoặc chưa đủ thời gian làm công tác pháp luật nhưng đáp ứng đủ các yêu cầu
nêu trên thì cũng có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm vào kiểm sát viên sơ cấp,
hoặc kiểm sát viên trung cấp hoặc kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong một số trường hợp kiểm sát viên trung cấp hoặc kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao được bổ nhiệm thẳng, không qua sơ cấp, trung cấp (khoản 2 Điều
20 Pháp lệnh kiểm sát viên).
Thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức kiểm sát viên: Chủ tịch nước
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức kiểm sát viện Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự Trung ương. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức kiểm sát viên trung cấp và kiểm sát
viên sơ cấp. Theo quy định tại các Điều 22, 33, 24, 25 Pháp lệnh KSV thì Hội đồng
tuyển chọn kiểm sát viên theo các cấp được thành lập với nhiệm vụ tổ chức họp
tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn theo quy định của Pháp lệnh Kiểm sát viên để trình
cấp có thẩm quyền xem xét bổ nhiệm; họp xem xét những trường hợp miễn nhiệm,
cách chức. Trên cơ sở kết quả của Hội đồng tuyển chọn, Viện trưởng VKSND tối
cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức kiểm sát viên VKSND
tối cao, kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự Trung ương; Chủ tịch Hội đồng tuyển
8
chọn kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh, cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân
sự Trung ương đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh, cấp huyện, kiểm sát viên Viện kiểm sát quân
sự cấp quân khu, khu vực. Quyết định của Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên phải
được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.
Trên thế giới, mỗi quốc gia với nền chính trị khác nhau có quy định về hệ
thống Viện kiểm sát/Viện công tố cùng chế định kiểm sát viên/công tố viên khác
nhau. Sau đây là tham khảo một số quy định về chế định kiểm sát viên một số nước:
- Tại Trung Quốc, theo quy định tại Luật cán bộ kiểm sát nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa (được Hội nghị lần thứ 12 Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu
nhân dân toàn quốc khoá VIII nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thông qua ngày
28/2/1995) thì kiểm sát viên là một trong những “nhân viên kiểm sát thực thi quyền
kiểm sát Nhà nước theo pháp luật” có các chức trách: “(1) Tiến hành công tác giám
sát pháp luật theo pháp luật; (2) Thay mặt Nhà nước tiến hành công tố; (3) Tiến
hành điều tra các tội phạm do Viện kiểm sát nhân dân trực tiếp thụ lí theo quy định
của pháp luật; (4) Các chức trách khác theo quy định của pháp luật” (Điều 2, Điều
6) [22]. Các điều kiện trở thành cán bộ kiểm sát là (Điều 10 Luật cán bộ kiểm sát
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa): có quốc tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa; tròn 23 tuổi; tán thành Hiến pháp nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa; có tố
chất chính trị, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức tốt đẹp; khoẻ mạnh; tốt nghiệp
ngành luật của trường đại học hoặc tốt nghiệp trường đại học không thuộc ngành
luật nhưng có kiến thức chuyên ngành luật và đã công tác tròn 2 năm hoặc đã có
bằng đại học Luật và công tác được tròn 1 năm; người có bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ luật
thì có thể không bị hạn chế bởi thời gian công tác.
Cán bộ kiểm sát Trung Quốc được chia thành 12 bậc (Điều 19 Luật cán bộ
kiểm sát nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa). Trong đó Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao là cán bộ kiểm sát ở bậc cao nhất. Từ bậc thứ 2 đến bậc thứ 12
được chia thành: Cán bộ kiểm sát cao cấp, cán bộ kiểm sát trung cấp và cán bộ kiểm
sát. Việc xác định cấp bậc của cán bộ kiểm sát được căn cứ vào chức trách đáng
9
đảm nhiệm, tài năng, đạo đức, trình độ nghiệp vụ, thành tích về công tác kiểm sát và
thâm niên công tác.
Theo quy định tại Điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân Trung Hoa
thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Đại hội đại biểu nhân dân toàn
quốc bầu và bãi miễn. Các phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, kiểm
sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Ủy ban Thường vụ
Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bổ nhiệm và bãi miễn [13, tr. 90-103].
- Tại Cộng hòa Liên Bang Nga: Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang
Nga quy định: “Kiểm sát viên là người có chức vụ, quyền hạn, có quyền nhân danh
Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong quá trình tố tụng hình sự
và kiểm sát hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra ban đầu và Cơ quan điều tra dự
thẩm trong phạm vi thẩm quyền được quy định trong Bộ luật này” [9]. Điều 40.1 Luật
Tổ chức Viện kiểm sát Liên bang Nga cũng quy định các tiêu chuẩn bổ nhiệm các
chức danh kiểm sát viên, điều kiện và trình tự tuyển chọn vào công chức ngành
kiểm sát như sau: Công dân Liên bang Nga tốt nghiệp đại học luật được đào tạo
chuyên sâu ở trường nghiệp vụ được tín nhiệm bầu chọn, có phẩm chất đạo đức
nghề nghiệp cần thiết, có sức khoẻ đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao phó
có thể được bổ nhiệm làm kiểm sát viên, điều tra viên.
Không được tuyển chọn làm công chức trong các cơ quan, tổ chức thuộc
ngành Kiểm sát đối với:
+ Người mang quốc tịch nước ngoài;
+ Người mà Toà án đã tuyên bố không có hoặc bị hạn chế năng lực hành vi;
+ Người bị Toà án tuyên phạt tước quyền được trở hành công chức nhà nước
trong thời hạn mà bản án đã tuyên đối với họ;
+ Người có tiền án;
+ Người bị bệnh tật hoặc có nhược điểm về thể chất tâm thần đã có kết luận
của ngành Y tế bị hạn chế khả năng hoàn thành nhiệm vụ;
+ Là người thân thích, ruột thịt với người đang là công chức trong các cơ
quan, tổ chức thuộc ngành kiểm sát (bố mẹ, vợ chồng, con, anh chị em ruột và cả bố
10
mẹ, anh chị em ruột, con riêng của bên vợ hoặc bên chồng), nếu họ là cấp trên và
cấp dưới trực tiếp của hoặc công việc của người này là đối tượng bị kiểm tra của
người kia;
+ Người không tuân thủ các quy định về bảo vệ các thông tin bí mật nhà
nước, bí mật nghiệp vụ, không được tuyển chọn vào các chức danh, nghề nghiệp đòi
hỏi phải có tinh thần bảo mật cao [10].
- Tại Cộng hòa Pháp: Công tố viên của Pháp là “những người có chức năng
tư pháp, là đại diện và bảo vệ những lợi ích xã hội khỏi sự xâm hại của các hoạt
động phạm tội. Nhiệm vụ của Công tố viên là đảm bảo việc tuân theo pháp luật
trong cả nước” [7]. Họ tham gia vào hệ thống Tòa án ở tất cả các cấp (Tòa sơ thẩm,
Tòa phúc thẩm, Tòa phá án).
Theo luật tổ chức Tòa án Cộng hòa Pháp, Nghị định số 2003-542 ngày 23
tháng 6 năm 2003, điều 9 Công báo ngày 25/6/2003 có hiệu lực từ ngày 15/9/2003
[8] thì tại mỗi Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng, Toà Phúc thẩm có một danh sách thứ
bậc các công tố viên. Các Công tố viên được ghi vào danh sách này theo trật tự nhất
định.
Ở Pháp, công tố viên có thể là thành viên của Hội đồng xét xử, nhưng họ
không được hưởng các quyền miễn trừ tư pháp như các thẩm phán. Việc một công
tố viên hoạt động trong vai trò một thẩm phán và ngược lại là hoàn toàn bình
thường. Khi tham gia và quá trình tố tụng, công tố viên sẽ tham gia vào các giai
đoạn tố tụng từ khi khởi tố đến khi Tòa án đưa ra quyết định cuối cùng. Theo Điều
1 và Điều 2 Pháp lệnh Luật tổ chức về quy chế thẩm phán (Thẩm phán trong pháp
lệnh này được hiểu là cả thẩm phán xét xử và thẩm phán công tố, hay còn gọi là
Công tố viên), phiên bản hợp nhất ngày 27 tháng 2 năm 2003 thì ngạch tư pháp bao
gồm: Công tố viên Viện Công tố bên cạnh Toà phá án, Toà phúc thẩm và các Toà
sơ thẩm; Công tố viên Viện Công tố dưới sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện công tố
bên cạnh Toà phúc thẩm, thực hiện các chức năng ở cấp tương đương tại Toà phúc
thẩm nơi họ công tác và Toà sơ thẩm trong phạm vi quản hạt Toà phúc thẩm nói
trên; Công tố viên tập sự.
11
Tiêu chuẩn chung để được bổ nhiệm chức danh Kiểm sát viên (Điều 16 Luật
tổ chức Tòa án Pháp):
+ Tốt nghiệp trường đào tạo Thẩm phán quốc gia.
+ Mang quốc tịch Pháp;
+ Hưởng đầy đủ quyền công dân và đạo đức tốt;
+ Được chứng nhận đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự;
+ Đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết về sức khoẻ để thức hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao hoặc đã hoàn toàn bình phục sau các tác động dẫn đến
nghỉ dài hạn.
- Tại Vương quốc Anh thì cơ quan Viện công tố Hoàng gia Anh là cơ quan
truy tố quốc gia, cơ quan độc lập thống nhất trên toàn quốc và thuộc nhóm quyền
hành pháp. Đối với việc xét xử, Viện Công tố Hoàng gia Anh chỉ thực hiện chức
năng truy tố. Theo quy định tại điểm 2.3, 2.4 Mục II Luật về công tố viên Hoàng gia
Anh thì: “Nhiệm vụ của Công tố viên Hoàng gia là đảm bảo cho quyền của những
người bị truy tố giống quyền của bị cáo. Để thực hiện điều đó, Công tố viên Hoàng
gia phải luôn hành động theo lợi ích của công lý và không chỉ theo đuổi mục đích
đạt được lời kết tội. Công tố viên Hoàng gia phải xem xét, đưa ra lời khuyên trong
các vụ án bị truy tố, đảm bảo rằng luật pháp được áp dụng một cách đúng đắn và
tất cả các bằng chứng thích hợp đều được đưa ra trước Tòa và nghĩa vụ của họ là
vạch trần tội phạm”[23].
1.1.2. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm sát viên.
Căn cứ Hiến pháp năm 1992 thì Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua cơ quan đại diện dân
cử. Bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, quyền lực Nhà nước
thống nhất nhưng trong bộ máy nhà nước có sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mỗi cơ quan Nhà nước
được pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhất định để thực hiện
quyền lực nhà nước thống nhất. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan được Hiến pháp
12
quy định chức năng, nhiệm vụ, đồng thời cũng quy định quyền hạn để thực hiện
những chức năng, nhiệm vụ đó.
“Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách
nhiệm do luật định." (Điều 137 Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ sung 2001).
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân tối cao
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân
địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa
phương mình. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.” (Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân 2002).
Trong tổ chức hoạt động, Viện kiểm sát dựa trên nguyên tắc tập trung, thống
nhất lãnh đạo trong ngành. Đây cũng là một cơ sở xác định nhiệm vụ, quyền hạn
của kiểm sát viên. Theo nguyên tắc này, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng
lãnh đạo, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các
địa phương chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (Điều 138 Hiến pháp 1992 sửa đổi và Điều 8 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2002). Tùy theo từng cấp kiểm sát, kiểm sát viên được Viện trưởng phân
công thực hiện nhiệm vụ và có quyền hạn được pháp luật quy định để thực hiện
nhiệm vụ đó. Dù là kiểm sát viên sơ cấp, kiểm sát viên trung cấp hay kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì đều thực hiện quyền lực thống nhất của toàn
ngành kiểm sát. Hoạt động của họ là sự thừa hành quyền lực trung ương tại địa
phương. Ngoài ra, Viện kiểm sát cấp trên có thể thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát cấp dưới; các kiểm sát viên cấp dưới có thể tiến hành một số hoạt
13
động thuộc thẩm quyền của kiểm sát viên cấp trên khi được Viện kiểm sát cấp trên
ủy quyền. Nói cách khác, “khi thực hiện nhiệm vụ, kiểm sát viên chỉ tuân theo pháp
luật và sự chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình, sự chỉ đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao” [15, tr.131].
Tuy vậy, giữa nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên theo pháp luật quy
định và theo sự phân công của Viện trưởng có mối liên hệ và sự khác nhau nhất
định. Khi “sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp” có mâu thuẫn với
việc “Tuân theo pháp luật” thì kiểm sát viên phải tuân theo bên nào?
Thứ nhất, kiểm sát viên có vị trí pháp lý và tính độc lập nhất định trong hoạt
động của mình. Kiểm sát viên phải luôn luôn tôn trọng tính tối cao của luật, mỗi
hành vi pháp lý của kiểm sát viên đều phải có căn cứ và hợp pháp. Điều 12 Pháp
lệnh kiểm sát viên quy định: “Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm sát viên khi
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp do pháp luật quy định”.
Hiện nay, nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên trong tố tụng hình sự được quy
định tại BLTTHS, Pháp lệnh kiểm sát viên, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự…
Đối với hoạt động tố tụng hình sự, nhiệm vụ quyền hạn của kiểm sát viên được quy
định chung tại Điều 37 BLTTHS và quy định cụ thể tại các giai đoạn tố tụng. Kiểm
sát viên chỉ thực hiện các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong một vụ án cụ thể khi có sự phân công của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhưng việc kiểm sát viên từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong
các trường hợp cụ thể cũng do pháp luật tố tụng quy định (Điều 45 BLTTHS) chứ
không xuất phát từ quyết định của Viện trưởng;
Thứ hai, khi thực hiện nhiệm vụ, kiểm sát viên phải chịu sự chỉ đạo trực tiếp
của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình. Khi kiểm sát viên tiến hành các hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong một vụ án cụ thể
thì không một ai được can thiệp ngoài Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp. “Viện
trưởng có trách nhiệm kiểm tra, phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh
đối với vi phạm pháp luật của kiểm sát viên khi thực hiện nhiệm vụ được giao; có
quyền rút, đình chỉ hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ hoặc trái pháp luật
14
của kiểm sát viên khi thực hiện nhiệm vụ do Viện trưởng uỷ quyền” (Điều 14 Pháp
lệnh kiểm sát viên);
Thứ ba, mặc dù vậy, giữa nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên và nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện trưởng cũng có ranh giới nhất định. “Kiểm sát viên có
quyền từ chối nhiệm vụ được giao khi có căn cứ cho rằng việc đó là trái pháp
luật…” (Điều 13 Pháp lệnh kiểm sát viên) và “Kiểm sát viên có quyền ra quyết
định, kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu theo quy định của pháp luật, trừ những việc
thuộc thẩm quyền của Viện trưởng” (Điều 14 Pháp lệnh kiểm sát viên).
Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, hoạt động của kiểm sát viên luôn
phải tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, có phải lúc nào kiểm sát viên cũng phải tuân
theo sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hay không? Câu trả lời là
không vì kiểm sát viên có quyền độc lập khi thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuận theo pháp luật. Chẳng hạn, tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, kiểm sát viên
được Viện trưởng phân công tham gia phiên tòa để thực hành quyền công tố (bảo vệ
cáo trạng, luận tội bị cáo). Khi thực hiện chức năng này, kiểm sát viên có một số
quyền: rút toàn bộ hay một phần quyết định truy tố, thay đổi cáo trạng theo hướng
đề nghị HĐXX áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội danh nhẹ hơn, áp dụng
khung hình phạt khác nhẹ hơn (Điều 195, Điều 217 BLTTHS)… Nếu kết quả xét xử
công khai tại phiên tòa đã phản ánh nội dung khác hẳn với quyết định truy tố của
Viện kiểm sát mà quyết định này đã được Viện trưởng thông qua trước đó thì kiểm
sát viên không còn cách nào khác, trên cơ sở các quy định của pháp luật sẽ tự ra
quyết định thay đổi hay rút quyết định truy tố. Sự tôn trọng sự thật khách quan của
vụ án để thay đổi ý kiến chủ quan cho phù hợp của kiểm sát viên tại phiên tòa đảm
bảo cho quyền công tố được thực hiện một cách kịp thời. Điều đó không những làm
tăng lên trách nhiệm, uy tín của Viện kiểm sát mà còn khẳng định tính khách quan,
công minh, tuân thủ pháp luật trong hoạt động của kiểm sát viên. Như vậy, trong
nhiều trường hợp, kiểm sát viên khi thực hiện nhiệm vụ được giao không phải lúc
nào cũng phải tuân theo sự chỉ đạo của Viện trưởng một cách máy móc mà vẫn phải
15
có sự độc lập nhất định, thậm chí chỉ tuân theo pháp luật, không phụ thuộc vào bất
cứ cá nhân, cơ quan nào.
Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra các khái niệm: “Nhiệm vụ của
kiểm sát viên trong tố tụng hình sự là hệ thống những hoạt động mà kiểm sát viên
phải tiến hành, các hoạt động này được pháp luật quy định hoặc theo sự phân công
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp nhằm thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp”.
“Quyền hạn của kiểm sát viên trong tố tụng hình sự là hệ thống những quyền
năng pháp lý được pháp luật quy định mà kiểm sát viên được làm, khi tiến hành
hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Có thể thấy, giữa “nhiệm vụ của kiểm sát viên” và “quyền hạn của kiểm sát
viên” có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ không thể tách rời. Nhiệm vụ, bản thân
nó cũng đã chứa đựng quyền hạn. Nhiệm vụ - quyền hạn tạo nên sự thống nhất
trong trạng thái cân bằng do pháp luật quy định. Khi pháp luật trao cho Kiểm sát
viên một nhiệm vụ nào đó thì cũng sẽ trao cho họ những quyền hạn nhất định để
thực hiện nhiệm vụ đó. Ngược lại, nếu một kiểm sát viên có thể sử dụng quyền hạn
trong một vụ án hình sự cụ thể thì có nghĩa là họ đã được pháp luật trao cho nhiệm
vụ giải quyết vụ án đó và phải thực hiện đầy đủ nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng,
chính xác. Trên thực tế không thể phân biệt hoạt động nào thể hiện nhiệm vụ của
kiểm sát viên và hoạt động nào thể hiện quyền hạn của kiểm sát viên. Ví dụ: theo
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 37 BLTTHS, kiểm sát viên có nhiệm vụ đề ra yêu
cầu điều tra nhằm nhanh chóng xác định sự thật vụ án. Chất lượng của bản yêu cầu
điều tra của kiểm sát viên sẽ quyết định chất lượng của công tác điều tra của Cơ
quan điều tra. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra
cũng là quyền hạn của kiểm sát viên. Ngoài kiểm sát viên, không còn chủ thể nào
khác có quyền đề ra yêu cầu điều tra.
Mối quan hệ này không những có ý nghĩa về mặt lý luận mà cả trong hoạt
động thực tiễn. Nhận thức, sử dụng đúng quyền hạn theo nhiệm vụ, đúng đối tượng,
16
đúng mục đích giúp cho kiểm sát viên có sự vận dụng đồng bộ, tổng hợp, linh hoạt
nhiệm vụ và quyền hạn qua đó phát huy tối đa hiệu quả hoạt động. Có thể nói
nhiệm vụ và quyền hạn của kiểm sát viên là hai bộ phận không tách rời trong quy
định về địa vị pháp lý của kiểm sát viên cững như việc thực hiện các quy định này
trong thực tiễn. Việc thực hiện quyền cũng đồng thời là việc thực hiện nhiệm vụ của
kiểm sát viên và ngược lại.
Trong thực tiễn chính trị, pháp lý, thuật ngữ “trách nhiệm” thường được hiểu
theo hai nghĩa: Thứ nhất, trách nhiệm là nghĩa vụ, bổn phận của một người trước
người khác, xã hội hoặc Nhà nước và được các quy phạm pháp luật quy định. Thứ
hai, trách nhiệm là hậu quả bất lợi mà một người phải gánh chịu trước người khác,
trước xã hội hoặc Nhà nước do đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ, bổn phận nào đó.
Khoản 2 Điều 37 BLTTHS quy định: “Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật và trước Viện trưởng về những hành vi và quyết định của mình”, như vậy,
“trách nhiệm của kiểm sát viên trong tố tụng hình sự” được hiểu theo nghĩa thứ hai.
Trách nhiệm của kiểm sát viên cũng có sự phân định giữa “trách nhiệm của kiểm sát
viên trước pháp luật” và “trách nhiệm của kiểm sát viên trước Viện trưởng viện
kiểm sát”. “Trách nhiệm của kiểm sát viên là hậu quả bất lợi mà kiểm sát viên phải
gánh chịu theo quy định của pháp luật hoặc trước Viện trưởng về những hành vi vi
phạm của mình khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao”.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của kiểm sát viên.
1.2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của
kiểm sát viên.
Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự có các nhiệm vụ quyền
hạn quy định cụ thể tại Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự. Để phân định nhiệm vụ,
quyền hạn của kiểm sát viên khi thực hiện các chức năng luật quy định cho Viện
kiểm sát, trước hết cần tìm hiểu sơ lược về khái niệm “thực hành quyền công tố” và
“kiểm sát việc tuân theo pháp luật”.
17
Về khái niệm “thực hành quyền công tố”, tác giả đồng ý với quan điểm cho
rằng: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này chỉ thuộc về Nhà nước, được Nhà
nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là Viện kiểm sát) để đại diện cho
Nhà nước bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tập thể, lợi ích của cá nhân trong
một lĩnh vực tố tụng tư pháp duy nhất, lĩnh vực tố tụng hình sự. Để làm được điều
này cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo đảm
việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội.
Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó
trước phiên tòa [11, tr.56]. Còn thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp
các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét
xử. Phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và kết
thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật hoặc vụ án được đình chỉ khi có một trong
những căn cứ do luật TTHS quy định. Nội dung thực hành quyền công tố bao gồm
những biện pháp cụ thể do luật TTHS quy định để VKS thực hiện việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội [18, tr.44].
Về khái niệm “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng” thì
cần phân biệt với khái niệm “kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự”.
Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan, tổ chức
khác góp phần vào việc giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính
xác và đúng pháp luật [16, tr.9-10]. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tố tụng chính là kiểm sát các hoạt động của các chủ thể sau đây:
- Cơ quan tiến hành tố tụng gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án;
- Người tiến hành tố tụng bao gồm những người được bổ nhiệm hoặc bầu
hay cử vào các chức danh tố tụng, có thẩm quyền thực hiện những hoạt động tố
tụng nhất định trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó nhằm góp phần
giải quyết vụ án hình sự;
18
- Người tham gia tố tụng bao gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch…
- Các chủ thể khác mà trong một chừng mực nhất định cũng thực hiện các
hoạt động TTHS: Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
các cơ quan, tổ chức và công dân trong việc thực hiện một số biện pháp ngăn chặn,
thi hành bản án, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng…
Hiện nay quan điểm phổ biến nhất cho rằng: hoạt động tư pháp là các hoạt
động do cơ quan tư pháp thực hiện và một số hạn chế hoạt động do các cơ quan
được giao một số thẩm quyền tư pháp thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước,
được thực hiện trong quá trình tố tụng, được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng, trực
tiếp liên quan tới quá trình giải quyết vụ án. Và do đó, hoạt động tư pháp trong
TTHS là các hoạt động do cơ quan tố tụng thực hiện, mang tính quyền lực nhà
nước, được thực hiện trong quá trình TTHS, được điều chỉnh bằng pháp luật TTHS,
trực tiếp liên quan tới việc giải quyết các vụ án hình sự [24, tr.10].
Nhìn chung, phạm vi và đối tượng của kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTHS rộng hơn, bao trùm phạm vi, đối tượng của kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự, cụ thể như sau [2, tr.21]:
Thứ nhất, hoạt động tư pháp trong TTHS là hoạt động chỉ do các cơ quan tư
pháp và các cơ quan được giao thực hiện một số thẩm quyền tư pháp chịu trách
nhiệm trực tiếp thực hiện. Đây là những hoạt động có tính quyền lực nhà nước.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS không chỉ là kiểm sát các hoạt động
tư pháp trong TTHS mà còn bao gồm cả những hoạt động của các chủ thể khác (cơ
quan, tổ chức không phải là các cơ quan tư pháp, hoạt động của những người tham
gia tố tụng và những hoạt động này không mang tính quyền lực Nhà nước).
Thứ hai, hoạt động tư pháp trong TTHS bao gồm những dạng thực hiện pháp
luật ở mức độ cao: áp dụng pháp luật và sử dụng pháp luật – do các dạng thực hiện
pháp luật này gắn với chức năng, nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng.
Trong khi đó, những hoạt động tuân theo pháp luật trong TTHS bao gồm cả các
19
dạng thực hiện pháp luật ở mức độ thấp, gắn với nghĩa vụ, trách nhiệm của công
dân của những người tham gia tố tụng (tuân thủ pháp luật – kiềm chế không tiến
hành những hoạt động mà pháp luật cấm, chấp hành pháp luật – thực hiện nghĩa vụ
một cách tích cực).
Có thể thấy, các nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên được quy định từ
điểm a đến điểm h khoản 1 Điều 37 BLTTHS thực chất chỉ là cụ thể hóa hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố
tụng đối với vụ án hình sự.
a) Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ
án của Cơ quan điều tra:
* Kiểm sát việc khởi tố vụ án vụ án hình sự
Kiểm sát viên được phân công giải quyết vụ án phải kiểm sát tính có căn cứ
và tính hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án hình sự và quyết định không khởi tố
vụ án hình sự sau khi nhận được các quyết định này cùng hồ sơ, tài liệu có liên
quan.
Về tính có căn cứ, theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành thì Cơ quan
có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi xác định có
dấu hiệu tội phạm. Về tính hợp pháp, quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định
không khởi tố vụ án hình sự phải đảm bảo đúng trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền cơ
quan ra quyết định, người ra quyết định, nội dung và hình thức cũng như những tài
liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc ra quyết định đúng với quy định của pháp luật.
+ Nếu quyết định khởi tố vụ án có căn cứ và hợp pháp thì kiểm sát viên sẽ
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố
tụng đối với vụ án;
+ Nếu quyết định khởi tố vụ án rõ ràng là không có căn cứ thì ra văn bản yêu
cầu cơ quan đã khởi tố ra quyết định huỷ bỏ; nếu cơ quan đã khởi tố không nhất trí thì
báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố vụ án;
+ Nếu tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội đã xảy ra hoặc
còn có tội phạm khác chưa được khởi tố thì kiểm sát viên tiến hành tố tụng trong vụ
20
án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng yêu cầu cơ quan đã khởi tố ra quyết định
thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự. Nếu quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự của cơ quan đã ra quyết định là
không có căn cứ thì kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng yêu cầu cơ
quan đã ra quyết định hủy bỏ hoặc trực tiếp ra quyết định huỷ bỏ quyết định đó;
+ Nếu quyết định không khởi tố vụ án hình sự có căn cứ thì thông báo cho
các cơ quan ra quyết định khởi tố biết; nếu chưa rõ căn cứ thì yêu cầu cơ quan ra
quyết định không khởi tố bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ;
+ Nếu quyết định không khởi tố vụ án hình sự là không có căn cứ thì yêu cầu
cơ quan đã ra quyết định huỷ bỏ quyết định đó và đề nghị người có thẩm quyền ra
quyết định khởi tố vụ án;
+ Nếu quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ thì kiểm sát viên báo cáo
người có thẩm quyền ra quyết định huỷ bỏ quyết định này và ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự; đồng thời, yêu cầu cơ quan đã ra quyết định không khởi tố vụ án
chuyển toàn bộ tài liệu có liên quan cho CQĐT có thẩm quyền tiến hành điều tra.
Đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên
tiến hành tố tụng trong vụ án phải kiểm tra tính có căn cứ của quyết định khởi tố đó.
Nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự có căn cứ thì chuyển quyết định khởi tố vụ án
hình sự kèm theo các tài liệu có liên quan đến CQĐT có thẩm quyền để tiến hành
điều tra. Nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ thì báo cáo lãnh đạo
viện kháng nghị lên Toà án cấp trên.
* Kiểm sát việc khởi tố bị can:
Về nguyên tắc, CQĐT chỉ được ra quyết định khởi tố bị can sau khi đã ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp phạm tội quả tang mà người
phạm tội có đầy đủ các điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự thì ngay sau khi
khởi tố vụ án có thể ra ngay quyết định khởi tố bị can. Kiểm sát viên là người kiểm
sát tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố bị can đó. Tuy vậy, khi
tiến hành kiểm sát việc khởi tố bị can cần chú ý: