Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Năng lực và trách nhiệm của đại biểu quốc hội việt nam hiện nay một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (26.18 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THANH HẢI

NĂNG LỰC VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VIỆT
NAM HIỆN NAY – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Động

HÀ NỘI - 2011


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi xin được
cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ, cung cấp
cho tôi những kiến thức vô cùng bổ ích trong quá trình học đại học và cao
học tại Trường.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Văn Động, thầy
đã dành rất nhiều thời gian, tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn
thành luận văn này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Ban
giám hiệu, Khoa Hành chính – Nhà nước, Khoa Sau đại học của Trường Đại


học Luật Hà Nội.
Đồng thời, tôi xin cảm ơn cơ quan, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ tôi
trong quá trình học cao học và viết luận văn.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự
nhiệt tình và năng lực của mình, tuy nhiên chắc rằng khó tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong nhận được những đóng góp quí báu của quí thầy cô và các
bạn.

Học viên

Nguyễn Thanh Hải


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
Chương 1: Cơ sở lý luận về năng lực và trách nhiệm của Đại biểu quốc hội
1.1 Khái niệm năng lực, trách nhiệm của ĐBQH và quan hệ giữa năng

1
1

lực và trách nhiệm của ĐBQH
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực và trách nhiệm của đại biểu

7

quốc hội
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực và trách nhiệm của đại biểu quốc


14

hội Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
Chương 2: Những quy định pháp luật về năng lực trách nhiệm của

18

đại biểu quốc hội và thực trạng năng lực, trách nhiệm của đại biểu quốc
hội
2.1. Những quy định pháp luật về năng lực, trách nhiệm của đại biểu

18

quốc hội và sự ảnh hưởng của chúng tới năng lực, trách nhiệm của đại biểu
quốc hội
2.2. Thực trạng năng lực và trách nhiệm của đại biểu quốc hội hiện nay

29

Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực và trách nhiệm của đại biểu

58

quốc hội ở nước ta hiện nay
3.1. Các giải pháp chung

58

3.2. Những giải pháp mang tính tổ chức – pháp lý


60

3.3. Một số giải pháp khác

59

KẾT LUẬN

72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ĐBQH

Đại biểu quốc hội

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBTVQH

Ủy ban thường vụ quốc hội

UBTƯMTTQVN

Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam


UBMTTQVN

Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa







1

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI

1.1 Khái niệm năng lực, trách nhiệm của ĐBQH và quan hệ giữa
năng lực và trách nhiệm của ĐBQH
1.1.1 Khái niệm “năng lực của ĐBQH”
- Khái niệm “năng lực”
‘Năng lực’ là cụm từ quen thuộc trong các tài liệu nghiên cứu, sách

báo và cuộc sống đời thường. Trong Từ điển Tiếng Việt, năng lực được
hiểu là:
1. Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để
thực hiện một hoạt động nào đó…2. Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho
con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao
[28 ,tr.639].
Năng lực cũng là một trong những khái niệm cơ bản được đề cập
trong các giáo trình đại cương về Tâm lý học. Trong bất cứ hoạt động nào,
để thực hiện có hiệu quả, con người cần phải có một số phẩm chất tâm lý
cần thiết và tổ hợp những phẩm chất này được gọi là năng lực. Có một số
cách hiểu khác nhau về năng lực.
Cách thứ nhất:
Năng lực là sự tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con
người, đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động
đạt được những kết quả cao.[31].
Sở dỹ nói rằng năng lực là sự tổng hợp những thuộc tính cá nhân con
người vì cần phải hiểu năng lực không phải là một thuộc tính tâm lý duy
nhất nào đó (ví dụ như khả năng tri giác, trí nhớ...) mà là sự tổng hợp các
thuộc tính tâm lý cá nhân (sự tổng hợp này không phải phép cộng của các


2

thuộc tính mà là sự thống nhất hữu cơ, giữa các thuộc tính tâm lý này diễn
ra mối quan hệ tương tác qua lại theo một hệ thống nhất định và trong đó
một thuộc tính nổi lên với tư cách chủ đạo và những thuộc tính khác giữ
vai trò phụ thuộc) đáp ứng được những yêu cầu hoạt động và đảm bảo hoạt
động đó đạt được kết quả mong muốn.
Theo quan điểm của Tâm lý học mác xít, năng lực của con người
luôn gắn liền với hoạt động của chính họ. Như chúng ta đã biết, nội dung

và tính chất của hoạt động được quy định bởi nội dung và tính chất của đối
tượng của nó. Tuỳ thuộc vào nội dung và tính chất của đối tượng mà hoạt
động đòi hỏi ở chủ thể những yêu cầu xác định. Nói cách khác, mỗi hoạt
động khác nhau, với tính chất và mức độ khác nhau sẽ đòi hỏi ở cá nhân
những thuộc tính tâm lý (điều kiện cho hoạt động có hiệu quả) nhất định
phù hợp với nó.
Năng lực không mang tính chung chung mà khi nói đến năng lực,
bao giờ người ta cũng nói đến năng lực thuộc về một hoạt động cụ thể nào
đó như năng lực toán học của hoạt động học tập hay nghiên cứu toán học,
năng lực hoạt động chính trị của hoạt động chính trị, năng lực giảng dạy
của hoạt động giảng dạy....
Cách thứ hai: Quan niệm về năng lực của tác giả Richard E. Snow
(Hoa Kỳ, 1936-1997) [31].
Năng lực xứng hợp với mỗi tình huống khác biệt. Mỗi người có năng
lực riêng, cần gắn bó với việc làm việc theo nhóm một công việc cụ thể
hoặc trong tình huống nhất định nào đó. Khái niệm năng lực hết sức gần
gũi với tâm thế sẵn sàng (như trong “sẵn lòng đọc sách”), vẻ hài hòa (mục
tiêu hay vị thế), tính nhạy cảm (để xử lý hoặc thuyết phục) và sự chịu đựng
(ví dụ, “có thể chịu đựng tai nạn”). Tất cả những điều này hàm ý khả năng
đáp ứng ngay lập tức- phù hợp hay không- với một tình huống cụ thể hoặc
một tập hợp tình huống nào đó. Ở đây, thuật ngữ “năng lực” mang nghĩa


3

mức độ sẵn lòng học hỏi và tiến hành tốt trong một tình huống cụ thể hoặc
lĩnh vực nhất định.
Như vậy, cả 2 quan điểm trên tuy có những điểm khác nhau, nhưng
đều gặp nhau ở chỗ: năng lực được cấu thành bởi 3 thành tố: tri thức chuyên
môn; kỹ năng hoạt động; thái độ đối với hoạt động.

Như vậy, có thể định nghĩa năng lực như sau: Năng lực là sự tương
ứng giữa những thuộc tính tâm, sinh lý của con người với những yêu cầu
do hoạt động đặt ra. Nếu không có sự tương ứng này thì con người không
thể theo đuổi hoạt động được.
- Khái niệm “năng lực của ĐBQH”
Năng lực không có sẵn như một số nhà Tâm lý học tư sản quan niệm
mà nó được hình thành và phát triển qua hoạt động học tập, lao động và
trong hoạt động nghề nghiệp. Chúng ta có thể khẳng định rằng học hỏi và
lao động không mệt mỏi là con đường phát triển năng lực của mỗi cá nhân.
Khi bàn về năng lực của ĐBQH, không thể bỏ qua các yếu tố sau:
+ Tri thức: Đây là yếu tố cơ bản trong năng lực của đại biểu. Nó bao
gồm các kiến thức chuyên sâu mà các đại biểu đã được đào tạo hoặc là lĩnh
vực đang công tác (ví dụ, một đại biểu là Giám đốc Sở Tài chính sẽ có kiến
thức sâu về lĩnh vực tài chính) và các kiến thức mà đại biểu tự học hoặc tự bổ
sung. Tất nhiên, các kiến thức chuyên môn sẽ giúp đại biểu rất nhiều khi thảo
luận hoặc giám sát, cho ý kiến về các vấn đề đó. Nhưng, đối với một đại biểu
có trình độ khi gặp các lĩnh vực khác thì lúc đó trên nền học vấn, phương
pháp làm việc, khả năng logic... nói chung họ không khó khăn để nắm bắt và
phân tích vấn đề, tìm ra những điểm hợp lý, chưa hợp lý. Không chỉ riêng đối
với nước ta mà đối với nhiều nước khác cũng vậy, một ĐBQH cũng chỉ am
hiểu về một hoặc một số lĩnh vực nhất định. Nhưng nếu họ có trình độ, có
trách nhiệm, say mê tìm hiểu, nghiên cứu thì ý kiến của họ vẫn có chất lượng


4

đối với những vấn đề không phải là chuyên môn chính. Chính vì vậy, trình độ
đại biểu là rất quan trọng.
+ Kỹ năng hoạt động: Đây là một yếu tố không thể xem nhẹ. Thực tiễn
cho thấy, có những đại biểu có trình độ, nhưng thiếu kỹ năng nên hiệu quả

hoạt động cũng không cao. Các kỹ năng đó có thể là kỹ năng tổng hợp, phân
tích, đặt vấn đề...
+ Thái độ đối với hoạt động: Yếu tố này mang tính chất tinh thần. Nó
có thể là thái độ tích cực, chủ động, say mê hoặc là thái độ bị động, thờ ơ đối
với việc thực hiện nhiệm vụ của ĐBQH. Tùy theo thái độ như thế nào sẽ thúc
đẩy hoặc kìm hãm hiệu quả hoạt động.
Từ khái niệm năng lực nói chung và sự phân tích về năng lực của
ĐBQH nêu trên, có thể định nghĩa năng lực của đại biểu Quốc hội như sau:
Năng lực của ĐBQH là sự tương ứng giữa những thuộc tính tâm, sinh lý của
ĐBQH đối với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ ĐBQH.
1.1.2. Khái niệm “trách nhiệm của ĐBQH”
Trách nhiệm là ý thức của một chủ thể về nghĩa vụ, bổn phận của mình
đối với chủ thể khác, với chính mình hoặc với một công việc nào đó.
Trách nhiệm nhìn chung được biểu hiện qua nhận thức và hành động cụ
thể trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên.
Về thực chất, trách nhiệm được hình thành từ quyền và nghĩa vụ của cá nhân,
tập thể. Cơ sở của trách nhiệm chính là lợi ích. Do vậy, việc coi trọng và giải
quyết một cách thoả đáng, hợp lý quan hệ lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế
giữa các chủ thể (cá nhân, cộng đồng và xã hội) không chỉ tạo nên động lực
thúc đẩy các chủ thể trong quá trình thực hiện lợi ích của mình, mà còn làm
tăng sự quan tâm của họ tới lợi ích của người khác, của xã hội, nghĩa là gia
tăng trách nhiệm của các chủ thể. Nói cách khác, trách nhiệm được coi là chìa
khoá của sự phát triển trong bối cảnh hiện nay. Và theo đó vấn đề đặt ra
không chỉ là nhận diện trách nhiệm và luận giải thấu đáo các nội dung đa dạng


5

của nó, mà quan trọng hơn là, từ những nghiên cứu lý luận và tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn, cần phải làm thế nào để phát huy được trách nhiệm, nhất là

trong bối cảnh kinh tế thị trường, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Thông thường, trách nhiệm pháp lý được hiểu theo 2 nghĩa tiêu cực và
tích cực.
Ở nghĩa tiêu cực, trách nhiệm pháp lý được hiểu là sự gánh chịu những
hậu quả bất lợi về vật chất hoặc tinh thần của chủ thể vi phạm pháp luật, do
việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền đã áp
dụng biện pháp cưỡng chế mang tính trừng phạt đối với chủ thể vi phạm pháp
luật.
Ở nghĩa tích cực, trách nhiệm pháp lý đồng nghĩa với nghĩa vụ, bổn
phận, vai trò của chủ thể pháp luật. Mỗi cá nhân, tổ chức tự ý thức về vị trí,
vai trò, quyền và nghĩa vụ của mình để từ đó có những hành vi thích hợp
trong cuộc sống và công việc. Ở đây, trách nhiệm gắn liền với sự tự ý thức
của chủ thể và được thể hiện qua hành vi của chủ thể (hành động hoặc không
hành động) phù hợp với quy định của pháp luật và các chuẩn mực của xã hội.
Để đánh giá về trách nhiệm cần có những chuẩn mực như: quy định của pháp
luật, chuẩn mực đạo đức…
Như vậy, có thể định nghĩa trách nhiệm như sau: Trách nhiệm là sự tự
ý thức của chủ thể về về vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ của mình, về những
việc mình cần làm và không được làm đối với xã hội, với cộng đồng và với
người khác, để từ đó có những hành vi phù hợp với các chuẩn mực.
Trong phạm vi của luận văn, trách nhiệm được hiểu theo nghĩa tích
cực. Trách nhiệm của ĐBQH trước tiên là sự tự nhìn nhận về vị trí, vai trò và
nhiệm vụ, quyền hạn của mình hay nói cách khác, đó là sự tự nhìn nhận về
trọng trách của mình là: “người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện


6

cho nhân dân cả nước, là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà

nước trong Quốc hội” (Điều 43 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001).
Việc tự ý thức là yếu tố cốt lõi của trách nhiệm. Để ý thức được đầy đủ,
đại biểu cần hiểu rõ về thẩm quyền của mình. Đó là điều kiện cần. Điều kiện
đủ chính là phẩm chất đạo đức cá nhân của đại biểu như: sự nhiệt tình, trung
thực, lòng tự trọng, sự tôn trọng các chuẩn mực xã hội… sẽ khiến đại biểu
“ngấm” hơn về bổn phận của mình và những việc mình cần phải làm. Có lẽ vì
vậy mà là đại biểu, ai cũng thuộc Điều 43 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001
(quy định về vị trí, vai trò của ĐBQH) và nắm được các quyền, nghĩa vụ của
mình, nhưng không phải ai cũng thực hiện được tốt các điều đó.
Trách nhiệm được thể hiện qua việc làm, luôn gắn với việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của đại biểu. Không chỉ thực hiện tốt các nghĩa vụ mới là
đảm bảo trách nhiệm mà đại biểu cần phải thực hiện đúng và hiệu quả các
quyền của mình. Xét về phương diện trách nhiệm thì trong một số trường hợp,
sự phân định là quyền hay là nghĩa vụ chỉ mang tính tương đối. Ví dụ, đại
biểu có quyền chất vấn, nhưng đó cũng là nghĩa vụ của đại biểu giúp làm rõ
trách nhiệm của thành viên Chính phủ, qua đó giúp công tác quản lý nhà nước
được tốt hơn.
Để đánh giá về tinh thần trách nhiệm của đại biểu cần căn cứ vào các
việc làm của đại biểu và các quy định của pháp luật cũng như chuẩn mực xã
hội. Pháp luật không thể điều chỉnh được hết các quan hệ xã hội và cũng
không thể dự liệu được hết các trường hợp xảy ra trong cuộc sống. Vì vậy, các
quy định của pháp luật về trách nhiệm của đại biểu còn chung chung hoặc
chưa đầy đủ (Ví dụ, Điều 3 Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH
năm 2002 quy định ĐBQH có trách nhiệm gương mẫu trong việc chấp hành
Hiến pháp, pháp luật sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công
cộng). Lúc đó, chuẩn mực xã hội chính là thước đo hành vi của đại biểu xem
đã phù hợp với trọng trách của mình hay chưa.


7


Từ những phân tích nói trên, có thể định nghĩa trách nhiệm của ĐBQH
như sau: Trách nhiệm của ĐBQH là sự tự ý thức của ĐBQH về những việc
mình cần làm đối với cử tri, với nhân dân và xã hội để xứng đáng là người đại
biểu của nhân dân tại cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
1.1.3. Mối quan hệ giữa năng lực và trách nhiệm của ĐBQH
Năng lực và trách nhiệm cần đi đôi với nhau, là điều kiện "cần" và "đủ"
để tạo nên hiệu quả hoạt động của ĐBQH. Có năng lực mà lại thờ ơ, không
muốn làm thì năng lực đó cũng chỉ ở dạng tiềm năng, còn nếu có nhiệt tình,
hăng say, muốn làm nhưng không biết làm như thế nào vì không có trình độ
thì cũng không được.
Trách nhiệm là động lực để đại biểu nâng cao năng lực. Thực chất, chỉ
những ai có phẩm chất đạo đức cao cả, trong sáng mới có ý chí không ngừng
phấn đấu nâng cao năng lực tư duy, năng lực hành động, thực hiện các hoạt
động vì lợi ích cộng đồng, lợi ích của con người. Cũng tương tự như vấn đề
năng lực, đạo đức, nhân cách của ĐBQH cũng là một quá trình rèn luyện lâu
dài và không ngừng được hoàn thiện theo yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất
nước và nguyện vọng của nhân dân.
Năng lực là yếu tố để đại biểu hoàn thành tốt trách nhiệm của mình.
Trách nhiệm là yếu tố không thể thiếu đối với mỗi con người. Đối với ĐBQH
cũng vậy. Dù các quy định của pháp luật có chặt chẽ đến đâu mà đại biểu
không có ý thức trách nhiệm thực hiện thì hiệu quả sẽ khó được đảm bảo. Nó
chính là yếu tố "lửa", là nhiệt huyết trong công việc, khắc phục tình trạng làm
sơ sài, qua loa.
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực và trách nhiệm của
ĐBQH
1.2.1. Nhân tố khách quan
- Chủ trương, chính sách của Đảng.



8

Pháp luật, trong đó có các luật về tổ chức bộ máy nhà nước là sự cụ thể
hóa đường lối, chủ trương của Đảng. Vì thế, đây chính là nhân tố khách quan
đầu tiên ảnh hưởng đến năng lực và trách nhiệm của ĐBQH. Những khóa gần
đây, các chủ trương, chính sách của Đảng đã ngày càng phù hợp với tình hình
thực tế, tạo điều kiện để Quốc hội hoạt động hiệu quả hơn, phát huy yếu tố cá
nhân của từng đại biểu. Các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) là
cơ sở để sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Quốc hội. Trong Báo cáo của Ban
Chấp hành trung ương Đảng khóa VIII về các văn kiện tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX có nêu: “…Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, tăng
cường pháp chế. Hoàn thiện những quy định về bầu cử, ứng cử, về tiêu chuẩn,
cơ cấu các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân trên cơ sở phát huy dân
chủ…”. Báo cáo chính trị nhấn mạnh: “Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương
thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường
công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, đổi mới quy trình ban hành và hướng dẫn thi hành luật. Quốc
hội làm tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyết
định và phân bổ ngân sách nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối
toàn bộ hoạt động của Nhà nước, trước mắt tập trung vào những vấn đề bức
xúc như sử dụng vốn và tài sản nhà nước, chống tham nhũng, quan liêu …
Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, hoàn
thiện những quy định về bầu cử, ứng cử, về tiêu chuẩn và cơ cấu các đại biểu
Quốc hội và Hội đồng nhân dân trên cơ sở thật sự phát huy dân chủ. Tăng tỷ
lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách”.
Cụ thể hóa đường lối, chủ trương đó của Đảng, tại kỳ họp thứ 10, ngày
25/12/2001, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi). So với
Luật tổ chức Quốc hội trước đây (năm 1992), Luật được sửa đổi, bổ sung khá
nhiều về chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng dân tộc và
các Ủy ban, ĐBQH…Đặc biệt, cùng với việc quy định về tỷ lệ ĐBQH chuyên



9

trách tại Điều 45: “Trong số các đại biểu Quốc hội, có những đại biểu hoạt
động chuyên trách và có những đại biểu hoạt động không chuyên trách. Số
lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách có ít nhất là hai mươi lăm
phần trăm tổng số đại biểu Quốc hội”, Luật đã là tạo cơ sở pháp lý quan trọng
để nâng cao năng lực và trách nhiệm của ĐBQH, đáp ứng yêu cầu tại các văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu.
- Pháp luật của Nhà nước.
Pháp luật về ĐBQH là cơ sở pháp lý hình thành nên vị trí, vai trò của
ĐBQH, điều chỉnh hoạt động của ĐBQH, góp phần quan trọng vào việc bảo
đảm chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, ĐBQH cũng như của bộ
máy nhà nước nói chung. Thông qua pháp luật về ĐBQH, người dân biết
được tiêu chuẩn của ĐBQH để lựa chọn; biết được quyền, nghĩa vụ của mình
trong bầu cử và ứng cử; ĐBQH biết được mình được làm gì, phải làm gì và
làm như thế nào; giúp cho ĐBQH nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm và phương thức hoạt động của mình. Pháp luật về
ĐBQH cũng là công cụ pháp lý, phương tiện cực kỳ quan trọng để bảo đảm
cho ĐBQH hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, bảo đảm cho ĐBQH phát huy
được vai trò, trách nhiệm, tính độc lập, sáng tạo trong hoạt động, không bị
ràng buộc, hạn chế bởi những ảnh hưởng bất lợi từ các cơ quan, tổ chức và cá
nhân có liên quan tới hoạt động đại biểu.
Ngoài ra, pháp luật về ĐBQH cũng góp phần tạo ra những bảo đảm
cần thiết cho hoạt động (như quy định về thời gian mà các cơ quan, tổ chức,
đơn vị hữu quan phải bố trí để ĐBQH kiêm nhiệm hoạt động; về cơ sở vật
chất, phương tiện, kinh phí hoạt động; về bố trí thư ký, cung cấp các dịch vụ
hỗ trợ...) của ĐBQH.
Với việc quy định và cụ thể hóa vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn

của ĐBQH cũng như quy định các phương thức, biện pháp tiến hành và bảo
đảm hoạt động của ĐBQH - chủ thể quan trọng trong cơ cấu của Quốc hội


10

cùng với các chủ thể khác (như UBTVQH, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội...), pháp luật về ĐBQH là phương tiện để xác định mối quan hệ
công tác giữa ĐBQH với các cơ cấu, tổ chức của Quốc hội và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác khi tiến hành hoạt động. Ngoài ra, pháp luật về ĐBQH là
cơ sở pháp lý để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đánh giá hiệu quả hoạt
động của ĐBQH; để cử tri, nhân dân giám sát ĐBQH, bãi nhiệm khi đại biểu
không còn xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân.
Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được bảo đảm và thể hiện trước
tiên, rõ nét nhất qua hoạt động của ĐBQH. Do đó, pháp luật về ĐBQH, nhất
là những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của ĐBQH chính
là những căn cứ, tiêu chí quan trọng làm phương tiện để Quốc hội xem xét,
đánh giá hiệu quả hoạt động của ĐBQH một cách khách quan và chính xác
nhất, đồng thời cũng là cơ sở trong việc những cơ quan nhà nước bảo đảm các
điều kiện để ĐBQH hoạt động. Đó cũng là động lực để đại biểu luôn phải
nâng cao năng lực và trách nhiệm của mình.
Đối với cử tri - những người trực tiếp bỏ phiếu bầu ra ĐBQH nói
riêng và nhân dân cả nước nói chung, pháp luật về ĐBQH là cơ sở pháp lý để
họ giám sát hoạt động của đại biểu và trong trường hợp cần thiết thì bãi nhiệm
ĐBQH khi họ không còn xứng đáng với tín nhiệm của cử tri, nhân dân.
Như vậy, không có pháp luật về ĐBQH thì ĐBQH không thể hoạt
động được. Đồng thời, các quy định này có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp
đến năng lực và trách nhiệm của ĐBQH. Rõ ràng, pháp luật về ĐBQH là một
trong những điều kiện tiên quyết quyết định đến hiệu quả hoạt động của
ĐBQH.

- Mối quan hệ giữa ĐBQH với các cơ quan Chính phủ, chính quyền
địa phương.
Chất lượng hoạt động của ĐBQH còn chịu sự chi phối của mối quan hệ
giữa đại biểu, cơ quan đại biểu công tác với các cơ quan của Chính phủ, với


11

chính quyền địa phương. Điều này thấy rất rõ đối với các đại biểu kiêm
nhiệm. Bởi vì các đại biểu kiêm nhiệm chủ yếu là thuộc cơ quan hành pháp,
quản lý theo nguyên tắc thủ trưởng. Khi đại biểu phải chịu sự ràng buộc về
công tác, lợi ích thì có khi đại biểu khó đưa ra chính kiến của mình. Mặt khác,
có nhiều đại biểu là lãnh đạo ngành, địa phương, ý kiến của họ đưa ra có ảnh
hưởng đến quyền lợi của nhiều người. Chính vì thế, họ cân nhắc trước khi
phát biểu ý kiến.
Đối với đại biểu chuyên trách, mặc dù chỉ hoạt động tại cơ quan của
Quốc hội nhưng không phải vì thế mà có sự độc lập hoàn toàn với các cơ quan
của Chính phủ, với chính quyền địa phương. Nguyên nhân ở đây, nếu loại bỏ
yếu tố lợi ích cá nhân thì còn có lý do vì đảm bảo hiệu quả của sự phối hợp
công tác. Đôi khi họ có tâm lý không muốn phát biểu tại Hội trường vì e ngại
làm khó Chính phủ, khiến việc thẩm tra, giám sát… sẽ bị gây khó khăn.
- Sự ổn định chính trị, mức độ phát triển kinh tế - xã hội. Sự tác động
của môi trường bên ngoài.
Đại biểu là một nghề có sự liên quan trực tiếp và rất lớn đến chính trị.
Do đó, khi chính trị ổn định thì các đại biểu có sự yên tâm và chú tâm hơn khi
hoạt động. Nhà nước Việt Nam hoạt động theo sự lãnh đạo của một Đảng duy
nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam và được đánh giá là đất nước có nền chính
trị ổn định. Chính vì vậy, theo dõi lịch sử Quốc hội các khóa gần đây không
thấy rõ lắm sự ảnh hưởng của sự ổn định hay mất ổn định của hệ thống chính
trị đối với hiệu quả hoạt động của ĐBQH.

Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cũng có nhiều ảnh hưởng đến năng
lực và trách nhiệm của ĐBQH. Bởi vì suy cho cùng, mọi quy định của pháp
luật, trong đó có pháp luật về ĐBQH cũng phải bắt nguồn từ trình độ phát
triển của xã hội. Ngoài ra, ĐBQH cũng là người của cuộc sống, gắn liền với
cuộc sống. Do đó, khả năng công hiến của đại biểu chịu sự chi phối của các
yếu tố như: mức độ ổn định của hệ thống chính trị, sự phát triển của kinh tế,


12

văn hóa, xã hội và khoa học, kỹ thuật… Cần thấy rằng khi kinh tế - xã hội
phát triển, trình độ dân trí được nâng lên thì đại biểu sẽ buộc phải nâng cao
năng lực và trách nhiệm của mình để đáp ứng mong đợi của cử tri. Trong quá
trình hoạt động, đại biểu chịu sự ảnh hưởng của xu thế và đòi hỏi của xã hội
đối với ĐBQH. Xã hội luôn vận động và ở mỗi thời kỳ khác nhau thì yêu cầu
của xã hội cũng khác nhau. Khi xã hội càng phát triển thì yêu cầu đó càng cao.
Đó có thể là yêu cầu đối với quá trình bầu cử và cũng là yêu cầu đối với cả
nhiệm kỳ hoạt động của đại biểu. Nắm bắt được yêu cầu của xã hội, của người
dân chính là yếu tố không thể thiếu khi đại biểu thực hiện chức năng đại diện
của mình.
Bên cạnh đó, phải kể đến sự tác động của những người xung quanh: gia
đình, các ĐBQH khác, đồng nghiệp. Có thể nói, đây là những người có tác
động trực tiếp nhất đến đại biểu. Ngoài ra, yếu tố địa lý cũng ảnh hưởng đến
hoạt động của ĐBQH. Do yếu tố địa lý khác nhau nên chúng ta có thể thấy,
nhìn chung cách làm việc và thể hiện vấn đề của ĐBQH các miền là khác
nhau. Thường thì đại biểu miền Nam có cách thể hiện ý kiến bộc trực, thẳng
thắn hơn so với đại biểu miền Bắc.
1.2.2 Nhân tố chủ quan
- Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực của ĐBQH.
+ Trình độ là yếu tố chủ yếu của năng lực. Nếu không có trình độ tốt

thì không thể có năng lực tốt. Trình độ chính là các kiến thức có được do quá
trình học tập, công tác. Nó gắn liền với bằng cấp, nhưng bằng cấp nhiều khi
không phản ánh chính xác trình độ. Điều này không chỉ vì Việt Nam vẫn còn
những trường hợp mua bằng mà còn vì do đặc trưng hoạt động của đại biểu.
Cụ thể, khi làm nhiệm vụ, đại biểu phải nghiên cứu các tài liệu thuộc nhiều
lĩnh vực khác nhau, chứ không phải riêng nội dung thuộc về chuyên môn của
mình. Trình độ cao chỉ có ý nghĩa giúp đại biểu có khả năng phân tích, nhìn
nhận vấn đề tốt.


13

+ Kinh nghiệm, kỹ năng hoạt động: Tri thức là một quá trình bồi đắp
thường xuyên, do đó có nhiều đại biểu tuy bằng cấp không cao nhưng với tư
chất tốt và những kiến thức, kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình học
tập, công tác thì họ vẫn đảm bảo thực hiện nhiệm vụ. Về vai trò của kinh
nghiệm, kỹ năng hoạt động có thể thấy rất rõ khi so sánh đại biểu tái cử và đại
biểu trúng cử lần đầu. Khi mới làm nhiệm vụ, đại biểu phải mất nhiều thời
gian để nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, bộ máy nhà
nước, làm quen với cách làm việc của Quốc hội và trang bị các kỹ năng hoạt
động cần thiết. Do lĩnh vực các đại biểu phải quan tâm, nghiên cứu là rất rộng,
không chỉ thuộc nội dung chuyên môn của mình nên ngoài tri thức thì các yếu
tố này cũng rất cần thiết, góp phần tạo nên hiệu quả hoạt động của đại biểu.
Ngoài ra, phải kể đến các yếu tố như nền văn hóa của đại biểu, tư chất,
sự ham học hỏi… cũng có vai trò không nhỏ đối với năng lực của đại biểu.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến trách nhiệm của đại biểu.
Điều đầu tiên khi bàn về các yếu tố mang tính chủ quan ảnh hưởng đến
trách nhiệm của ĐBQH phải nói đến nhận thức của đại biểu về vị trí, vai trò
của các đại biểu nói riêng và của Quốc hội nói chung. Nếu không thấy được
các ý nghĩa đó, cho rằng Quốc hội chỉ mang tính hình thức, dù mình làm gì đi

nữa thì cũng không thay đổi được tình hình thì đại biểu sẽ không thể thực hiện
nhiệm vụ của mình một cách tận tâm được.
Bên cạnh đó, bản lĩnh cá nhân cũng ảnh hưởng đến vấn đề trách nhiệm
của đại biểu. Có thể nói, làm đại biểu là một việc khó, chịu nhiều sức ép. Sức
ép đến từ cử tri, từ lãnh đạo Đoàn ĐBQH, thủ trưởng cơ quan, đơn vị nơi đại
biểu công tác…hoặc đơn giản là sức ép của thời gian, yêu cầu phải thực hiện
tốt công việc nơi mình đang công tác và nhiệm vụ đại biểu (đối với đại biểu
kiêm nhiệm). Khi đại biểu nói lên nguyện vọng của cử tri thì có khi lại động
chạm đến lợi ích của bộ, ngành, địa phương hoặc ảnh hưởng đến chính quyền
lợi của bản thân mình. Mặt khác, đại biểu phái có chính kiến, bản lĩnh trước


14

các sự vận động hành lang. Chính vì thế, đại biểu cần kiên trì theo đuổi những
vấn đề mà mình thấy đúng. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết là phải “lên
gân” tại các diễn đàn Quốc hội mà quan trọng là đại biểu cần tìm được cách
làm hiệu quả để đạt mục đích của mình.
Ngoài ra, tính cách và tâm lý cá nhân cũng có vai trò không nhỏ ảnh
hưởng đến trách nhiệm của đại biểu. Ở mỗi đại biểu khác nhau thì yếu tố này
cũng khác nhau. Nhưng có thể nói, người trách nhiệm cao sẽ luôn ý thức được
về trọng trách của mình và họ là người của hành động để cụ thể hóa trách
nhiệm đó bằng những việc làm trên thực tế. Thái độ e dè, nể nang, làm qua
quýt cho xong không thể có trong tính cách người đại biểu có trách nhiệm.
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực và trách nhiệm của ĐBQH
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
Theo chúng tôi, việc nâng cao năng lực và trách nhiệm của ĐBQH
đang trở nên cấp bách, xuất phát từ những lý do sau đây:
Một là, hiệu quả hoạt động của Quốc hội nhìn chung còn thấp.
Hiệu quả hoạt động của Quốc hội phụ thuộc chủ yếu vào hiệu quả hoạt

động của từng ĐBQH. Điều 4 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 quy định:
"...Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được bảo đảm bằng hiệu quả của các kỳ
họp của Quốc hội, hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân
tộc, Ủy ban của của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc
hội". Nhưng, suy cho cùng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan của Quốc
hội, của Quốc hội chính là do chất lượng hoạt động của từng ĐBQH quyết
định, bởi vì Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội
và Đoàn ĐBQH cũng do các ĐBQH hợp thành. Khi từng tế bào mạnh thì cả
cơ thể mới mạnh, cũng vậy khi từng đại biểu hoạt động tích cực thì Quốc hội
mới mạnh, đáp ứng yêu cầu của người dân. Việc phát huy yếu tố cá nhân là vô
cùng cần thiết. Những lần sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Quốc hội năm 1992,
2001 dường như mới chỉ chủ yếu chú ý đến việc đổi mới tổ chức của Quốc


15

hội. Mặc dù Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 đã bổ sung những quy định
quan trọng về việc tỷ lệ ĐBQH chuyên trách, thời gian phải bố trí để đại biểu
kiêm nhiệm hoạt động, thẩm quyền của ĐBQH… nhưng cũng chưa thực sự
tạo nhiều chuyển biến trong hoạt động của các ĐBQH. Theo nhiều chuyên gia
cho rằng, nguyên nhân chính là vẫn chưa đủ hành lang pháp lý, các cơ chế,
điều kiện đảm bảo để đại biểu phát huy vị trí, vai trò của mình trong cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất.
Hai là, năng lực và trách nhiệm của ĐBQH nhìn chung chưa đáp ứng
được yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Nghiên cứu các khóa Quốc hội gần đây cho thấy, chất lượng ĐBQH đã
được quan tâm, nâng cao hơn, đại biểu có trình độ đại học và trên đại học
chiếm đại đa số, đại biểu chuyên trách đã tăng lên, tỷ lệ đại biểu tái cử được
chú trọng. Tuy nhiên, chất lượng đại biểu còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến
việc thực hiện các chức năng của Quốc hội. Vị trí, vai trò của ĐBQH còn

mang nhiều tính hình thức, đại biểu chưa thực sự gần gũi với cử tri, đại diện
cho tiếng nói của cử tri. Sự bất cập thể hiện ở tính độc lập, khả năng phân tích,
đề xuất chính sách của đại biểu có khi chưa được tốt. Bên cạnh đó, còn nhiều
đại biểu thiếu kỹ năng, kinh nghiệm hoạt động. Một số đại biểu kiêm nhiệm
dành thời gian làm nhiệm vụ đại biểu còn ít. Có tình trạng đại biểu vừa là cán
bộ chủ chốt trong hệ thống hành pháp, tư pháp, vừa là ĐBQH dễ dẫn đến tình
trạng thiếu sự rạch ròi trong hoạt động, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả
hoạt động chung của Quốc hội. Trình độ chuyên môn và khả năng tổ chức
thực hiện công việc của từng đại biểu có sự chênh lệch đáng kể. Số lượng và
tỷ lệ đại biểu kiêm nhiệm trong Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khá cao nên
nhiều thành viên không tham dự các cuộc họp, không tham gia các đoàn giám
sát, gây ảnh hưởng đến chế độ làm việc tập thể, nguyên tắc quyết định theo đa
số, ảnh hưởng đến chất lượng công việc… Tình trạng này có nguyên nhân sâu


16

xa là năng lực và trách nhiệm của đại biểu chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra
đối với việc thực hiện trọng trách của một ĐBQH.
Ba là, yêu cầu và nhiệm vụ xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân mà một trong
những tiêu chí cơ bản của nó là có một hệ thống pháp luật ngày càng toàn
diện, đồng bộ, khoa học và thực tiễn. Trong bối cảnh đó, việc nâng cao năng
lực và trách nhiệm của ĐBQH sẽ là một điều kiện quan trọng để tạo ra được
một hệ thống pháp luật như vậy.
Bốn là, sự quốc tế hóa hoạt động của Quốc hội và hội nhập pháp luật
quốc gia với pháp luật quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình
hợp tác quốc tế sâu rộng. Có nhiều điều ước quốc tế được ký kết hoặc tham
gia. Sự hợp tác, giao lưu giữa nghị viện các nước trong khu vực và thế giới
được tăng cường. Điều này, đòi hỏi các đại biểu phải có trình độ về luật pháp

quốc tế và luật pháp trong nước để đảm bảo các luật của Việt Nam khi được
ban hành vừa phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội và hệ thống pháp luật
trong nước, vừa phù hợp với các điều ước quốc tế Việt Nam đã ký kết hoặc
tham gia, đồng thời phù hợp với xu thế của thời đại.
Cũng cần nhìn nhận rằng việc nâng cao năng lực và trách nhiệm của
ĐBQH trong bối cảnh hiện nay có những thuận lợi và khó khăn nhất định.
Về thuận lợi: Sự quan tâm của toàn Đảng, Nhà nước đối với Quốc hội
nói chung, ĐBQH nói riêng là một thuận lợi rất to lớn đối với hoạt động của
đại biểu. Một biểu hiện rõ rệt là hệ thống pháp luật về ĐBQH đang dần được
hoàn thiện. Mặc dù chế độ, chính sách đối với ĐBQH chưa đáp ứng được yêu
cầu nhưng đã được cải thiện nhiều, tạo điều kiện thuận lợi để đại biểu, nhất là
đại biểu chuyên trách yên tâm công tác…
Kinh tế - xã hội phát triển, nhất là sự phát triển của công nghệ thông tin
đang là một cơ hội lớn để các đại biểu có thể tìm tài liệu nhằm nâng cao trình
độ của mình hay phục vụ công việc. Mức sống, dân trí nâng cao, sự phản hồi


×