BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ LY
CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - CƠ QUAN
CHUYÊN MÔN TRONG BỘ MÁY HÀNH CHÍNH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÀNH CHÍNH
MÃ SỐ: 60 38 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG QUỐC HỒNG
HÀ NỘI 2011
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời chân thành cảm ơn tới toàn thể gia đình, bạn bè, đồng nghiêp
và các thầy cô giáo đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình học tập, nghiên cứu
để hoàn thành Luận văn này.
Đặc biệt, Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Hoàng Quốc Hồng người trực
tiếp hướng dẫn, tận tình, chỉ bảo giúp đỡ trong suốt quá trình nghiên cứu.
HỌC VIÊN
Nguyễn Thị Ly
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong Luận văn là trung thực.
Tác giả
Nguyễn Thị Ly
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CHXHCN:
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa.
CHXHCNVN:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
UBND:
Ủy ban nhân dân.
THA:
Thi hành án.
THADS:
Thi hành án dân sự.
MỤC LỤC
NỘI DUNG
PHẦN MỞ ĐẦU
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của cơ
TRANG
1
9
quan thi hành án dân sự ở nước ta hiện nay.
1.1.
Vị trí, vai trò của cơ quan thi hành án dân sự trong bộ
9
máy hành chính ở nước ta hiện nay.
1.1.1.
Vị trí của cơ quan thi hành án dân sự.
9
1.1.2.
Vai trò của cơ quan thi hành án dân sự trong bộ máy hành
13
chính.
1.2.
Thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự.
16
1.3.
Nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi
18
hành án dân sự.
1.3.1.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong tổ chức và hoạt động của
19
cơ quan thi hành án dân sự.
1.3.2.
Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia vào hoạt động của
21
cơ quan thi hành án dân sự.
1.3.3.
Nguyên tắc tập trung dân chủ.
22
1.3.4.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
25
1.3.5.
Nguyên tắc đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của
26
Tòa án
1.3.6.
Nguyên tắc chỉ có cơ quan thi hành án dân sự và Chấp
26
hành viên là có thẩm quyền thi hành án dân sự.
1.3.7.
Nguyên tắc kết hợp vai trò chuyên trách, chủ động của cơ
quan thi hành án, Chấp hành viên với sự tổ chức, chỉ đạo
của chính quyền địa phương và sự phối hợp của cơ quan,
tổ chức hữu quan.
27
1.4.
Tổ chức, hoạt động cơ quan thi hành án dân sự một số
28
nước trên thế giới, kinh nghiệm và thực tiễn.
1.4.1.
Cộng hòa Liên Bang Đức
28
1.4.2.
Cộng hòa Pháp.
31
1.4.3.
Nhật Bản.
32
Chương 2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi
35
hành án dân sự ở nước ta hiện nay.
2.1.
Quá trình hình thành và phát triển của cơ quan thi
35
hành án dân sự ở nước ta.
2.1.1.
Giai đoạn từ tháng tám 1945 đến 1989.
36
2.1.2.
Giai đoạn từ 1990 đến 1993.
40
2.1.3.
Giai đoạn từ 1993 đến 2011.
43
2.2.
Thực trạng về tổ chức, hoạt động của cơ quan thi hành án
44
dân sự hiện nay.
2.2.1
Thực trạng về tổ chức của cơ quan thi hành án dân sự.
44
2.2.2.
Thực trạng về hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
50
hiện nay.
2.3.
Những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại về tổ
58
chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự hiện
nay.
2.3.1.
Những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại về tổ
58
chức.
2.3.2.
Những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại về hoạt
61
động của cơ quan thi hành án dân sự.
Chương 3. Những nội dung cơ bản về đổi mới tổ chức và hoạt
66
động của cơ quan thi hành án dân sự ở nước ta hiện
nay.
3.1.
Sự cần thiết của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của
cơ quan thi hành án dân sự ở nước ta hiện nay.
66
3.1.1.
Đổi mới tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự
66
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng Nhà
nước pháp quyền nước ta hiện nay.
3.1.2.
Đổi mới tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự
66
góp phần tháo gỡ những khó khăn, thách thức của ngành
hiện nay.
3.1.3.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân
68
sự góp phần hoàn thành nhiệm vụ của ngành.
3.2.
Một số kiến nghị nhằm kiện toàn tổ chức và nâng cao
70
hiệu quả hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
đáp ứng yêu cầu xây dựng đổi mới đất nước.
3.2.1.
Trong việc hoàn thiện pháp luật.
70
3.2.2.
Về tổ chức bộ máy.
71
3.2.3.
Về tổ chức cán bộ.
72
3.2.4.
Xây dựng cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ và các điều kiện
74
cho đội ngũ công chức thi hành án công tác thuận lợi.
PHẦN KẾT LUẬN
76
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI(1986) đã khẳng định: “Đổi mới đất nước
ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống
còn”. Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đưa đất nước ta
sang một giai đoạn phát triển mới, từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa, đã và đang đặt ra yêu cầu bức thiết tiếp tục cải cách bộ
máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam, đó là nhà
nước mà trong đó vai trò pháp chế được đề cao, pháp luật được tôn trọng và bảo
đảm thực hiện. Ở đây, yêu cầu bức xúc hàng đầu là phải tạo ra và duy trì ý thức coi
trọng pháp luật trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước.
Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án là một
yêu cầu tất yếu khách quan, là nguyên tắc Hiến định chỉ đạo toàn bộ tổ chức và hoạt
động thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng. Điều 136 Hiến pháp
1992(được sửa đổi bổ sung năm 2001) khẳng định: “Các bản án, quyết định của
Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người
và đơn vị vũ trang phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Thông qua hoạt động thi hành án
dân sự, những phán quyết của toà án nhân danh quyền lực nhà nước được thực hiện
trong thực tế, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và tập thể được bảo vệ, trật tự
kỷ cương xã hội được bảo đảm, công lý xã hội được thực hiện.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự từng bước được củng cố tăng cường, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ được
giao. Hiện nay công cuộc đổi mới đất nước diễn ra sâu rộng trên mọi lĩnh vực của
2
đời sống xã hội và đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, giao lưu hợp tác
ngày càng phát triển, sinh hoạt đời sống của cá nhân, cộng đồng ngày càng đa dạng
và phong phú. Công tác thi hành án dân sự mặc dù hiện nay đã có luật quy định,
nhưng vẫn còn những hạn chế bất cập về cơ chế tổ chức và hoạt động trước yêu cầu
của thực tiễn. Sự yếu kém trong công tác thi hành án dân sự dẫn đến án tồn đọng
kéo dài ngày càng nhiều, ảnh hưởng đến trật tự kỷ cương xã hội, giảm sút lòng tin
của nhân dân vào pháp luật, công bằng và công lý xã hội.Việc đổi mới tổ chức, nâng
cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự là một yêu cầu khách quan, là một mắt
xích quan trọng của cải cách tư pháp nói riêng và cải cách bộ máy nhà nước nói
chung.
Xác định đúng vai trò và ý nghĩa của hoạt động thi hành án, trước tình hình hoạt
động thi hành án kém hiệu quả, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá XI đã quyết định
chuyển giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ
quan của Chính phủ. Thực hiện Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật về tổ chức bộ
máy nhà nước được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá IX
tháng 10 năm 1992, ngày 21/4/1993 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp
lệnh thi hành án dân sự thay thế cho Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989. Sự
kiện pháp lý quan trọng này đã đánh dấu một bước ngoặt căn bản trong tổ chức và
hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam. Từ sau khi Pháp lệnh thi hành án dân sự
năm 1993, hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về công tác thi hành án, các cơ
quan Thi hành án dân sự từ trung ương đến địa phương nhanh chóng được hình
thành. Trong những năm qua công tác thi hành án dân sự đã đi vào nề nếp tạo bước
chuyển biến quan trọng trong tổ chức và hoạt động, kết quả đạt được đã khẳng định
sự đổi mới đúng hướng của công tác thi hành án dân sự trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, thi hành án trước đây cũng như hiện nay là vấn đề hết sức phức tạp,
sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay đã và đang đặt ra những nhiệm vụ
mới nặng nề đối với công tác thi hành án dân sự nói riêng và công tác thi hành án
nói chung. Do vậy, việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động công tác thi hành án
3
là yêu cầu cấp thiết, Nghị quyết hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành trung ương
Đảng khoá VII đã chỉ rõ: “Sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật thi hành án theo
hướng tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ tư pháp.
Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án để bảo đảm tốt hội nghị xét xử.”
Dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng, yêu cầu của công cuộc đổi mới đất
nước, thực trạng về tổ chức, hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự hiện nay.
Hơn nữa, hiện nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu toàn diện về tổ chức và hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự kể từ khi Luật thi hành án dân sự được ban
hành với vai trò là cơ quan chuyên môn trong bộ máy hành chính, chỉ có một số đề
tài nghiên cứu có liên quan, nhưng đều nghiên cứu trên cơ sở của Pháp lệnh thi
hành án dân sự cũ. Tất cả những lý do trên, tác giải chọn đề tài “Cơ quan thi hành
án dân sự- Cơ quan chuyên môn trong bộ máy hành chính Nhà nước”, là một yêu
cầu cấp thiết nhằm xây dựng cơ quan thi hành án dân sự ngày càng vững mạnh,
hoạt động hiệu quả, đáp ứng yêu cầu giai đoạn mới trong việc bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân.
2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và
thực tiễn về tổ chức hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, mục đích của luận
văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và những nội dung nhằm đổi mới tổ chức và hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự giai đoạn hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu của
đất nước trong giai đoạn đổi mới.
Thi hành án dân sự là hoạt động không chỉ mang tính chất chuyên môn thuần
tuý, mà còn mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc. Việc nghiên cứu toàn diện về cơ
quan thi hành án dân sự là vấn đề rộng lớn, phức tạp không chỉ liên quan đến khoa
học pháp lý mà còn liên quan đến các lĩnh vực khoa học xã hội khác.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài cao học Luật, trên cơ sở nghiên cứư quy
định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của của cơ quan thi hành án
4
dân sự ở Việt Nam hiện nay, những kết quả đạt được, những mặt tồn tại và hạn chế,
từ đó để xuất những giải pháp góp phần đổi mới và hoàn thiện tổ chức và hoạt động
lĩnh vực thi hành án dân sự ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích đó luận văn có nhiệm vụ:
+ Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Cơ
quan thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay như: vị trí, vai trò của cơ quan thi
hành án dân sự trong bộ máy hành chính, thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân
sự, các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, thi hành
án dân sự một số nước trên thế giơi kinh nghiệm và thực tiễn.
+ Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của thi hành án dân sự Việt Nam,
tìm hiểu thực trạng về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, từ
những kết quả đạt được trong những năm qua, chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong
giai đoạn hiện nay.
+ Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ
quan thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, nhằm nâng cao hiệu quả của cơ quan
này trong bộ máy hành chính.
3. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của triết học Mác-Lênin, các văn kiện
Đại hội Đảng và Nghị quyết các hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng đề cập
đến vấn đề cải cách tư pháp, cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam. Đồng thời tác giả cũng nghiên cứu, tìm hiểu những tài liệu, những
tác phẩm chuyên khảo đã được công bố trong lĩnh vực thi hành án dân sự, phân tích
những số liệu về tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện
nay, để làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênnin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền. Kết hợp phương
pháp thống kê các số liệu cụ thể về tổ chức và hoạt động của lĩnh vực thi hành án
5
dân sự hiện nay, trên cơ sở đó vận dụng phương pháp phân tích để phân tích các số
liệu, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế. Từ đó để đưa ra những giải pháp
nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự Việt Nam.
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Thông qua phương pháp này, các khái
niệm, đặc điểm, quan điểm liên quan đến tổ chức hoạt động, vị trí vai trò, thẩm
quyền của cơ quan thi hành án dân sự trong bộ máy hành chính được phân tích cụ
thể, chỉ ra các mối liên hệ từ đó đưa ra những kết luận về các vấn đề cần giải quyết
trong luận văn.
+ Phương pháp so sánh: Được sử dụng để tìm ra các đặc điểm chung, điểm
khác biệt của cơ quan thi hành án dân sự của một số nước trên thế giới. Phương
pháp này còn được sử dụng để so sánh mô hình cơ quan thi hành án dân sự từ khi
được hình thành cho đến nay, và so sánh các số liệu về kết quả thi hành án một số
năm để thấy được hiệu quả về tổ chức và hoạt động của cơ quan này.
+ Phương pháp lịch sử: Được sử dụng để nghiên cứu quá trình hình thành và
phát triển về tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự qua các thời kỳ.
+ Phương pháp thống kê: phương pháp này được áp dụng để thống kê số lượng
các vụ việc được thi hành, thống kê số lượng cán bộ công chức của toàn Ngành, số
lượng cán bộ lãnh đạo, cán bộ có chức danh của hệ thống cơ quan thi hành án dân
sự trong cả nước.
4. Tình hình nghiên cứu.
Đến nay, liên quan đến nội dung của luận văn đã có một số công trình nghiên
cứu ở các mức độ khác nhau về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân
sự. Trong đó đáng chú ý là các công trình bài viết sau:
- Về đề tài cấp nhà nước: có “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và
hoạt động thi hành án dân sự Việt Nam trong giai đoạn mới” do Bộ Tư pháp chủ trì,
đã đưa ra một số căn cứ trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thi
hành án dân sự.
6
- Về đề tài cấp bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án” mã số
95-98-114/ĐT do Viện nghiên cứu khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp
thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện, đề tài đã thảo luận mô hình thi hành án
của một số nước trên thế giới và đề xuất các mô hình thi hành án ở Việt Nam.
- Về Luận văn thạc sĩ: Luận văn Thạc sĩ của tác giả Trần Văn Quảng (1996)
“Một số vấn đề tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam” , tác giả thực
hiện công trình nghiên cứu này sau khi pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 có
hiệu lực pháp luật, cũng là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên sau khi
cơ quan thi hành án dân sự chuyển từ Toà án các cấp sang các cơ quan thuộc Chính
phủ, trong đề tài của mình tác giả đã nghiên cứu thực trạng thi hành án dân sự giai
đoạn đó và đưa ra những ý kiến đề xuất cần phải ban hành Luật thi hành án dân sự
và nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ công chức.
Luận Văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thanh Thủy (2001) "Hoàn thiện pháp
luật thi hành án dân sự", trong công trình nghiên cứu của mình tác giả đã đưa ra các
quan điểm về đặc điểm của cơ quan thi hành án dân sự, một số bất cấp các quy định
của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, từ đó tác giả đề xuất những kiến nghị
cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án dân sự, kiến nghị cần sửa đổi, bổ
sung Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 cho phù hợp với tình hình mới, tác giả
còn đưa ra những ý kiến về sự cần thiết phải ban hành Luật thi hành án dân sự.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Lê Anh Tuấn (2004) “Đổi mới thủ tục thi hành
án dân sự”, tác giả nghiên cứu đề tài sau khi Pháp lệnh thi hành án dân sự năm
2004 đã được ban hành, tuy sửa đổi bổ sung các quy định về thủ tục thi hành án của
Pháp lệnh năm 1993 nhưng vẫn còn nhiều bất cập so với tình hình thực tế, tác giả đã
đề xuất giải pháp ban hành Luật thi hành án dân sự để nâng cao hiệu quả tổ chức và
hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự ở Việt Nam.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Lê Thị Hồng Hạnh (2008) “Mối quan hệ giữa
các cơ quan trong thi hành án dân sự”, công trình nghiên cứu của tác giả được thực
hiện trong khi đang chuẩn bị ban hành Luật thi hành án dân sự, tác giả đưa ra một
7
số khó khăn trong mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan liên
quan, từ đó đưa ra những ý kiến đề xuất khi ban hành Luật cần chú ý hơn các quy
định của Luật về quy định các mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự và cơ
quan liên quan để nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan thi hành án.
Ngoài ra còn một số các bài viết trên tạp chí Viện kiểm sát, tạp chí Toà án, các
bài báo, mỗi bài viết nghiên cứu về những lĩnh vực rất nhỏ trong tổ chức và hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự, như bài viết “bàn về mô hình của cơ quan
THADS hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thanh đăng trong tạp chí kiểm sát có
phân tích một số các ưu khuyết điểm của các mô hình cơ quan THADS trước khi có
mô hình như hiện nay và đưa ra một số quan điểm của mình về mô hình tổ chức của
cơ quan THADS. Các bài viết này chủ yếu được đề cập đến các vấn đề còn bất cập
khi Luật thi hành án dân sự chưa được ban hành, chủ yếu đưa ra các ý kiến đề xuất
cần ban hành Luật.
5. Điểm mới và ý nghĩa của Luận văn.
Nghiên cứu về cơ quan thi hành án dân sự trong thời gian vừa qua, đã có một số
đề tài của các tác giả triển khai thực hiện, mỗi một đề tài tập trung giải quyết một số
khía cạnh về tổ chức, hoạt động, mối quan hệ của cơ quan thi hành án dân sự. Tuy
nhiên, các đề tài đó chưa nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về tổ chức, hoạt động của cơ
quan thi hành án dân sự, bên cạnh đó các đề tài đó được triển khai chủ yếu theo
pháp lệnh cũ. Chính vì vậy, luận văn của tác giả là một trong những công trình
nghiên cứu chuyên khảo có tính hệ thống, tìm hiểu toàn diện về cơ quan thi hành án
dân sự ở Việt Nam kể từ khi được thành lập đến nay, về tổ chức và hoạt động của cơ
quan này từ khi Luật thi hành án dân sự được ban hành.
Những kết luận và kiến nghị được đưa ra trong luận văn không chỉ có ý nghĩa
đối với việc hoàn thiện cơ quan thi hành án dân sự ở Việt Nam nói riêng mà còn có
ý nghĩa trong việc hoàn thiện hơn bộ máy hành chính nhà nước; luận văn còn là tài
liệu tham khảo cho công tác giảng dạy, nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này, cho
cán bộ ngành thi hành án và những người có quan tâm đến lĩnh vực thi hành án dân
8
sự.
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì luận văn được kêt cấu làm ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về cơ quan thi hành án dân sự ở nước ta
hiện nay.
Chương 2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi haàn án dân sự ở
nước ta hiện nay.
Chương 3. Những nội dung cơ bản về đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan
thi hành án dân sự ở nước ta hiện nay.
9
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ
QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1.Vị trí, vai trò của cơ quan thi hành án dân sự trong bộ máy hành chính ở
nước ta hiện nay.
1.1.1 Vị trí của cơ quan thi hành án dân sự.
Nhà nước CHXHCNVN ra đời là thành quả của cách mạng tháng 8/1945,
trải qua hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành vẫn giữ vững bản chất nhà nước
“ của dân, do dân và vì dân”, mọi hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung và hệ
thống cơ quan hành chính nói riêng đều thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta.
Cơ quan THADS, cơ quan chuyên môn thuộc hệ thống cơ quan hành chính Nhà
nước thông qua hoạt động của mình thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc
tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức và cá nhân trong xã
hội. Vì vậy, một trong những vấn đề mà Nhà nước luôn quan tâm đó là không
ngừng tăng cường bảo vệ các quyền của công dân, tổ chức trong điều kiện mới hiện
nay. Để thực hiện chiến lược này Nhà nước phải không ngừng xây dựng kiện toàn
bộ máy Nhà nước trong đó có cơ quan thi hành án dân sự, đây là một khâu quan
trọng nhằm xây dựng một cơ quan chuyên trách để tổ chức, thực hiện các bản án,
quyết định của Tòa án. Tòa án thực hiện chức năng xét xử của mình để bảo vệ công
lý, kết quả của hoạt động tố tụng tại Tòa án là các bản án, quyết định được ban hành.
Trong các bản án, quyết định của mình Tòa ra các phán quyết xác định các quan hệ
pháp lý, buộc người phải thi hành án có nghĩa vụ phải làm hoặc không được làm
một việc vì lợi ích của người được thi hành án “Xây dựng một xã hội dân chủ vừa là
mục tiêu, vừa là điều kiện của nhà nước pháp quyền. Nói đến dân chủ là nói đến
pháp luật, pháp luật vừa là sự phản ánh yêu cầu dân chủ vừa là công cụ để thực
hiện dân chủ”[17,tr.14]. Vì vậy, nhà nước cần phải xây dựng một cơ quan thi hành
án dân sự được tổ chức một cách khoa học, hoạt động có hiệu quả. Có thể nói rằng,
10
cơ quan thi hành án dân sự ở nước ta đã trải qua một quá trình lịch sử, từng bước
được khẳng định và hoàn thiện. Cơ quan thi hành án dân sự trong điều kiện đổi mới
đất nước hiện nay có một vị trí ổn định trong hệ thống cơ quan hành chính, xứng
đáng với nhiệm vụ tổ chức thi hành án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức. Nhà nước pháp quyền là nhà nước của xã hội công dân, Nhà nước luôn chú
trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Trong hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước, cơ quan thi hành án dân sự có chức năng tổ chức thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án. Nhờ đó mà phán quyết của Tòa án được đảm bảo thực hiện
trong thực tế, mang lại công bằng cho xã hội. Một xã hội phát triển, đòi hỏi cơ quan
thi hành án dân sự phải được tổ chức khoa học tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh,
có như vậy mới thực hiện được nhiệm vụ đưa phán quyết của Tòa án trở thành hiện
thực. Trước yêu cầu khách quan của xã hội, việc chuyển giao công tác thi hành án
dân sự và kiện toàn cơ quan THADS là một việc làm cần thiêt. Vì vậy, từ tháng
7/1993 công tác thi hành án được chuyển từ Tòa án sang cho Chính phủ quản lý, cơ
quan thi hành án dân sự được tổ chức thành một hệ thống trực thuộc Bộ Tư pháp,
được thành lập từ trung ương đến địa phương. Hiện nay, ở trung ương đó là Tổng
cục thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp, cấp Tỉnh thành lập các Cục thi hành
án dân sự, cấp huyện được tổ chức thành các Chi cục thi hành án dân sự. Chức năng
THA được tách khỏi cơ quan Tòa án, hoạt động THADS là giai đoạn độc lập, từ chỗ
hoạt động mang tính tố tụng thuần túy chuyển sang hoạt động mang tính hành
chính- tư pháp. Việc chuyển giao cho Chính phủ thẩm quyền quản lý thi hành án
dân sự đã đánh dấu bước đổi mới căn bản của công tác THADS, góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động xét xử, lập lại trật tự kỷ cương xã hội, tăng cường pháp chế
XHCN, bảo đảm sự đồng bộ gắn bó trong quá trình cải cách tư pháp, cải cách hành
chính, cải cách bộ máy Nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Sự chuyển giao cơ quan THADS sang hệ thống cơ quan hành chính nhà nước
đã đánh dấu một thay đổi quan trọng của bộ máy hành chính nước ta. Từ nay, cơ
quan hành chính có thêm chức năng quản lý, tổ chức hoạt động thi hành án dân sự.
11
Cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan hoạt động lĩnh vực thi hành án dân sự, bảo
đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện trong thực tế, hoạt động
đó góp phần quan trọng đối với việc thực hiện và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của
công dân, phù hợp với tiến trình dân chủ hóa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam.
Ở mỗi quốc gia khác nhau, hoạt động THADS cũng có những cách thức tiến
hành không giống nhau, điều này xuất phát từ điều kiện chính trị- xã hội, điều kiện
lịch sử và truyền thống pháp lý của mỗi nước, ở Pháp, Đức hoạt động THADS được
giao cho các Thừa phát lại thi hành, Thừa phát lại là công chức Nhà nước nhưng
được hành nghề độc lập, được mở văn phòng riêng, có quyền hành rất lớn. Một số
nước khác như Nhật Bản hoạt động THADS lại được đặt dưới sự quản lý của Tòa
án các cấp. Ở nước ta, cơ quan THADS là một cơ quan độc lập được đặt trong hệ
thống cơ quan hành pháp. Văn bản đầu tiên là cơ sở cho sự phát triển của pháp luật
về THADS đó là Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 là một trong những cơ sở
pháp lý cho việc hình thành tổ chức và hoạt động thi hành án theo một cơ chế mới.
Về vị trí của cơ quan THADS hiện nay cũng có rất nhiều các ý kiến khác
nhau liên quan đến đặc trưng cũng như mô hình của cơ quan THADS. Có một số ý
kiến cho rằng, cơ quan này thuộc tố tụng dân sự, vì chỉ có chức năng thi hành bản
án, quyết định mà nó không có chức năng quản lý hành chính; một số ý kiến lại cho
rằng cơ quan THA thuộc tố tụng hành chính vì từ khi công tác THADS được
chuyển giao từ Tòa án sang các cơ quan thuộc Chính phủ thì cơ quan tiến hành việc
thi hành án không phải là Tòa án nữa. Việc giải quyết khiếu nại, kháng nghị trong
thi hành án khác hẳn các hình thức, thủ tục so với việc giải quyết kháng cáo kháng
nghị trong tố tụng dân sự [24, tr.13]; nhưng hầu hết các quan điểm hiện nay cho
rằng thi hành án dân sự là hoạt động hành chính-tư pháp, vì bản chất của quyết định
thi hành án là quyết định hành chính, khi được ban hành bắt buộc phải được thực
hiện, nếu người phải thi hành án không tự nguyện thực hiện thì sẽ bị áp dụng biện
pháp cưỡng chế buộc phải thực hiện nghĩa vụ. Là cơ quan trong bộ máy hành chính
12
nhưng lại chủ yếu quan hệ tác nghiệp với các cơ quan tố tụng, trong đó có Viện
kiểm sát nhân dân, do vậy hoạt động này cũng được coi là hoạt động tư pháp (hành
chính- tư pháp).
Mặc dù còn một số ý kiến chưa thống nhất về vị trí, đặc trưng của hoạt động
thi hành án dân sự, nhưng đa số các ý kiến đều cho rằng mô hình cơ quan thi hành
án thuộc cơ quan hành chính như hiện nay là hoàn toàn phù hợp, vừa bảo đảm sự
quản lý tập trung thống nhất của Bộ Tư pháp đồng thời vẫn phát huy được vai trò
chỉ đạo của chính quyền các cấp đối với công tác THA ở địa phương. Mô hình này
đã và đang được kiểm nghiệm bước đầu phát huy hiệu quả trong công tác THA. Cơ
chế quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ giúp cho hoạt động THA
thống nhất trong phạm vi toàn quốc, đồng thời góp phần thực hiện nhiệm vụ chính
trị của từng địa phương. Bộ Tư pháp thống nhất quản lý về tổ chức và nghiệp vụ
THA đã giúp cho việc quản lý đội ngũ Chấp hành viên và công chức trong cơ quan
THA được chặt chẽ hơn từ khâu tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, trách nhiệm
của đội ngũ này khi vi phạm pháp luật. Đồng thời thông qua kết quả hoạt động
nghiệp vụ, giải quyết khiếu nại tố cáo mà đánh giá được năng lực chuyên môn,
phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, bố trí sử dụng hợp lý thực hiện chế độ đề bạt, khen thưởng, kỷ luật đối
với công chức được chính xác, từ đó phát huy hiệu quả hơn năng lực của đội ngũ
cán bộ, công chức. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quận, huyện,
thành phố thuộc tỉnh thực hiện quản lý Nhà nước về công tác THADS ở địa phương
đã tạo điều kiện cho sự phối hợp giữa các ngành đặc biệt là những vụ việc phức tạp,
ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Một trong các tiêu chí của Nhà nước pháp quyền đó là: những vấn đề về tổ
chức thực hiện quyền lực, vị trí vai trò của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước nói
chung và trong bộ máy hành chính Nhà nước nói riêng; cơ chế hoạt động của các cơ
quan nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức cá nhân,
điều này đã trực tiếp phát sinh yêu cầu phải tiếp tục đổi mới về tổ chức và hoạt động,
13
nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của cơ quan THADS. Hiệu quả của cơ quan
THADS hiện nay bước đầu đã khẳng định sự đúng đắn của Nhà nước ta khi chuyển
cơ quan THADS sang cho chính phủ quản lý vị trí, vai trò của cơ quan THADS
ngày càng được khẳng định trong hệ thống cơ quan hành chính. Hơn 60 năm xây
dựng và trưởng thành, công tác THADS Việt Nam đã góp phần quan trọng vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Qua từng giai đoạn lịch sử, THADS Việt Nam
đã dần được hoàn thiện, củng cố phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mà Nhà nước đặt
ra. Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đang đòi hỏi cấp thiết cải
cách bộ máy Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước CHXHCN Việt Nam,
trong tiến trình đổi mới đó, kiện toàn, tổ chức, hoạt động của cơ quan THADS là
một nội dung quan trọng.
Như vậy, cơ quan thi hành án dân sự được xác định là cơ quan chuyên môn
trong bộ máy hành chính, có thẩm quyền trực tiếp tiến hành các hoạt động trong
lĩnh vực THADS.
1.1.2. Vai trò của cơ quan thi hành án dân sự trong bộ máy hành chính.
Dưới chế độ XHCN, Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân,
mọi tổ chức và hoạt động của Nhà nước đều nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích
của con người. Trong hoạt động của Nhà nước, công tác THA nói chung và THADS
nói riêng có vai trò rất quan trọng, thông qua hoạt động THA, những phán quyết của
Tòa án nhân danh Nhà nước, thể hiện ý chí của Nhà nước trở thành hiện thực, công
lý xã hội được thực hiện trong thực tế. Quá trình giải quyết một vụ án chỉ được coi
là kết thúc khi bản án, quyết định của tòa án được thi hành đầy đủ và kịp thời. Nếu
không có hoạt động của cơ quan THA thì phán quyết của tòa án mới chỉ dừng lại ở
bản án hoặc quyết định, trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị
xem thường, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm, các khiếu kiện
sẽ nhiều hơn gây ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống xã hội.
Vai trò của cơ quan thi hành án thông qua hoạt động của mình còn có ảnh
hưởng tích cực đến kết quả hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố. Thông qua hoạt
14
động cơ quan thi hành án góp phần biến kết quả hoạt động của những cơ quan này
trở thành hiện thực; Với hiệu quả hoạt động của cơ quan THADS từ khi được
chuyển giao từ Tòa án sang các cơ quan hành pháp, đã chứng tỏ sự đúng đắn của
Nhà nước ta, thêm một công cụ quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu mới đặt ra trong giai đoạn
cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Với vị trí là cơ quan chuyên môn trong bộ máy hành chính có thẩm quyền là
trực tiếp thi hành bản án, quyết định của Tòa án, nhiệm vụ của cơ quan THADS rất
nặng nề đụng chạm trực tiếp đến quyền và lợi ích của con người, sự lẩn tránh nghĩa
vụ, sự phản kháng quyết liệt của người phải THA và người được THA thường xảy
ra. Chính vì lẽ đó, việc tổ chức THA không đơn thuần là một công việc mang tính
kỹ thuật nghiệp vụ mà còn thể hiện tính quyền lực Nhà nước. Cơ quan THA là cơ
quan chuyên môn đối diện với thực tế đó và thông qua hoạt động nghiệp vụ của
mình bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án. Vai trò của cơ quan
THADS ngày càng được khẳng định. Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động
nghiệp vụ chuyên sâu đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của xã hội.
Hoạt động THADS ở nước ta là một nội dung hoạt động của Nhà nước, mang
bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân lao động, điều đó được thể hiện ở
chỗ: Cơ quan THADS là cơ quan Nhà nước, cơ quan chuyên môn trong bộ máy
hành chính, Chấp hành viên là công chức thuộc cơ quan thi hành án được giao trách
nhiệm trực tiếp tổ chức THADS, các tổ chức và các cá nhân có liên quan phải có
trách nhiệm trong công tác THADS khi có yêu cầu theo quy định của pháp luật.
Công tác THADS có ý nghĩa quan trọng, thể hiện bản chất của Nhà nước, hoạt động
vì quyền lợi của nhân dân, qua đó hoạt động đó ngăn chặn hiện tượng “dịch vụ đòi
nợ thuê” có xu hướng phát triển làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người dân
trong xã hội.
Trong nhiều năm trước đây, tình trạng trì trệ, án tồn đọng không được thi
15
hành ngày một gia tăng, trước năm 1993, có tới 70% các bản án, quyết định của Tòa
án có hiệu lực pháp luật không được thi hành, việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân không được đảm bảo, pháp chế bị xâm phạm. Trước tình hình đó việc
đổi mới công tác THADS và hiệu quả của công tác này đã đáp ứng được yêu cầu
chính trị, xã hội của nhà nước ta trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Trong quá trình tổ chức THADS, cơ quan THA và Chấp hành viên chỉ tuân theo
pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật, không một cơ quan, cá nhân nào được
can thiệp vào việc thực thi nhiệm vụ THA. Sự độc lập đó giúp cho cơ quan thi hành
án hoạt động hiệu quả, tạo niềm tin cho nhân dân, quyền lực nhà nước được thực
hiện trong thực tế.
Tổ chức, hoạt động cơ quan THADS là một bộ phận của tổ chức và hoạt
động bộ máy hành chính, có mối quan hệ mật thiết mang tính hệ thống với toàn bộ
tổ chức, hoạt động Nhà nước. Quyền lực nhà nước không chỉ đơn thuần dừng lại ở
việc Tòa án tuyên một bản án, mà bản án đó phải được thực hiện trong thực tế
quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức phải được đảm bảo. Những phán quyết
của Tòa án nhân danh Nhà nước không được thi hành thì uy tín của nhà nước bị
giảm sút, kỷ luật nhà nước không được tôn trọng, quá trình cải cách tư pháp, cải
cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam sẽ không đồng bộ, thiếu
hiệu quả, công tác THADS được tổ chức tốt sẽ giải quyết được tình trạng trên.
Cũng như các hiện tượng kiến trúc thượng tầng khác trong xã hội, THADS hình
thành và phát triển trên cơ sở kinh tế- xã hội, phản ánh sâu sắc những đặc điểm lịch
sử, kinh tế, văn hóa, xã hội đương thời. Là một bộ phận của hệ thống cơ quan hành
chính, tổ chức và hoạt động THADS không phải là vấn đề bất biến, không thể nằm
ngoài tiến trình phát triển của Nhà nước, mà phải phù hợp với yêu cầu phát triển của
Nhà nước qua từng giai đoạn. Ở mỗi nước, mỗi giai đoạn tổ chức và hoạt động
THADS không giống nhau. Ở Việt Nam, thực hiện pháp lệnh THADS năm 1993,
THADS được chuyển giao sang các cơ quan thuộc Chính phủ, sự đổi mới này đã
tạo ra bước phát triển mới của THADS. Tuy nhiên, sự đổi mới này không phải là sự
16
sao chép tùy tiện một hình mẫu của nước nào mà hoàn toàn xuất phát từ bản chất
dân chủ của Nhà nước ta, trên cơ sở điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước. THADS
ở nước ta là một loại hoạt động của Nhà nước, được tiến hành theo cơ chế kết hợp
sự chủ động của cơ quan THADS, Chấp hành viên, Thẩm tra viên với sự tôn trọng
quyền tự định đoạt của đương sự. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển
dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, hoạt động THADS sẽ góp
phần hạn chế tiêu cực phát sinh trong lĩnh vực này, có ý nghĩa tích cực trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.2. Thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự.
Hiện nay trong hệ thống các ngành khoa học nói chung và khoa học pháp lý nói
riêng, có nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến khái niệm thẩm quyền.
Mỗi cơ quan trong bộ máy Nhà nước đều có thẩm quyền riêng trong lĩnh vực
nhất định, với quan niệm như vậy thẩm quyền được hiểu là tổng thể những quyền
mà pháp luật quy định cho một cơ quan được thực hiện nhiệm vụ trong một lĩnh
vực nhất định.
Theo từ điển tiếng việt: "Thẩm quyền là thuật ngữ dùng để chỉ quyền xem xét,
kết luận kiến nghị và định đoạt một số vấn đề theo pháp luật hoặc chỉ một tư cách
về chuyên môn được thừa nhận để có ý kiến có tính chất quyết định về một vấn đề"
[48, tr.50] . Theo cách hiểu này thì “khái niệm thẩm quyền được hiểu rất rộng, bất
kể một chủ thể nào trong bộ máy nhà nước, thậm chí là cả những chủ thể được nhà
nước ủy quyền trong những trường hợp nhất định thay mặt nhà nước giải quyết một
công việc cụ thể nào đó cũng có thẩm quyền” [17, tr.50]
Dưới một góc độ cụ thể hơn, Từ điển luật học định nghĩa thẩm quyền là:
“ Tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức
thuộc hệ thống bộ máy do nhà nước quy định”[40, tr.459].
Với một cách hiểu như vậy, thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước
bao gồm tổng thể quyền và nghĩa vụ do nhà nước quy định, điều đó có nghĩa là cơ
quan nhà nước chỉ có quyền thực hiện hoạt động nhất định, nhằm giải quyết những
17
vấn đề cụ thể được pháp luật cho phép.
Cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan chuyên môn trong bộ máy hành chính, vì
vậy cũng có thẩm quyền nhất định, thẩm quyền này được giới hạn trong phạm vi
giải quyết những vụ việc được pháp luật thi hành án dân sự quy định. Cơ quan thi
hành án thực hiện các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ đó là việc thi hành những
bản án, quyết định của Tòa án theo trình tự thủ tục của pháp luật thi hành án dân sự.
Việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một tất yếu khách
quan, là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ hoạt động thi hành án nói chung và THADS nói
riêng.
Điều 136 Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 2001) ghi nhận:
"Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được
các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân
dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành".
Như vậy, bản án quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án là bản án, quyết
định có tính chất bắt buộc thực hiện đối với các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội và cá nhân có liên quan, bên cạnh đó, những bản án, quyết định của
trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh cũng là những phán quyết có hiệu lực
pháp luật và cũng được đảm bảo thi hành trong thực tế.
Pháp luật THADS ngoài những quy định chung về thẩm quyền của hệ thống cơ
quan THADS, còn quy định cụ thể những nhiệm vụ quyền hạn riêng cho từng cơ
quan THADS ở các cấp khác nhau cụ thể đó là thẩm quyền của cơ quan thi hành án
dân sự cấp tỉnh, cấp huyện, cấp quân khu trong việc tổ chức thi hành những bản án,
quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật. Đồng thời Pháp luật THADS
cũng có những quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà
nước về THADS, với quy định này việc thực hiện công tác thi hành án dân sự vừa
đáp ứng được yêu cầu chính trị- xã hội ở địa phương, vừa đáp ứng yêu cầu chuyên
môn của hoạt động này.
18
Có thể nói rằng, thẩm quyền của cơ quan THADS mang tính quyền lực pháp lý
nhưng quyền hạn đó được giới hạn ở phạm vi, mức độ nhất định theo quy định của
pháp luật, đó là thẩm quyền thi hành những bản án, quyết định của tòa án. Thẩm
quyền của cơ quan THADS được thể hiện thông qua nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm trong lĩnh vực THADS. Việc nghiên cứu thẩm quyền của cơ quan THADS là
một trong những cơ sở nhằm tiến hành đổi mới về tổ chức và hoạt động của cơ quan
THADS trong giai đoạn hiện nay.
1.3.Nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự.
Cũng giống như bất kỳ một hoạt động nào, trong công tác THADS nói riêng và
trong quản lý hành chính Nhà nước nói chung đều được tiến hành trên cơ sở những
nguyên tắc nhất định. Những nguyên tắc nó là những tư tưởng chỉ đạo quan trọng
trong tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, giúp cho hoạt động của
cơ quan này hiệu quả hơn.
Cơ quan THADS là cơ quan chuyên môn trong bộ máy hành chính, do đó tổ
chức và hoạt động của cơ quan này cũng phải tuân theo những nguyên tắc chung về
tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính. Tuy nhiên, là một cơ quan chuyên
môn giúp cơ quan hành chính nhà nước giải quyết trong lĩnh vực cụ thể, ngoài các
nguyên tắc chung trong tổ chức và quản lý hành chính Nhà nước, còn có các nguyên
tắc đặc thù trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự.
Theo nghĩa chung nhất, nguyên tắc được hiểu là những điều cơ bản nhất thiết
phải tuân theo trong một loạt các việc làm, mỗi ngành khoa học, mỗi lĩnh vực hoạt
động cụ thể đề cập đến vấn đề nguyên tắc theo một góc độ riêng, đặc thù cho ngành
khoa học hay lĩnh vực đó [43, tr.75]. Trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của các cơ
quan trong bộ máy Nhà nước được Hiến pháp ghi nhận, các văn bản pháp luật trong
lĩnh vực THADS đã cụ thể hóa những nguyên tắc cơ bản đó trong tổ chức và hoạt
động của mình, các nguyên tắc vừa có đặc điểm chung với các nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước vừa có những đặc điểm đặc thù của
cơ quan THADS.