Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Bảo vệ quyền của phụ nữ việt nam trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.37 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THỊ KIỀU NGÂN

BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG
QUAN HỆ KẾT HÔN VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ
MÃ SỐ: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
PGS.TS HOÀNG THẾ LIÊN

Hà Nội 2011


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô
Khoa sau đại học, các thầy cô giáo Khoa luật Dân sự - Trường Đại học
Luật Hà Nội đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn chúng tôi trong suốt thời
gian hoc tập.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Bộ Tư pháp, các đồng nghiệp và
các bạn học viên đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi học tập và
hoàn thành Luận văn tốt nghiệp của mình.
Đặc biệt, xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới thầy giáo – Phó giáo sư, Tiến
sỹ Hoàng Thế Liên đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn


nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành luận văn này
Mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng sự nhiệt tình và
năng lực của mình, tuy nhiên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu xót,
tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu của các thầy cô và các bạn.

Học viên

Đỗ Thị Kiều Ngân


BẢNG TỪ VIẾT TẮT

- Luật hôn nhân và gia đình

Luật HN&GĐ

- Nghị định số 68/2002/NĐ-CP

Nghị định số 68/2002/NĐ-CP

ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều
của Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 về quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài
- Nghị định số 69/2006/NĐ-CP
ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định


số 68/2002/NĐ-CP

ngày

10/7/2002 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của
Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 về quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài

Nghị định số 69/2006/NĐ-CP


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ............................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài. ................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài. ............................................ 3
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài .................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài ........................................................... 4
6. Điểm mới của luận văn ......................................................................... 4
7. Bố cục của luận văn .............................................................................. 5
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN PHỤ
NỮ TRONG QUAN HỆ KẾT HÔN VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI ............ 6
1.1. Khái niệm quyền phụ nữ và bảo vệ quyền phụ nữ. ........................ 6
1.1.1. Khái niệm quyền phụ nữ ............................................................... 6
1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền phụ nữ .................................................... 9
1.2. Khái niệm kết hôn có yếu tố nước ngoài và kết hôn với người nước
ngoài. ....................................................................................................... 11
1.2.1. Khái niệm kết hôn có yếu tố nước ngoài. .................................... 11

1.2.2. Khái niệm kết hôn với người nước ngoài. ................................... 13
1.3. Bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài..... 14
1.3.1. Khái niệm bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người
nước ngoài ........................................................................................... 14
1.3.2. Pháp luật quốc tế với vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ
kết hôn với người nước ngoài. .............................................................. 16
1.3.3. Khái quát lịch sử phát triển của pháp luật quy định về vấn đề bảo
vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài ở Việt
Nam. ..................................................................................................... 19
1.3.4. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với
người nước ngoài. ................................................................................ 28
CHƯƠNG 2. BẢO VỆ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG
QUAN HỆ KẾT HÔN VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI HIỆN NAY............ 30


2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền phụ nữ trong
quan hệ kết hôn với người nước ngoài. ................................................. 30
2.1.1. Nội dung bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người
nước ngoài trong pháp luật Việt Nam hiện hành. ................................. 30
2.1.2. Đánh giá các quy định hiện hành về vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ
trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài. ....................................... 36
2.2. Thực tiễn bảo vệ quyền của phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết
hôn với người nước ngoài hiện nay. ...................................................... 38
2.2.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo vệ quyền của phụ nữ Việt
Nam trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài. ............................... 38
2.2.2. Những tồn tại trong việc bảo vệ quyền của phụ nữ Việt Nam trong
quan hệ kết hôn với người nước ngoài. ................................................. 42
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ
VIỆT NAM TRONG QUAN HỆ KẾT HÔN VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

......................................................................................................................... 51
3.1. Yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu lực, hiệu quả điều chỉnh của pháp luật quy định về bảo vệ quyền
phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài. .......................... 51
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề bảo vệ
quyền của phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài. ........ 54
3.2.1 Phải xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, chặt chẽ. .................. 54
3.2.2 Hoàn thiện về mặt thể chế ............................................................ 55
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật quy
định về bảo vệ quyền của phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết hôn với
người nước ngoài. ................................................................................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Có thể nói, những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước cùng với sự
tác động của xu thế toàn cầu hóa đã làm cho các quan hệ kết hôn có yếu tố
nước ngoài ngày càng trở nên phổ biến. Trong thời gian gần đây, số lượng phụ
nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài có xu hướng gia tăng, làm phát sinh
không ít vấn đề, ảnh hưởng không nhỏ tới gia đình và xã hội. Đặc biệt, một bộ
phận phụ nữ Việt Nam sau khi kết hôn với người nước ngoài, đa số là kết hôn
với công dân Đài Loan, Hàn Quốc đã không tìm được hạnh phúc. Họ rơi vào
những hoàn cảnh éo le, bị bóc lột sức lao động, bị gia đình chồng hành hạ,
đánh đập, ngược đãi, bị xâm hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tạo ra sự bất bình và lên án mạnh mẽ trong dư luận xã hội và
cộng đồng quốc tế. Trước thực trạng trên việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ Việt
Nam trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài được đặt ra như một vấn đề
có tính cấp thiết, đòi hỏi cần được quan tâm một cách đúng mức.
Mặt khác, để điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ hôn nhân và gia đình

nói chung, quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng, trong thời gian
qua, Nhà nước ta đã ký kết một số Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý với
nước ngoài, ban hành một loạt các văn bản pháp luật đề cập đến vấn đề bảo
vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài như Bộ luật
Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000, Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật bình đẳng giới năm 2006, Luật
phòng chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật Quốc tịch năm 2008, Nghị định
số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài, Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006
của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐCP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của

1


Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài,vv…. Các văn bản trên đã góp phần tích cực, tạo cơ sở pháp lý
cho các tổ chức, cá nhân, cơ quan có thẩm quyền thực hiện hoạt động hỗ trợ,
bảo vệ phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài. Tuy
nhiên, trải qua quá trình áp dụng, những văn bản pháp luật này đã bộc lộ một
số vướng mắc, hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Trước những yêu cầu trên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về thực
trạng bảo vệ quyền của phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết hôn với người nước
ngoài và pháp luật điều chỉnh vấn đề này đã trở thành vấn đề cấp thiết. Trên cơ
sở những nghiên cứu và đánh giá đó, có thể đề ra phương hướng, giải pháp để
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực này ở
Việt Nam, góp phần bảo vệ quyền phụ nữ nói chung, quyền của phụ nữ Việt
Nam trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Nghiên cứu về bảo vệ quyền phụ nữ là một đề tài lớn, được nhiều nhà

khoa học thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm. Trong khoa học pháp lý, vấn dề này
đã được đề cập ở nhiều công trình nghiên cứu, luận văn, luận án và các tạp chí
pháp lý chuyên ngành như: “Dự án điều tra cơ bản tình hình phụ nữ Việt Nam
kết hôn với người nước ngoài (Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc) từ năm 1995
đến năm 2003” của Bộ Tư pháp năm 2005, Luận văn Thạc sỹ luật học “Bảo vệ
quyền phụ nữ theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000” của tác giả Bùi Thị
Mừng năm 2004; khóa luận tốt nghiệp “Bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em trong
pháp luật lao động” của sinh viên Hồ Hoàng Anh năm 2007; bài viết “Bảo vệ
quyền phụ nữ và trẻ em trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” của
Tiến sĩ Nguyễn Hồng Bắc đăng trên Đặc san Tạp chí Luật học số 3 năm 2004,
bài viết “Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 với việc bảo vệ quyền lợi của
người phụ nữ” của Tiến sĩ Trần Thị Huệ trên Đặc san phụ nữ, Tạp chí Luật học
năm 2004, “Trung tâm hỗ trợ kết hôn - mô hình mới góp phần bảo vệ quyền và

2


lợi ích hợp pháp cho phụ nữ Việt Nam khi kết hôn với người nước ngoài” của
Thạc sĩ Nguyễn Thái Mai đăng trên Đặc san về bình đẳng giới, Tạp chí Luật
học năm 2005,… Mặc dù đã có những nghiên cứu, bài viết ở nhiều cấp độ khác
nhau song trong các công trình nói trên chưa có một công trình nào đề cập một
cách toàn diện và đầy đủ về vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ Việt Nam trong
quan hệ kết hôn với người nước ngoài. Do đó, với đề tài: “Bảo vệ quyền của
phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài”, tôi hi vọng sẽ
đóng góp một cách tiếp cận mới về vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ nói chung, bảo
vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài nói riêng,
mang lại những ý nghĩa nhất định về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
- Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích: Đánh giá một cách tương đối khái
quát, toàn diện về thực trạng bảo vệ quyền của phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết

hôn với người nước ngoài cũng như hệ thống pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực
này, trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền
của phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài hiện nay.
- Nhiệm vụ đặt ra khi nghiên cứu đề tài là:
+ Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ
kết hôn với người nước ngoài;
+ Phân tích một cách có hệ thống các quy định của pháp luật điều chỉnh
vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài;
+ Đánh giá thực trạng bảo vệ quyền của phụ nữ Việt Nam trong quan
hệ kết hôn với người nước ngoài trong thời gian gần đây;
+ Đề xuất những giải pháp cần thiết góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ
quyền của phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Bảo vệ quyền của phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết hôn với người
nước ngoài là một đề tài phức tạp. Trong khuôn khổ luận văn Thạc sĩ, tác giả

3


chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lí luận cơ bản về bảo vệ quyền phụ nữ
trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài; quy định của pháp luật hiện
hành, đặc biệt là quy định của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
và một số văn bản hướng dẫn liên quan về bảo vệ quyền của phụ nữ Việt Nam
trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài.
Vấn đề thực trạng bảo vệ quyền của phụ nữ Việt Nam trong quan hệ
kết hôn với người nước ngoài cũng được xem xét dựa trên thực tế diễn biến
quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam trong thời gian gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác

- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về hôn nhân
và gia đình đồng thời kết hợp với việc sử dụng linh hoạt các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích: Được sử dụng chủ yếu để làm sáng tỏ những
nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu;
- Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng để khái quát hóa nội dung
nghiên cứu một cách hệ thống, làm cho các vấn đề nghiên cứu trở nên súc
tích, dễ hiểu;
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng để so sánh vấn đề bảo vệ quyền
của phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài qua các thời
kỳ lịch sử, giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới;
- Phương pháp thống kê: Được sử dụng để cung cấp một số số liệu liên
quan đến vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ trong thực tiễn áp dụng Luật HN&GĐ.
6. Điểm mới của luận văn
- Tiếp cận một cách khoa học các vấn đề lý luận về bảo vệ quyền phụ
nữ trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Xây dựng được các khái niệm
về quyền phụ nữ, bảo vệ quyền phụ nữ, bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ
kết hôn với người nước ngoài.

4


- Đánh giá một cách khách quan các quy định của pháp luật hiện hành
về bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài và thực
tiễn áp dụng các quy định này.
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những vướng
mắc, hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu bảo vệ quyền của phụ nữ Việt
Nam trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liêu tham khảo, luận
văn có nội dung chính gồm ba chương như sau:

- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền phụ nữ trong quan
hệ kết hôn với người nước ngoài
- Chương 2: Bảo vệ quyền của phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết hôn
với người nước ngoài hiện nay.
- Chương 3: Một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả bảo vệ quyền của phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết hôn với
người nước ngoài.

5


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN PHỤ
NỮ TRONG QUAN HỆ KẾT HÔN VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm quyền phụ nữ và bảo vệ quyền phụ nữ.
1.1.1. Khái niệm quyền phụ nữ
Quyền con người là quyền thiêng liêng của mỗi cá nhân. Đó là các
quyền tất yếu mà con người phải được hưởng và các quốc gia đều phải tôn
trọng. Trong quyền con người, quyền phụ nữ là một trong những nội dung cơ
bản. Bởi vậy, để đưa ra được khái niệm quyền phụ nữ, trước hết cần tiếp cận
và làm sáng tỏ khái niệm quyền con người.
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng khá phổ biến.
Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia
chưa có một định nghĩa chính thức về quyền con người mà chỉ dừng lại ở việc
liệt kê các quyền con người. Chính vì vậy, các nhà nghiên cứu về nhân quyền
và luật học đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau để đưa ra định nghĩa về
quyền con người. Theo một tài liệu thống kê của Liên Hợp quốc, có đến gần
50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố, tuy nhiên chưa một định
nghĩa nào bao hàm được tất cả thuộc tính của quyền con người [51, tr 41].
Được biết đến nhiều nhất là khái niệm quyền con người của Văn phòng

cao ủy Liêp hợp quốc. Theo khái niệm này, “quyền con người là những bảo
đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá
nhân và các nhóm chống lại hành động (action) hoặc sự bỏ mặc (omissions)
mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do
cơ bản (fundamental freedoms) của con người” [51, tr 42]. Ngoài ra, có một
khái niệm khác hay được các nhà nghiên cứu đề cập đến: “…quyền con người
là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng
nhân loại không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội..., đều

6


có ngay từ khi sinh ra…” [51, tr 42]. Định nghĩa này phù hợp với cách hiểu
thông thường về quyền con người.
Ở Việt Nam, một số chuyên gia và cơ quan nghiên cứu cũng đã đưa ra
nhiều cách hiểu về quyền con người: Trung tâm nghiên cứu quyền con người
của Viện nghiên cứu khoa học xã hội đã tiếp cận khái niệm quyền con người
dưới góc độ pháp lý: “Quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên)
của con người được pháp luật công nhận, điều chỉnh, do cá nhân con người
nắm giữ trong mối liên hệ với những cá nhân con người khác” [56, tr 16];
Trong Từ điển luật học do Bộ Tư pháp và Viện khoa học pháp lý phối hợp
biên soạn, quyền con người là “Quyền của thành viên trong xã hội loài người,
quyền của tất cả mọi người, đó là nhân phẩm, nhu cầu lợi ích và năng lực của
con người thể chế hóa trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia” [11, tr
648]; vv… Các định nghĩa trên không hoàn toàn giống nhau nhưng xét chung
lại, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn
có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế [51, tr 42].
Quyền con người luôn có mối liên hệ gần gũi với pháp luật bởi hầu hết
những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được đảm bảo đầy

đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật mà thông qua đó, nghĩa vụ tôn
trọng và thực thi các quyền trở thành những quy tắc xử sự chung, có hiệu lực
bắt buộc và thống nhất với tất cả mọi chủ thể trong xã hội chứ không phải chỉ
tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức [51, tr 53].
Như vậy, nhìn ở góc độ nào, quyền con người cũng được xác định là
những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Đó là
những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong xã hội và mọi giai
đoạn lịch sử. Quyền con người được biết đến với những đặc tính cơ bản sau:
- Tính phổ quát: Thể hiện ở chỗ, quyền con người là quyền bẩm sinh,
vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên

7


trong xã hội, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì. Tuy nhiên, liên
quan đến tính chất này, cần lưu ý là bản chất của sự bình đẳng về quyền con
người không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền mà là bình
đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người [51, tr 47].
- Tính đặc thù: Quyền con người mang những đặc trưng và bản sắc
riêng tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội, truyền thống, văn hóa,
lịch sử ở từng khu vực, từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ.
- Tính giai cấp: C.Mác cho rằng con người vừa là sản phẩm của tự
nhiên, vừa làm sản phẩm của xã hội, vì vậy khi xem xét vấn đề quyền con
người cần phải đặt vào những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Ph.Ăngghen cũng đã
khẳng định quyền con người không phải là tự nhiên mà có, đó là thành quả
của sự phát triển lịch sử, của các cuộc cách mạng xã hội. Với tư cách là chế
định pháp lý, quyền con người gắn liền với Nhà nước và pháp luật – những
hiện tượng mang tính giai cấp sâu sắc.
- Tính không chuyển nhượng (inalienable): Các quyền con người không
thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào kể cả cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền trừ trường hợp đặc biệt (Ví dụ: Người phạm
tội có thể bị tước quyền tự do hoặc quyền sống).
Tùy theo từng hướng tiếp cận, quyền con người được phân thành nhiều
nhóm khác nhau, trong đó, phổ biến là theo hai căn cứ sau:
- Theo chủ thể quyền, quyền con người gồm có quyền cá nhân, quyền
của nhóm người (quyền phụ nữ, quyền trẻ em, quyền của người tàn tật,….) và
quyền quốc gia (quyền của quốc gia, dân tộc thiểu số, quyền phát triển,…)
- Theo nội dung quyền gồm có: Các quyền tự do dân chủ về chính trị
(quyền bình đẳng nam nữ, quyền bầu cử ứng cử, quyền tự do ngôn luận,…), các
quyền dân sự (quyền tự do đi lại, cư trú; quyền bất khả xâm phạm về thân thể;
quyền được an toàn, bí mật về thư tín, điện thoại;…) và các quyền về kinh tế - xã
hội (quyền lao động, quyền học tập, quyền được bảo vệ sức khỏe,…)

8


1.1.1.2. Khái niệm quyền phụ nữ.
Là một nội dung cụ thể của quyền con người, quyền phụ nữ cần phải
được nghiên cứu trong mối quan hệ khăng khít với quyền con người. Do đó,
nếu hiểu theo nghĩa rộng, quyền phụ nữ là khái niệm dùng để chỉ quyền con
người của phụ nữ. Đó là những quyền tất yếu, không bị tước bỏ bởi bất cứ ai,
bất cứ chính thể nào.
Là quyền con người cụ thể, quyền phụ nữ cũng hàm chứa những đặc
tính cơ bản của quyền con người đó là tính phổ quát, tính đặc thù và tính giai
cấp. Tuy nhiên, người phụ nữ với những đặc điểm gắn liền với giới tính tự
nhiên thì ngoài quyền con người nói chung, họ còn có những quyền gắn liền
với thiên chức của mình như quyền làm mẹ, quyền được bảo vệ với tư cách là
nhóm người dễ bị tổn thương. Tiếp cận theo hướng này (nghĩa hẹp), quyền
phụ nữ còn có thể hiểu là những quyền tất yếu, gắn liền với đặc điểm giới tính
tự nhiên mà người phụ nữ phải được hưởng.

Dưới góc độ pháp lý, quyền phụ nữ còn được hiểu là “tập hợp những
khả năng pháp luật mỗi quốc gia công nhận cho người phụ nữ được hưởng,
được làm và được đòi hỏi” [25].
1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền phụ nữ
Chiếm hơn một nửa trong xã hội nhưng phụ nữ lại là nhóm đối tượng
dễ bị tổn thương và chịu nhiều thiệt thòi. Theo thống kê của Liên hợp quốc,
phụ nữ chiếm đa số trong những người nghèo khổ của thế giới, trong tình
trạng đó, phụ nữ luôn là người bị thiệt thòi nhiều nhất về ăn uống, sức khỏe,
giáo dục, đào tạo, cơ hội có việc làm và những nhu cầu khác [36, tr 55];
quyền được sống, tự do và an ninh cá nhân, kể cả quyền sống mạnh khỏe của
người phụ nữ cũng thường xuyên bị vi phạm dưới nhiều hình thức khác nhau
[53, tr 572]. Bởi vậy song song với việc ghi nhận quyền phụ nữ, vấn đề bảo
vệ quyền phụ nữ cũng là một nội dung cần được tiếp cận và làm rõ.

9


Trong khoa học pháp lý, khái niệm bảo vệ quyền phụ nữ chưa được
làm sáng tỏ một cách cụ thể mà được tiếp cận chủ yếu ở những cách thức và
phương pháp bảo vệ nhất định. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để làm rõ về
khái niệm này.
Theo từ điển tiếng Việt, bảo vệ là sự chống lại mọi sự xâm phạm. Bởi
vậy, nếu theo cách cắt nghĩa từ ngữ nói trên, có thể hiểu bảo vệ quyền phụ nữ
là hành vi của một chủ thể nhất định nhằm chống lại mọi sự xâm phạm đến
các quyền con người của phụ nữ được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận.
Từ cách hiểu trên có thể nhận biết được một số đặc điểm về bảo vệ
quyền phụ nữ:
- Thứ nhất: Chủ thể bảo vệ quyền phụ nữ.
Quyền phụ nữ xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, đó là thành
quả của sự phát triển lịch sử, của cuộc cách mạng đấu tranh giải phóng phụ nữ,

chống lại sự phân biệt đối xử, đòi bình đẳng nam nữ trên toàn thế giới. Bởi vậy,
khi xã hội ý thức được quyền phụ nữ cũng là lúc vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ
được đặt ra. Bảo vệ quyền phụ nữ là một hành động khách quan, có thể do một
cá nhân, một tổ chức, một quốc gia thực hiện. Tuy nhiên, trên bình diện quốc tế,
bảo vệ quyền phụ nữ không phải là hành động mang tính riêng lẻ của một chủ
thể nhất định mà đòi hỏi trách nhiệm của cả cộng đồng.
- Thứ hai: Khách thể bảo vệ quyền phụ nữ.
Khách thể bảo vệ quyền phụ nữ chính là các quyền con người của phụ
nữ được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế và quốc gia. Vấn đề này
đã được trình bày ở các phần trên.
- Thứ ba: Hành động bảo vệ quyền phụ nữ.
Hành động bảo vệ quyền phụ nữ là những cách thức được sử dụng để
chống lại các hành vi xâm phạm tới quyền phụ nữ. Đối với một cá nhân,
thông thường, có hai cách thức bảo vệ quyền phổ biến là: Tự mình bảo vệ và
yêu cầu sự bảo vệ của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Mỗi chủ thể khác

10


nhau sẽ lựa chọn những cách thức bảo vệ quyền phụ nữ khác nhau (Ví dụ:
Bản thân người phụ nữ có thể bảo vệ quyền của mình bằng cách sử dụng cả
hai biện pháp trên). Tuy nhiên, với những chủ thể đặc biệt như cộng đồng
quốc tế hay một quốc gia, việc lựa chọn những cách thức phù hợp để bảo vệ
quyền phụ nữ có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, đảm bảo cho hành vi bảo
vệ đạt được hiệu quả. Pháp luật chính là phương thức mang lại hiệu quả cao
trong việc bảo vệ quyền con người nói chung, quyền phụ nữ nói riêng. Bảo vệ
quyền phụ nữ bằng pháp luật được hiểu là sự ghi nhận các quyền con người
của phụ nữ vào các quy phạm pháp luật, đồng thời đảm bảo cho quyền đó
được thực hiện trên thực tế bằng các chế tài nhất định [37, tr 7]. Pháp luật
được bảo đảm thực thi bằng quyền lực nhà nước nên bảo vệ quyền phụ nữ

bằng pháp luật hiện nay là cách thức hiệu quả nhất được sử dụng rộng rãi trên
toàn thế giới.
1.2. Khái niệm kết hôn có yếu tố nước ngoài và kết hôn với người
nước ngoài.
1.2.1. Khái niệm kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Gia đình giữ vai trò hết sức quan trọng, là tế bào của xã hội. Khởi
nguồn để hình thành nên một gia đình thực sự là việc xác lập quan hệ hôn
nhân giữa hai người nam và nữ. Việc nam, nữ tạo lập gia đình là sự kiện pháp
lý làm phát sinh quan hệ vợ chồng, sự kiện này được gọi là kết hôn.
Theo Từ điển giải thích luật học: “Kết hôn là việc nam và nữ chính
thức lấy nhau làm vợ chồng theo quy định của pháp luật”. Tại khoản 2 Điều 8
Luật HN&GĐ năm 2000 cũng đưa ra khái niệm: “Kết hôn là việc nam, nữ
xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và
đăng ký kết hôn”. Như vậy, trước hết, kết hôn là quyền gắn liền với nhân thân
của mỗi bên cá nhân. Quyền kết hôn xuất phát từ tình cảm yêu thương giữa
nam và nữ - yếu tố tâm lý tự nhiên của con người. Bởi vậy, đó là quyền tự do
của mỗi cá nhân, được pháp luật tôn trọng và bảo vệ.

11


Kết hôn có yếu tố nước ngoài là một trong những trường hợp của quan
hệ kết hôn. Pháp luật Việt Nam hiện hành chưa có quy định cụ thể về khái
niệm kết hôn có yếu tố nước ngoài mà chỉ ghi nhận khái niệm quan hệ pháp
luật có yếu tố nước ngoài nói chung.
Tại khoản 14 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000 ghi nhận:
“Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn
nhân và gia đình:
a) Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;
b) Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam;

c) Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến
quan hệ đó ở nước ngoài”.
Theo cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Việt Nam” - Tập III,
“…quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được hiểu là các quan hệ dân sự có
người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia hoặc căn cứ để xác lập,
thay đổi, chấm dứt quan hệ đó phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan
đến quan hệ đó ở nước ngoài” [12,tr 368].
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 Điều 100 Luật HN&GĐ năm 2000,
các quy định tại Chương XI - Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân
Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài.
Theo đó, có thể hiểu: Kết hôn có yếu tố nước ngoài là việc nam, nữ xác
lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và
đăng ký kết hôn; trong đó có ít nhất một bên chủ thể là người nước ngoài hoặc
người Việt Nam định cư ở nước ngoài; hoặc việc kết hôn được xác lập ở nước
ngoài và theo pháp luật nước ngoài.

12


Như vậy cũng như kết hôn nói chung, kết hôn có yêu tố nước ngoài là
quyền nhân thân cơ bản của cá nhân nam và nữ, là sự kiện pháp lý làm phát
sinh quan hệ vợ chồng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các trường hợp kết hôn có yếu
tố nước ngoài bao gồm:
+ Kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài;
+ Kết hôn giữa người nước ngoài với nhau mà một trong các bên
thường trú tại Việt Nam;
+ Kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai

bên định cư ở nước ngoài;
+ Kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau mà sự kiện kết hôn được
tiến hành ở nước ngoài theo pháp luật nước ngoài.
1.2.2. Khái niệm kết hôn với người nước ngoài.
Kết hôn với người nước ngoài là một trường hợp cụ thể của kết hôn có
yếu tố nước ngoài. Tương ứng với bốn trường hợp kết hôn có yếu tố nước
ngoài được liệt kê ở mục trên, kết hôn có yếu tố nước ngoài là một cách gọi
khác của trường hợp thứ nhất: Kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008:
“Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam là công dân nước ngoài và người
không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam”, có thể hiểu người nước
ngoài là người không quốc tịch hoặc người có quốc tịch của một nước khác
không phải là Việt Nam. “Quốc tịch nước ngoài là quốc tịch của một nước
khác không phải là quốc tịch Việt Nam” (khoản 1 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt
Nam năm 2008). “Người không quốc tịch là người không có quốc tịch Việt
Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài” (khoản 2 Điều 3 Luật Quốc
tịch Việt Nam năm 2008).

13


Như vậy, kết hôn với người nước ngoài là việc nam hoặc nữ công dân
Việt Nam xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện
kết hôn và đăng ký kết hôn với người không quốc tịch hoặc người có quốc
tịch của một nước khác không phải là Việt Nam.
1.3. Bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài
1.3.1. Khái niệm bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với
người nước ngoài
Như đã khẳng định ở phần trước, quyền con người nói chung, quyền

phụ nữ nói riêng khi xem xét ở mỗi lĩnh vực, mỗi khía cạnh khác nhau lại
hàm chứa những nội dung riêng. Quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và
gia đình cũng vậy. Có thể hiểu quyền phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân và gia
đình là những quyền được pháp luật quốc tế và quốc gia ghi nhận cho người
phụ nữ khi họ tham gia vào các quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng
(quan hệ gia đình). Quyền phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình chính
là một bộ phận cấu thành cơ bản trong nhóm quyền con người về dân sự.
Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, quyền phụ nữ được ghi nhận gồm các
quyền như: quyền kết hôn và ly hôn, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng,
quyền làm mẹ, quyền nhân thân, quyền tài sản,vv….
Trong tất cả các quyền về hôn nhân và gia đình của con người, kết hôn
là quyền năng gắn liền với nhân thân của mỗi bên nam, nữ. Quyền kết hôn
xuất phát từ tình cảm tự nhiên của con người, được pháp luật tôn trọng và bảo
vệ: “Nam, nữ có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình có quyền tự do kết hôn” (Điều 39 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005).
Kết hôn có yếu tố nước ngoài là một trường hợp cụ thể của kết hôn.
Cũng như quan hệ kết hôn trong nước, kết hôn có yếu tố nước ngoài thể hiện
quyền tự do lựa chọn người bạn đời không phụ thuộc vào quốc tịch của các
bên. Tuy nhiên, là quan hệ có yếu tố nước ngoài nên kết hôn có yếu tố nước
ngoài không chỉ được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật trong nước mà còn

14


chịu sự tác động của hệ thống pháp luật của các quốc gia khác có liên quan,
các Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế về kết hôn. Do đó, hiện tượng xung
đột pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là hiện tượng
phổ biến, việc các quốc gia bảo hộ công dân của mình trong quan hệ này cũng
trở nên khó khăn hơn. Với tư cách là nhóm xã hội đặc biệt dễ bị tổn thương,
bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài là

khách quan và cần thiết.
Dựa vào những khái niệm đã được phân tích tại các mục trên, có thể
hiểu, bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài là việc
chống lại các hành vi làm tổn hại tới các quyền và lợi ích hợp pháp của người
phụ nữ khi họ xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp với người đàn ông có quốc
tịch khác quốc tịch của mình.
Cũng giống như việc bảo vệ quyền phụ nữ, bảo vệ quyền phụ nữ trong
quan hệ kết hôn với người nước ngoài nhất thiết phải do những chủ thể nhất
định thực hiện bằng những cách thức xác định khi có sự xâm hại tới quyền
của người phụ nữ. Tuy nhiên, do liên quan tới yếu tố nước ngoài nên việc bảo
vệ quyền phụ nữ trong trường hợp này cũng có những đặc trưng riêng:
- Thứ nhất: Về chủ thể bảo vệ.
Nếu như đối với bảo vệ quyền phụ nữ, vai trò của cộng đồng, của xã
hội giữ một vị trí quan trọng thì với bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết
hôn với người nước ngoài, vai trò của quốc gia lại giữ vị trí quyết định. Điều
này xuất phát từ đặc điểm cơ bản của quan hệ kết hôn với người nước ngoài.
Là quan hệ hôn nhân giữa công dân của hai quốc gia khác nhau vì thế đứng
trên lập trường của pháp luật quốc tế về vấn đề bảo hộ công dân, đây là trách
nhiệm của riêng quốc gia mà cụ thể hơn nữa là trách nhiệm của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của quốc gia đó.
- Thứ hai: Về cách thức và công cụ bảo vệ.

15


Trong bảo vệ quyền phụ nữ nói chung, pháp luật quốc gia và quốc tế là
công cụ chủ yếu hỗ trợ việc chống lại các hành vi xâm phạm quyền. Tuy
nhiên riêng với bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước
ngoài, bên cạnh pháp luật, các biện pháp có tính chất ngoại giao như đàm
phán, thoả thuận có vai trò quan trọng hơn cả.

Yếu tố chủ quyền quốc gia không cho phép pháp luật của quốc gia này
được tùy tiện áp dụng trên lãnh thổ của các quốc gia khác. Mặt khác, pháp
luật quốc tế mặc dù là những quy phạm áp dụng chung trên toàn thế giới
nhưng việc thực thi nó trên lãnh thổ một quốc gia nhất định lại hoàn toàn phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của quốc gia đó. Bởi vậy, pháp luật không phải là
công cụ chủ yếu để bảo vệ quyền công dân trong các mối quan hệ có tính
quốc tế mà là công cụ hỗ trợ chính cho các biện pháp ngoại giao.
1.3.2. Pháp luật quốc tế với vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ trong quan
hệ kết hôn với người nước ngoài.
Nhận thức của con người về vai trò của người phụ nữ đã xuất hiện từ
rất sớm nhưng vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ chỉ thực sự được coi như một
trách nhiệm, một yêu cầu cấp thiết khi Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền ra
đời (1948). Tuyên ngôn đã nhấn mạnh: “Bà mẹ và trẻ em được đảm bảo chăm
sóc và giúp đỡ đặc biệt” (khoản 2 Điều 25). Đây là sự thừa nhận của xã hội
đối với chức năng làm mẹ của người phụ nữ, với chức năng này, người mẹ
được coi là chủ thể đặc biệt của xã hội, họ có quyền được ưu tiên chăm sóc,
giúp đỡ, bảo vệ. Sau Tuyên ngôn nhân quyền, sự quan tâm của nhân loại đối
với người phụ nữ và việc bảo vệ quyền lợi của họ đã được thể hiện ngày càng
rõ hơn [2, tr 13]. Hiện nay, vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ nói chung, bảo vệ
quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài nói riêng đã được
công nhận rộng rãi trên toàn thế giới. Tôn trọng, bảo vệ quyền phụ nữ đã thực
sự là tiêu chí để đánh giá tiến bộ xã hội. Trên thực tế, Liên hợp quốc và cộng
đồng quốc tế đã ban hành, ký kết và tham gia nhiều văn bản pháp lý công

16


nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền phụ nữ như Hiến
chương Liên hợp quốc (1945), Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948),
Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ (1952), Công ước về quốc tịch

của người phụ nữ lấy chồng (1957), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế,
xã hội và văn hóa (1966), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt, đối
xử đối với phụ nữ (1979),…. Đối với bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết
hôn với người nước ngoài, Công ước về quốc tịch của người phụ nữ lấy
chồng năm 1957 là Công ước quốc tế đầu tiên trực tiếp đề cấp tới quyền quốc
tịch của người phụ nữ khi lấy chồng là người nước ngoài. Điều 1 của Công
ước này quy định: “Mỗi nước ký kết thỏa thuận rằng không vì việc kết hôn, li
hôn giữa công dân và người nước ngoài, không vì việc thay đổi quốc tịch của
người chồng trong thời gian hôn nhân mà có thể đương nhiên có hiệu lực với
quốc tịch của người vợ…”. Quốc tịch là yếu tố ảnh hưởng đến địa vị pháp lý
của công dân, là cơ sở để các quốc gia thực hiện trách nhiệm bảo hộ đối với
công dân của mình. Quy định việc thay đổi quốc tịch của người chồng không
làm ảnh hưởng đến quốc tịch của người vợ có một ý nghĩa quan trọng, tạo cơ
sở về mặt pháp lý cho việc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong các quan
hệ kết hôn với người nước ngoài.
Trong số các văn kiện pháp lý về quyền con người, có thể khẳng định,
CEDAW là văn bản quan trọng nhất do Liên hợp quốc thông qua đề cập một
cách toàn diện, cụ thể các quyền con người cơ bản của người phụ nữ; là văn
bản pháp lý thể hiện sự đồng tâm của cộng đồng thế giới trong việc bảo vệ
quyền phụ nữ nói chung, quyền của người phụ nữ trong quan hệ kết hôn với
người nước ngoài nói riêng. Điều này đem lại sức mạnh pháp lý quốc tế cũng
như sự phổ cập rộng rãi của Công ước trong đời sống quốc tế. Theo Ủy ban
CEDAW, cho tới nay đã có 186 quốc gia trên thế giới phê chuẩn hoặc ký kết
Công ước, chiếm hơn 90% thành viên của Liên hợp quốc [52]. “Với cơ cấu
gồm Lời nói đầu, 6 phần và 30 điều khoản, Công ước đã điều chỉnh các

17


quyền của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và

quan trọng hơn là quyền bình đẳng của phụ nữ nhằm chống lại sự phân biệt
đối xử trong các lĩnh vực nói trên” [1, tr 5]. Tinh thần của Công ước được
xây dựng trên cơ sở các mục tiêu của Liên hợp quốc nhằm bảo đảm nhân
cách, phẩm giá và các quyền cơ bản của con người cũng như quyền bình đẳng
giữa phụ nữ và nam giới. Công ước không chỉ giải thích rõ ý nghĩa của bình
đẳng mà còn chỉ ra phương thức giành quyền bình đẳng đó. Mặc dù không
trực tiếp điều chỉnh vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với
người nước ngoài nhưng một số quy định của Công ước đã gián tiếp thể hiện
nội dung này như Điều 9 của Công ước là sự tổng hợp khái quát nội dung tại
Công ước về Quốc tịch của phụ nữ đã kết hôn năm 1957, góp phần nâng cao
địa vị xã hội của phụ nữ trong vấn đề quốc tịch: “Các nước tham gia Công
ước phải đảm bảo cho phụ nữ được quyền bình đẳng với nam giới trong việc
nhập, thay đổi hay giữ nguyên quốc tịch của mình. Các nước phải đặc biệt
đảm bảo rằng việc kết hôn với người nước ngoài, hay sự thay đổi quốc tịch
của người chồng trong thời gian hôn nhân sẽ không mặc nhiên làm thay đổi
quốc tịch của người vợ, làm cho người vợ trở thành người không có quốc tịch
hay ép buộc người vợ phải lấy quốc tịch của chồng” (khoản 1); Điều 16, đề
cập tới quan hệ hôn nhân và gia đình, khẳng định quyền bình đẳng và nghĩa
vụ của phụ nữ và nam giới trong việc lựa chọn bạn đời, làm cha mẹ, quyền
nhân thân và làm chủ mọi tài sản của mình;…
Là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia và phê
chuẩn Công ước CEDAW, cho đến nay, trải qua hơn 30 năm phát triển, với
vai trò là thành viên của Công ước, Việt Nam đã tích cực nội luật hóa các quy
định của CEDAW vào hệ thống pháp luật, ban hành nhiều văn bản quy phạm
pháp luật với nội dung bảo vệ quyền phụ nữ như: Bộ luật Dân sự năm 1995,
2005; Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật phòng chống bạo lực gia
đình năm 2007, Luật bình đẳng giới năm 2008, …

18



Như vậy, mặc dù chưa có nhiều quy định về bảo vệ quyền phụ nữ trong
quan hệ kết hôn với người nước ngoài nhưng các văn bản pháp luật quốc tế
nói trên đã tạo tiền đề để các quốc gia có cơ sở, nội luật hóa những quy định
trên vào hệ thống pháp luật quốc gia, góp phần bảo vệ cụ thể hơn quyền phụ
nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài.

1.3.3. Khái quát lịch sử phát triển của pháp luật quy định về vấn đề bảo
vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài ở Việt Nam.
Như đã khẳng định, quyền con người là một hiện tượng xã hội, lịch sử.
Quá trình hình thành, phát triển của nó gắn liền với sự phát triển của lịch sử
loài người. Với tư cách là một nội dung cơ bản của quyền con người, quyền
phụ nữ cũng có tính chất nói trên. Vì vậy ở mỗi chế độ xã hội khác nhau,
quyền phụ nữ và vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ được đề cập ở những cấp độ
khác nhau. Lịch sử phát triển các quy định về bảo vệ quyền phụ nữ nói chung,
bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài nói riêng
chính là lịch sử phát triển của các nguyên tắc, các quy phạm về quyền phụ nữ
và bảo vệ quyền phụ nữ trong lĩnh vực này.
Ở Việt Nam, vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ kết hôn với
người nước ngoài đã được pháp luật từng thời kỳ quan tâm và đề cập đến:
1.3.3.1 Giai đoạn trước năm 1945:
Dưới chế độ phong kiến, quyền con người về hôn nhân và gia đình
được xác định theo giáo lý Nho giáo. Những quy định luật pháp mà Nhà vua
đặt ra cũng được xây dựng trên quan điểm Nho giáo, hôn nhân không có sự tự
do và hầu như không xuất phát từ tình yêu. Vai trò, quyền lực của người đàn
ông trong gia đình là tuyệt đối. Điểm qua bốn bộ luật cổ tiêu biểu nhất trong
lịch sử phong kiến Việt Nam ban hành từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX (Bộ Hình
thư (Thời Lý), Bộ Quốc triều hình luật (Thời Trần), Bộ Quốc triều hình luật –
Bộ luật Hồng Đức (Thời Lê), Bộ Hoàng Việt luật lệ - Bộ luật Gia Long (Thời
Nguyễn) đều có thể nhận thấy địa vị thấp kém của người phụ nữ. Tuy nhiên, ở


19


một mức độ nào đó, nhân phẩm của họ vẫn được các bộ luật cổ đề cao và tôn
trong. Trong bốn bộ luật nói trên, Quốc triều hình luật thời Lê được coi là
đỉnh cao về lập pháp và tính nhân văn không chỉ bởi đó là tập hợp tất cả các
điều luật, văn bản pháp luật đã ban bố và thi hành trong các đời vua trước,
được sửa đổi, bổ sung và san định lại cho hoàn chỉnh mà còn chứa đựng
những quan điểm tiến bộ về sự bình đẳng, bảo vệ cho những tầng lớp thấp
hèn trong xã hội. Đặc biệt, nó chứa đựng rất nhiều điều luật bênh vực và bảo
vệ quyền lợi cho người phụ nữ mà chưa một chế độ phong kiến nào dám nghĩ
đến như quy định về quyền được ly hôn của người phụ nữ (“Nếu con rể lấy
chuyện phi lý mà mắng nhiếc cha, mẹ vợ, đem việc thưa quan sẽ cho ly dị…”
(Điều 333 – Bộ luật Hồng Đức), về quyền hưởng tài sản khi ly hôn, quyền
thừa kế, quyền bất khả xâm phạm về thân thể,…. Đối với vấn đề bảo vệ
quyền của phụ nữ trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài, pháp luật thời
kỳ này lại chưa đề cập tới do trong xã hội phong kiến, các quan hệ hôn nhân
và gia đình hầu như chỉ giới hạn ở phạm vi trong nước, thậm chí là trong làng,
xã, ít xuất hiện các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài nên việc điều
chỉnh cụ thể các nội dung trong quan hệ pháp luật này hoàn toàn chưa được
các nhà lập pháp phong kiến dự liệu đến.
Dưới chế độ thực dân, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến
do thực dân Pháp đô hộ. Cùng với việc duy trì quan hệ sản xuất phong kiến,
Thực dân Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến còn lợi dụng chế độ hôn nhân
và gia đình phong kiến đã tồn tại từ nhiều thế kỷ ở Việt Nam để củng cố nền
thống trị của chúng. Quan hệ hôn nhân thời kỳ này được điều chỉnh bởi các
quy phạm trong một số bộ luật dân sự được áp dụng cho từng khu vực ở Việt
Nam như Bộ dân luật Bắc kỳ năm 1931, Bộ dân luật Trung kì năm 1936, Bộ
dân luật giản yếu năm 1883. Ba bộ luật này được ban hành dựa trên Bộ dân

luật Công hòa Pháp năm 1804 kết hợp với việc lợi dụng hệ thống pháp luật và
những tập tục phong kiến lạc hậu ở Việt Nam. Dù khác nhau ở những điều

20


×