Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.88 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ MAI QUYÊN

CƠ CHẾ TỰ KHAI NỘP TRONG PHÁP LUẬT
QUẢN LÝ THUẾ Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

HÀ NỘI - 2011


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................... 2
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ THUẾ VÀ CƠ
CHẾ TỰ KHAI TỰ NỘP THUẾ. ................................................................... 6
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ ......................... 6
1.1.1. Bản chất của thuế và mối quan hệ với hoạt động quản lý thuế ............ 6
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại thuế ................................................. 6
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa thuế với hoạt động quản lý thuế ............................ 8


1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức quản lý thuế............................... 9
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động quản lý thuế ........................... 9
1.1.2.2. Các hình thức quản lý thuế .................................................................... 10
1.1.3. Quan hệ pháp luật quản lý thuế ................................................................ 11
1.1.3.1. Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật quản lý thuế............................. 11
1.1.3.2. Khách thể của quan hệ pháp luật quản lý thuế .................................. 14
1.1.3.3. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật quản
lý thuế ....................................................................................................................... 14
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƠ CHẾ TỰ KHAI TỰ NỘP THUẾ
VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CÓ LIÊN QUAN ................................. 16
1.2.1. Những vấn đề chung về cơ chế tự khai tự nộp thuế ............................. 16
1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của cơ chế tự khai tự nộp thuế.................... 16
1.2.1.2. Những ưu điểm và hạn chế của cơ chế tự khai tự nộp thuế............. 17
1.2.1.3. Điều kiện thực hiện cơ chế tự khai tự nộp thuế hiệu quả................. 19
1.2.2. Các quy định pháp lý có liên quan đến cơ chế tự khai, tự nộp........... 21
1.2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong cơ chế tự khai, tự nộp .. 21

Lê Mai Quyên – CH16


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

1.2.2.2. Quy trình thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp trong quản lý thuế ....... 31
Kết luận chương I ......................................................................................... 42
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ TỰ
KHAI TỰ NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM ......................................................... 43
2.1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ TỰ KHAI
TỰ NỘP TRONG QUẢN LÝ THUẾ Ở VIỆT NAM ................................ 43
2.1.1. Những hạn chế, bất cập của quy định về đăng ký, kê khai, nộp thuế ...... 43
2.1.2. Những hạn chế, bất cập của quy định về quản lý thông tin người nộp

thuế ........................................................................................................................... 47
2.1.3. Những hạn chế, bất cập của quy định về thu nợ và cưỡng chế nợ thuế
................................................................................................................................... 48

2.1.4. Những hạn chế, bất cập của quy định về công tác thanh tra, kiểm tra
thuế............................................................................................................................ 50
2.2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ TỰ KHAI TỰ
NỘP TRONG QUẢN LÝ THUẾ Ở VIỆT NAM ...................................... 51
2.2.1. Khái quát sự hình thành cơ chế tự khai tự nộp thuế ở Việt Nam ....... 51
2.2.2. Tình hình thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế năm 2007 tại một số
địa phương ............................................................................................................... 52
2.2.2.1. Tình hình thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế tại Cục Thuế TP Hồ
Chí Minh .................................................................................................................. 52
2.2.2.2. Tình hình thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế tại Cục Thuế Hà
Nội .......................................................................................................................... 55
2.2.3. Những khó khăn, vướng mắc chủ yếu trong quá trình thực hiện cơ
chế tự khai, tự nộp thuế ở Việt Nam .................................................................. 58
2.2.3.1. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, còn nhiều hạn chế ..................... 59
2.2.3.2. Trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ cán bộ không đáp ứng
được yêu cầu của quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp ........................... 59

Lê Mai Quyên – CH16


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

2.2.3.3. Thiếu thông tin và kỹ năng phân tích thông tin trong công tác quản
lý thuế, đặc biệt là các thông tin liên quan đến người nộp thuế ................... 60
2.2.3.4. Công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT, công tác thanh, kiểm tra, công
tác thu nợ và cưỡng chế thuế đạt hiệu quả chưa cao ...................................... 61

2.2.3.5. Công nghệ quản lý thuế theo cơ chế mới chưa đáp ứng được yêu
cầu ............................................................................................................................. 63
2.3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CƠ CHẾ
TỰ KHAI, TỰ NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM .............................................. 63
2.3.1. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn áp dụng cơ chế tự
khai, tự nộp thuế ở Việt Nam............................................................................... 63
2.3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện cơ chế tự khai,
tự nộp trong hoạt động quản lý thuế ở Việt Nam............................................. 64
2.3.2.1. Hoàn thiện các quy định liên quan đến đăng ký, kê khai, nộp thuế ...... 64
2.3.2.2. Hoàn thiện các quy định liên quan đến quản lý thông tin người nộp
thuế ........................................................................................................................... 66
2.3.2.3. Hoàn thiện các quy định liên quan đến quản lý nợ và cưỡng chế nợ
thuế ........................................................................................................................... 67
2.3.2.4. Hoàn thiện các quy định liên quan đến thanh tra, kiểm tra thuế .......... 68
2.3.2.5. Nâng cao ý thức pháp luật và trách nhiệm xã hội của người nộp
thuế trong quá trình hành thu thuế ..................................................................... 68
2.3.2.6. Đẩy mạnh công tác hướng dẫn, hỗ trợ người nộp thuế thực hiện cơ
chế tự khai, tự nộp thuế......................................................................................... 69
2.3.2.7. Tăng cường công tác thanh tra thuế, kiểm tra thuế .......................... 69
2.3.2.8. Thông tin tuyên truyền cho người nộp thuế về cơ chế tự khai, tự
nộp thuế.................................................................................................................... 70
Kết luận chương II ....................................................................................... 71
KẾT LUẬN.................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Mai Quyên – CH16

73


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. NSNN : ngân sách nhà nước
2. TKTN : tự khai tự nộp
3. NNT : người nộp thuế
4. CQQLT : cơ quan quản lý thuế
5. TP : thành phố
6. VBPL : văn bản pháp luật
7. TNCN : thu nhập cá nhân
8. GTGT : giá trị gia tăng
9. TTĐB : tiêu thụ đặc biệt
10. TNDN : thu nhập doanh nghiệp
11. CSKD : cơ sở kinh doanh

Lê Mai Quyên – CH16

1


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngày 1/11/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam
đã thực sự tham gia một cách đầy đủ vào sân chơi toàn cầu cùng với những
qui tắc và luật lệ khắt khe của nó. Chính vì vậy trong những năm gần đây,
Đảng và Nhà nước bên cạnh việc tiến hành sửa đổi, hoàn thiện, xây dựng
thêm nhiều hệ thống luật mới cũng đã không ngừng cải cách nền hành chính
nhà nước theo hướng đơn giản hóa, phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực

quốc tế…để quá trình hội nhập của chúng ta diễn ra nhanh chóng và thuận lợi
hơn. Trong đó, cải cách hành chính thuế là một trong những nội dung quan
trọng được đặc biệt quan tâm và đánh dấu bằng việc Luật Quản lý thuế đã
được thông qua tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa XI vào ngày 22/11/2006.
Trước khi Luật Quản lý thuế có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2007, các
qui định về quản lý thuế còn phân tán tại nhiều văn bản pháp luật nên một số
nội dung chưa thống nhất giữa các luật thuế, chưa bình đẳng gây khó khăn
cho người nộp thuế và cơ quan thuế trong việc chấp hành pháp luật thuế. Luật
quản lý thuế ra đời đã thiết lập một khung pháp lý chung, áp dụng thống nhất
trong quá trình thực thi tất cả các chính sách thuế, khắc phục được tình trạng
chia cắt, tách biệt về phương thức quản lý giữa các loại thuế. Tuy nhiên, điểm
đột phá trong Luật quản lý thuế 2007 chính là các quy định về cơ chế quản lý
thuế mới – cơ chế tự khai, tự nộp; theo đó người nộp thuế được chủ động và
tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của mình theo qui định của pháp luật; người
nộp thuế tự kê khai, tự tính toán số thuế phải nộp và tự nộp thuế vào ngân
sách nhà nước theo thời gian luật định; cơ quan quản lý thuế không can thiệp
vào việc kê khai, nộp thuế của người nộp thuế trừ khi phát hiện ra sai sót, vi
phạm hoặc có các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật thuế. Với cơ chế quản lý
mới này, ý thức pháp luật của người nộp thuế được nâng cao; cách thức quản
lý minh bạch, công khai hơn và thủ tục quản lý đơn giản, rõ ràng hơn phù hợp
với yêu cầu cải cách hành chính nhà nước và thông lệ quốc tế. Song đây cũng
là một bước thay đổi hoàn toàn so với cơ chế quản lý thuế trước đây khi cơ
Lê Mai Quyên – CH16

2


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

quan quản lý thuế dựa trên việc kiểm tra sẽ ấn định và thông báo số thuế phải

nộp cho người nộp thuế. Chính những điểm mới của cơ chế quản lý thuế này
đã đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn
diện các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng nó.
Sau khi Luật Quản lý thuế có hiệu lực, cơ chế tự khai tự nộp được triển
khai thí điểm tại cục thuế Quảng Ninh, cục thuế TP Hồ Chí Minh và cho đến
nay đã được mở rộng áp dụng tại hầu khắp các cục thuế trong cả nước. Trong
gần hai năm thực hiện, cơ chế tự khai tự nộp đã thể hiện được tính ưu việt
cùng những thành công mà nó đạt được trong quản lý nhà nước về thu thuế.
Tuy nhiên, cũng trong thời gian này, nó cũng bắt đầu bộc lộ những tồn tại và
công tác quản lý thuế theo cơ chế này cũng đã xuất hiện những khó khăn,
thách thức không nhỏ trong khi các qui định của Luật Quản lý thuế chưa bao
quát hết và các yêu cầu về cơ sở vật chất, trình độ quản lý của cơ quan nhà
nước đặc biệt là cơ quan thuế cũng chưa đáp ứng đầy đủ. Thực trạng này dẫn
đến việc phát sinh nhiều bất cập, vướng mắc cần được tìm hiểu, nghiên cứu,
đánh giá để từ đó xây dựng các biện pháp hoàn thiện và đưa ra các biện pháp
giải quyết.
Với những lý do nêu trên em đã lựa chọn đề tài luận văn thạc sỹ của mình
là: “Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế ở Việt Nam” với
mong muốn tìm hiểu và đưa ra những nhận định khách quan về một chế định
pháp luật còn tương đối mới này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Như đã đề cập ở phần trên, cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý
thuế là một vấn đề còn khá mới mẻ ở Việt Nam nên chưa có một công trình
nghiên cứu khoa học nào thực sự nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về nó.
Nếu có chỉ là những bài viết được đăng trên các tạp chí pháp luật của một số
nhà khoa học như bài viết “Thông tin về người nộp thuế trong pháp luật quản
lý thuế ở nước ta hiện nay’ của Th.S Vũ Văn Cương, hay bài viết “ Pháp luật
về kiểm tra thanh tra thuế ở Việt Nam” của Th.S Vũ Ngọc Hà và ThS. Vũ
Văn Cương… Nhìn chung những bài viết này cũng chỉ mới đưa ra một số tìm


Lê Mai Quyên – CH16

3


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

hiểu, đánh giá về một khía cạnh nhỏ trong các qui định về quản lý thuế theo
cơ chế tự khai, tự nộp hiện hành.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
Về đối tượng nghiên cứu của đề tài, bao gồm: quan điểm pháp lý về cơ
chế tự khai tự nộp thuế; thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật quản lý
thuế theo cơ chế tự khai tự nộp ở Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu, Luận văn tập trung nghiên cứu những khía cạnh
pháp lý của cơ chế tự khai tự nộp thuế trên cơ sở lý luận và các qui định trong
các văn bản pháp luật về thuế như Luật Quản lý thuế 2007 và các văn bản
hướng dẫn thi hành (Nghị định 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính
phủ qui định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế, Nghị định số
98/2007/NĐ-CP ngày 8/6/2007 của Chính phủ qui định xử lý vi phạm pháp
luật về thuế và cưỡng chế thi hành pháp luật về thuế, Thông tư 60/2007/TTBTC ngày 14/6/2007 của Bộ tài chính về việc hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Quản lý thuế và hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP,
Thông tư số 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của Bộ tài chính về việc hướng
dẫn thi hành Luật Quản lý thuế về đăng ký thuế…).
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phối hợp nhiều phương
pháp khác nhau như: phân tích, tổng hợp, luật học so sánh, khảo sát thực tiễn.
Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực hiện trên nền tảng của
phương pháp duy vật biện chứng; trên cơ sở các quan điểm, đường lối chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn từ khía cạnh pháp lý của cơ chế tự khai tự nộp thuế, những vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng cơ chế tự khai tự nộp thuế ở Việt Nam, từ đó tìm ra
phương hướng và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các qui định của pháp
luật về cơ chế tự khai tự nộp thuế ở Việt Nam. Như vậy, về cơ bản luận văn
có 3 nhiệm vụ cụ thể như sau:
Lê Mai Quyên – CH16

4


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

Thứ nhất, làm rõ bản chất pháp lý của cơ chế tự khai tự nộp thuế và cơ sở
lý luận của pháp luật điều chỉnh cơ chế tự khai tự nộp thuế.
Thứ hai, phân tích thực trạng áp dụng các qui định của pháp luật về cơ
chế tự khai tự nộp thuế, từ đó nêu được những bất cập, hạn chế trong các qui
định của pháp luật về vấn đề này.
Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn
đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện các qui định của pháp luật về cơ chế tự
khai tự nộp thuế.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Dự kiến luận văn sẽ có những kết quả mới sau đây:
- Tiếp tục làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về cơ chế tự khai tự nộp thuế,
những đặc trưng pháp lý của cơ chế này.
- Những bất cập, vướng mắc trong các qui định của pháp luật điều chỉnh
cơ chế tự khai tự nộp thuế, từ đó đề ra phương hướng hoàn thiện pháp luật và
giải pháp nâng cao hiệu quả cơ chế tự khai tự nộp thuế.
7. Kết cấu của luận văn
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ THUẾ VÀ CƠ

CHẾ TỰ KHAI TỰ NỘP THUẾ.
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ
TỰ KHAI TỰ NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

Lê Mai Quyên – CH16

5


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ THUẾ VÀ
CƠ CHẾ TỰ KHAI TỰ NỘP THUẾ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ
1.1.1. Bản chất của thuế và mối quan hệ với hoạt động quản lý thuế
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại thuế
Lịch sử thuế cho thấy rằng sự ra đời của thuế là một tất yếu khách quan
gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Để duy trì sự tồn tại
của mình và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ về kinh tế, xã hội, chính trị,
an ninh quốc phòng... thì Nhà nước cần phải có những nguồn lực vật chất nhất
định. Việc huy động các nguồn lực vật chất đó được Nhà nước thực hiện bằng
nhiều cách khác nhau, trong đó có hình thức đóng góp bắt buộc thể hiện dưới
dạng thuế.
Trong từng giai đoạn cụ thể và theo từng khía cạnh nghiên cứu, thuế
được định nghĩa tương đối khác nhau. Ở mức độ khái quát, có thể hiểu “Thuế
là khoản đóng góp bằng tiền mà các tổ chức, cá nhân phải nộp cho Nhà nước
theo nguyên tắc tính bắt buộc, không hoàn trả và dựa trên cơ sở pháp luật”
[12, tr.16].
Với tư cách là một hiện tượng thuộc phạm trù xã hội, thuế có những thuộc

tính tương đối ổn định qua từng giai đoạn phát triển và biểu hiện thành những
đặc trưng riêng có của nó, qua đó giúp ta phân biệt thuế với các công cụ khác.
Những đặc trưng đó là:
Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào NSNN. Tính bắt buộc là
thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế với các khoản thu tài
chính khác trên cơ sở tự nguyện tạo nên NSNN. Điều này có ý nghĩa pháp lý
quan trọng khi ban hành pháp luật về thuế và chi phối phương pháp thực hiện
thu thuế của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tính bắt buộc thể hiện ở
Lê Mai Quyên – CH16

6


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

chỗ, một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho nhà
nước mà không phải là quan hệ thanh toán dù trong hay ngoài hợp đồng, hành
động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của công dân. Mặt khác, cơ
quan thu thuế khi thay mặt nhà nước thực hiện các hành vi nhất định cũng
không được phép lựa chọn thực hiện hay không thực hiện hành vi thu thuế
hoặc có sự phân biệt đối xử với người nộp thuế.
Thứ hai, thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp. Tính chất này thể hiện ở
chỗ: thuế được Nhà nước hoàn trả gián tiếp thông qua việc cung cấp các hàng
hóa và dịch vụ công cộng cho xã hội, trong đó có những người nộp thuế. Sự
không hoàn trả trực tiếp được thể hiện kể cả trước và sau khi thu thuế. Điều
đó thể hiện ở chỗ: trước khi thu thuế, nhà nước không hề cung ứng trực tiếp
một giá trị vật chất nào cho người nộp thuế. Còn sau khi nộp thuế, nhà nước
cũng không hề có sự bồi hoàn trực tiếp về lợi ích vật chất cho người nộp thuế.
Thứ ba, thuế bao giờ cũng được ban hành, sửa đổi hay bãi bỏ bằng một
đạo luật. Nói cách khác, thuế được thu nộp dựa trên cơ sở pháp luật.

Ở mỗi quốc gia, hệ thống thuế được cấu thành bởi nhiều loại thuế khác
nhau, trong đó bao gồm 2 nhóm cơ bản là thuế trực thu và thuế gián thu [11,
tr.14].
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của
người nộp thuế. Nói cách khác, đối với thuế trực thu, người nộp thuế đồng
thời cũng là người chịu thuế. Theo thông lệ, các sắc thuế trực thu bao gồm:
thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế thu nhập cá nhân; thuế trước bạ; thuế sử
dụng đất...
Thuế gián thu là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập hay tài sản
của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hoá,
dịch vụ. Người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ đó là người chịu loại thuế này. Ở
Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, các sắc thuế gián thu thường bao
gồm: thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường...
Thực tế cho thấy, việc phân loại thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa
Lê Mai Quyên – CH16

7


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

pháp lý quan trọng, nhất là đối với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
thuế, bao gồm các văn bản luật điều chỉnh các sắc thuế và văn bản quy định
về quản lý thuế.
Ngoài tiêu chí phân loại trên, còn có nhiều tiêu chí phân loại thuế khác.
Ví dụ như căn cứ vào đối tượng tính thuế có thuế tài sản, thuế thu nhập và
thuế tiêu dùng; căn cứ vào thẩm quyền ban hành chính sách thuế có thuế
trung ương, thuế địa phương; căn cứ vào đặc trưng của biểu thuế có thuế đánh
theo tỷ lệ %, thuế đánh trên mức tuyệt đối... Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên

cứu của luận văn chỉ xét phân loại thuế theo mục đích điều tiết.
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa thuế với hoạt động quản lý thuế
Đối với từng sắc thuế thuộc các nhóm thuế nêu trên, pháp luật quy định
hoàn cảnh phát sinh nghĩa vụ thuế, cơ sở chịu thuế, cách xác định nghĩa vụ
thuế, trường hợp được ưu đãi thuế, miễn thuế, giảm thuế và ai là người phải
nộp thuế vào NSNN. Các quy định này phản ánh nội dung, bản chất, chức
năng của từng loại thuế, được gọi chung là quy định về chính sách thuế. Bên
cạnh đó, pháp luật cũng quy định cách thức người nộp thuế thực hiện các thủ
tục hành chính thuế để chuyển giao nguồn lực tài chính vào quỹ NSNN, các
chế tài xử lý trong trường hợp người nộp thuế không chấp hành nghĩa vụ
thuế; trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá
trình chấp hành chính sách thuế... Nói chung, các quy định này thuộc phạm vi
quản lý thuế.
Hoạt động quản lý thuế có vai trò đảm bảo cho chính sách thuế được thực
thi nghiêm chỉnh trong thực tiễn đời sống kinh tế xã hội. Trải qua thời gian,
thuế luôn có sứ mệnh thực hiện những chức năng cao cả của nó như điều tiết
kinh tế vĩ mô, phục vụ mục tiêu tăng trưởng của đất nước hay phân phối thu
nhập nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Tuy
nhiên, các mục tiêu này chỉ trở thành hiện thực nếu các cơ quan quản lý thuế
thực hiện điều hành, giám sát tốt để ai là người nộp thuế thì phải nộp thuế và
người nộp thuế phải nộp đúng, nộp đủ, nộp đúng hạn số thuế phải nộp vào
NSNN. Vì vậy, có thể khẳng định, hoạt động quản lý thuế có vai trò quyết
định cho sự thành công của từng chính sách thuế.
Lê Mai Quyên – CH16

8


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam


1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức quản lý thuế
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động quản lý thuế
Theo từ điển Hán Việt, “quản lý” là việc trông nom, sắp đặt công việc
trong một tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu nhất định [10, tr.555]. Với
ý nghĩa là một lĩnh vực của hoạt động quản lý, công tác quản lý thuế có thể
được hiểu là hoạt động tổ chức, chấp hành và điều hành các công việc liên
quan đến quá trình thu nộp thuế vào NSNN, nhằm đạt được các mục tiêu nhất
định. Việc hiểu đúng bản chất của quản lý thuế sẽ có tác dụng tốt trong việc
thể chế hóa bằng pháp luật đối với công tác quản lý thuế, góp phần nâng cao
tính hiệu quả trong công tác quản lý thuế và đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch
huy động nguồn thu cho NSNN hàng năm.
Xét về phương diện học thuật, quản lý thuế có những đặc trưng cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, chủ thể tham gia quan hệ quản lý thuế bao gồm cơ quan quản lý
thuế các cấp và người nộp thuế. Theo quan niệm cũ trước đây, chủ thể quản lý
thuế chỉ bao gồm cơ quan quản lý thuế các cấp, còn người nộp thuế chỉ đóng
vai trò là đối tượng bị quản lý thuế. Tuy nhiên, theo quan điểm hiện đại, cả
hai loại chủ thể này đều có thể tham gia quan hệ quản lý thuế vừa với tư cách
là chủ thể quản lý thuế, vừa là đối tượng bị quản lý, giám sát trong quá trình
thực hiện pháp luật thuế. Điều này có nghĩa là các bên tham gia quan hệ quản
lý thuế đều có quyền kiểm tra, giám sát lẫn nhau, đảm bảo cho việc tuân thủ
pháp luật về thuế được hiệu quả nhất.
Thứ hai, khách thể của quan hệ quản lý thuế chính là các lợi ích mà các
bên nhằm đạt tới khi tham gia vào quan hệ quản lý thuế. Các lợi ích này đôi
khi có thể trùng lặp với các mục tiêu cần đạt được trong công tác quản lý
thuế, chẳng hạn như tính công khai, minh bạch, tính kinh tế và tính hiệu quả
của việc quản lý thuế…
Thứ ba, đối tượng của công tác quản lý thuế chính là hành vi tuân thủ
pháp luật thuế của các bên liên quan. Sở dĩ có thể coi đối tượng quản lý thuế
chính là hành vi tuân thủ pháp luật thuế của các chủ thể có liên quan, bởi lẽ,

Lê Mai Quyên – CH16

9


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

suy cho cùng mục tiêu cơ bản của việc quản lý thuế chính là đòi hỏi các bên
liên quan phải tuân thủ pháp luật thuế.
Để tiến hành công tác quản lý thuế, Nhà nước phải ban hành pháp luật để
quy định về những quyền mà chủ thể liên quan được phép làm và những
nghĩa vụ pháp lý mà họ phải thực hiện. Thông qua việc kiểm tra, giám sát và
xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó, việc quản lý
thuế mới được thực hiện một cách hiệu quả.
1.1.2.2. Các hình thức quản lý thuế
Hệ thống pháp luật thuế Việt Nam được hình thành và hoàn chỉnh cơ bản
trong thời kỳ đổi mới của đất nước. Trải qua hai lần cải cách và hoàn thiện,
hiện nay Việt Nam đã có hệ thống chính sách thuế tương đối đồng bộ, có
phạm vi điều chỉnh toàn diện đến các quan hệ kinh tế xã hội, bao gồm các sắc
thuế thuộc nhóm thuế trực thu và nhóm thuế gián thu.
Ở mức độ khái quát, có thể nhận thấy sự hình thành và phát triển các hình
thức quản lý thuế ở Việt Nam đã trải qua 2 giai đoạn. Cụ thể là:
Trong giai đoạn trước năm 2007, mỗi đạo luật về thuế đều bao gồm các
quy định về nội dung của từng sắc thuế, cũng như các quy định về hình thức
quản lý thuế. Các văn bản pháp luật về thuế trong giai đoạn này đều quy định
song song 2 hình thức quản lý thuế, đó là:
1. Quản lý thuế theo phương thức khoán: Theo phương thức này, cơ quan
quản lý thuế tiến hành khảo sát tình hình kinh doanh của người nộp thuế để
xác định mức thuế khoán trong kỳ và sau đó thông báo thuế cho người nộp
thuế. Người nộp thuế căn cứ vào mức thuế khoán trong kỳ để thực hiện nộp

tiền thuế vào NSNN theo thông báo của cơ quan quản lý thuế.
2. Quản lý thuế theo phương thức thông báo thuế: Theo phương thức này,
người nộp thuế tiến hành kê khai trên tờ khai mẫu do cơ quan thuế cấp và nộp
tờ khai thuế cho cơ quan thuế. Căn cứ vào tờ kê khai của người nộp thuế, cơ
quan quản lý thuế tiến hành kiểm tra, tính thuế và thông báo số thuế phải nộp
trong kỳ cho người nộp thuế. Căn cứ vào thông báo thuế, người nộp thuế thực
hiện nghĩa vụ nộp tiền thuế vào NSNN theo thông báo của cơ quan quản lý
Lê Mai Quyên – CH16

10


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

thuế.
Tuy nhiên, sau một thời gian dài áp dụng 2 hình thức quản lý thuế trên, đã
xuất hiện nhiều bất cập như thủ tục hành chính rườm rà, không phát huy được
trách nhiệm của người nộp thuế, việc thu thuế không minh bạch, công khai...
Trong giai đoạn từ năm 2007 trở đi, việc quản lý thuế đã có nhiều thay
đổi mà bằng chứng chính là việc ban hành Luật quản lý thuế. Trong khuôn
khổ chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010, cùng với việc ban
hành Luật Quản lý thuế, hầu hết các đạo luật về thuế cũng đã được sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện theo hướng tách bạch giữa các quy định về nội dung chính
sách thuế với các quy định về hình thức, thủ tục quản lý thuế.
Theo Luật Quản lý thuế, bên cạnh hình thức khoán thuế vẫn được áp dụng
đối với một số trường hợp thu thuế cụ thể, đã xuất hiện một hình thức quản lý
thuế mới thay thế cho hình thức “thông báo thuế” với nhiều hạn chế trước
đây. Hình thức này được gọi là hình thức quản lý thuế theo “cơ chế tự khai tự
nộp”, theo đó người nộp thuế tự tính thuế, tự kê khai thuế và tự nộp thuế vào
NSNN theo số thuế đã kê khai. Cơ quan quản lý thuế thực hiện giám sát và

kiểm tra việc tính thuế, khai thuế và nộp thuế của người nộp thuế để phát hiện
vi phạm pháp luật và tiến hành xử lý đối với các hành vi vi phạm.
1.1.3. Quan hệ pháp luật quản lý thuế
1.1.3.1. Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật quản lý thuế
Theo cách hiểu truyền thống, quan hệ pháp luật quản lý thuế là quan hệ
pháp luật hành chính giữa một bên là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền (chủ thể quản lý) và bên kia là các tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý
(bao gồm các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế và các chủ thể khác có liên quan).
Tuy nhiên, theo quan niệm hiện đại đang ngày càng được nhiều người
thừa nhận, quan hệ pháp luật quản lý thuế không còn thuần túy mang bản chất
là quan hệ pháp luật hành chính nữa, vì trong xã hội hiện đại ngày nay (một
số ý kiến cho rằng nên gọi đó là xã hội dân sự), Nhà nước có xu hướng
chuyển đổi từ mô hình “cơ quan cai trị” sang mô hình “Nhà nước phục vụ”.
Theo mô hình này, Nhà nước không chỉ đóng vai trò là “chủ thể quản lý” mà
Lê Mai Quyên – CH16

11


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

còn có thể là “đối tượng bị quản lý” nữa, xét trong mối quan hệ với người nộp
thuế. Nói cách khác, theo quan niệm hiện đại thì cả Nhà nước và người nộp
thuế đều có đồng thời hai tư cách pháp lý, vừa là chủ thể quản lý, vừa là chủ
thể bị quản lý. Theo lý thuyết này, Nhà nước có quyền và có trách nhiệm
trong việc quản lý, giám sát người nộp thuế trong việc thực hiện pháp luật
thuế, nhưng đồng thời Nhà nước cũng bị người nộp thuế “giám sát lại” thông
qua các cơ chế hiệu quả như việc thực thi quyền khiếu nại, tố cáo, quyền khởi
kiện các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước và công chức
nhà nước, quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường…

Theo cả hai cách hiểu trên đây, quan hệ pháp luật quản lý thuế luôn có sự
tham gia của hai loại chủ thể, đó là các cơ quan quản lý thuế (đại diện cho
Nhà nước) và người nộp thuế.
Cơ quan quản lý thuế
Cơ quan quản lý thuế là các cơ quan trong hệ thống cơ quan tài chính nhà
nước, có trách nhiệm thực hiện hoạt động quản lý thuế và tiến hành thu thuế,
lệ phí, phí trong cả nước. Nhóm chủ thể này bao gồm cơ quan thuế và cơ quan
hải quan. [13, tr.297]
Cơ quan thuế quản lý tất cả các khoản thu từ thuế, phí (trừ các khoản thu
từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu) và được tổ chức theo ngành dọc từ Trung
ương đến quận, huyện:
- Tại Trung ương có Tổng cục Thuế. Tổng cục Thuế là cơ quan trực thuộc
Bộ Tài chính, thực hiện nhiệm vụ giúp Bộ Tài chính nghiên cứu, hoạch định
chính sách thuế và soạn thảo các văn bản pháp quy về thuế; chỉ đạo và tổ
chức thực hiện thống nhất trong cả nước công tác quản lý thu thuế và thu khác
đối với mọi thành phần kinh tế.
- Tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Cục Thuế tỉnh, thành phố
(gọi chung là Cục Thuế). Cục Thuế là cơ quan chuyên môn thuộc Tổng cục
Thuế, có nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo và trực tiếp thực hiện thống nhất công
tác quản lý thu thuế và thu khác trên địa bàn được phân công.
- Tại quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh, thành phố có Chi cục thuế quận,
Lê Mai Quyên – CH16

12


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

huyện, thị xã (gọi chung là Chi cục Thuế). Chi cục Thuế là cơ quan chuyên
môn trực thuộc Cục Thuế, có nhiệm vụ trực tiếp tổ chức công tác quản lý thu

thuế và thu khác trên địa bàn theo đúng pháp luật và sự hướng dẫn của cơ
quan thuế cấp trên.
Cơ quan hải quan quản lý tất cả các khoản thu từ hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu và cũng được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương đến địa
phương, bao gồm: Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan tỉnh hoặc liên tỉnh, Chi
cục Hải quan cửa khẩu, Đội kiểm soát hải quan hoặc các đơn vị tương đương.
Tương tự nhiệm vụ của cơ quan thuế, cơ quan hải quan ở Trung ương thực
hiện việc xây dựng các chính sách, pháp luật thuế liên quan đến hoạt động
xuát nhập khẩu và tham gia trực tiếp vào hoạt động quản lý thuế ở khâu xuất
khẩu, nhập khẩu.
Người nộp thuế
Chủ thể này bao gồm các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế theo quy
định của pháp luật. Đặc điểm chung của người nộp thuế là ngành nghề kinh
doanh, quy mô, hình thức sở hữu, trình độ quản lý, trình độ công nghệ… đều
chi phối việc xác định các phương pháp, biện pháp, quy trình quản lý thuế.
Khi đặc điểm của người nộp thuế thay đổi, quy mô ngày càng phát triển, mở
rộng; trình độ quản lý, trình độ công nghệ ngày càng hiện đại thì đòi hỏi
phương pháp, biện pháp và quy trình quản lý thuế của cơ quan quản lý thuế
cũng phải thay đổi, từ đó chi phối việc xác định cơ cấu tổ chức bộ máy quản
lý thuế. Nói cách khác, yếu tố chủ thể nộp thuế trong quan hệ quản lý thuế có
sự tác động nhất định đến cơ cấu tổ chức bộ máy của chủ thể quản lý thuế.
Cũng như các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật khác, để trở thành
người nộp thuế trong quan hệ pháp luật quản lý thuế, đòi hỏi các tổ chức, cá
nhân phải hội đủ năng lực chủ thể – gồm năng lực pháp luật và năng lực hành
vi. Năng lực pháp luật của người nộp thuế là khả năng được pháp luật trao
cho các quyền và nghĩa vụ pháp lý khi tham gia quan hệ quản lý thuế. Còn
năng lực hành vi của người nộp thuế là khả năng của tổ chức, cá nhân để tự
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình được pháp luật quy định khi tham
gia quan hệ pháp luật về quản lý thuế.
Lê Mai Quyên – CH16


13


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

1.1.3.2. Khách thể của quan hệ pháp luật quản lý thuế
Cá nhân, tổ chức tham gia vào một quan hệ pháp luật nào đó đều nhằm
thỏa mãn những yêu cầu nhất định về vật chất, tinh thần hay về chính trị, xã
hội. Có thể hiểu khách thể của quan hệ pháp luật là những gì mà các chủ thể
mong muốn đạt được khi tham gia vào quan hệ pháp luật đó. Đối với quan hệ
pháp luật quản lý thuế thì đó là những lợi ích liên quan đến hoạt động quản lý
thuế mà các chủ thể tham gia mong muốn đạt được. Nó được thể hiện thông
qua hành vi của con người với đối tượng đặc biệt có liên quan bao gồm: hàng
hóa, doanh thu, thu nhập, tài sản, tài nguyên…
Khách thể của quan hệ pháp luật quản lý thuế có đầy đủ những đặc điểm
của khách thể quan hệ quan hệ pháp luật nói chung: là các lợi ích mà các chủ
thể mong muốn đạt được, là động lực thúc đẩy các chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật. Tuy vậy, khách thể của quan hệ pháp luật quản lý thuế có điểm
khác với khách thể của nhiều quan hệ pháp luật khác ở chỗ, lợi ích vật chất
không chi phối việc tham gia quan hệ của các chủ thể. Trong nhiều trường
hợp các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật quản lý thuế xuất phát từ nghĩa vụ
do pháp luật quy định. Đặc điểm này do tính hành chính của quan hệ pháp
luật quản lý thuế mang lại.
1.1.3.3. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật
quản lý thuế
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật quản lý thuế
chính là nội dung của quan hệ pháp luật quản lý thuế, nó phản ánh địa vị pháp
lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật này. Quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật quản lý thuế được ghi nhận trong các văn

bản pháp luật về thuế. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể này không nằm ngoài
mối quan hệ với chủ thể khác.
Quyền hạn và trách nhiệm của CQQLT
Tại Điều 9 Luật Quản lý thuế quy định cụ thể các quyền cơ bản của
CQQLT trong đó có những quyền lần đầu tiên được quy định cho chủ thể này
như: quyền “cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế”, quyền “xử phạt
Lê Mai Quyên – CH16

14


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

vi phạm pháp luật về thuế…”; đặc biệt là quyền “áp dụng biện pháp ngăn
chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế theo quy định của pháp
luật”, trong đó Luật Quản lý thuế dành một chương (Chương XI) để quy định
về các biện pháp ngăn chặn này.
Bên cạnh các điều khoản về quyền hạn, tại Điều 8 Luật Quản lý thuế cũng
quy định về trách nhiệm của chủ thể trên, trong đó nhấn mạnh trách nhiệm
“tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật thuế’, “giải thích, cung cấp
thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế cho NNT” và “giữ bí mật
thông tin của NNT” của CQQLT.
Ngoài ra, CQQLT cũng có những trách nhiệm cụ thể được quy định tại
mỗi quy trình quản lý thuế như: trách nhiệm của CQQLT trong việc tiếp nhận
hồ sơ khai thuế, trách nhiệm của CQQLT trong việc ấn định thuế, trách nhiệm
của CQQLT trong việc tiếp nhận và xử lý hồ sơ hoàn thuế, hồ sơ miễn giảm
thuế, hồ sơ xóa nợ thuế…
Quyền và nghĩa vụ của NNT
Tại Điều 6, Điều 7 của Luật Quản lý thuế, lần đầu tiên các quyền hạn
cũng như trách nhiệm của NNT được cụ thể hóa. Theo đó, NNT ngoài nghĩa

vụ kê khai thuế chính xác, trung thực; nộp tiền thuế đầy đủ, đúng thời hạn và
trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong từng trường hợp cụ thể
(chương VI) thì cũng có những quyền hạn nhất định. Trong đó, Luật Quản lý
thuế đã ghi nhận những quyền nhằm bảo vệ tối đa lợi ích của NNT như: được
“hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện
nghĩa vụ, quyền lợi về thuế”, “được giữ bí mật thông tin”, “được bồi thường
thiệt hại do cơ quản quản lý thuế, công chức quản lý thuế gây ra theo quy
định của pháp luật” và quyền được “khiếu nại, khởi kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Như vậy, Luật Quản lý thuế đã tạo khung pháp lý cơ bản về quyền và
nghĩa vụ của cơ quan quản lý thuế và NNT, làm cơ sở triển khai thực hiện cơ
chế quản lý thuế hiện đại - cơ chế tự khai tự nộp thuế.

Lê Mai Quyên – CH16

15


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƠ CHẾ TỰ KHAI TỰ NỘP
THUẾ VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CÓ LIÊN QUAN
1.2.1. Những vấn đề chung về cơ chế tự khai tự nộp thuế
1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của cơ chế tự khai tự nộp thuế
Tự khai - tự nộp (self assessment) được hiểu là việc NNT tự xác định căn
bản thuế nhằm mục đích tính thuế [18, tr.1].
Tự khai - tự nộp (theo nghĩa hẹp) được hiểu là việc NNT tự xác định căn
bản thuế, tự tính thuế, tự xác định số thuế phải nộp và tự nộp thuế theo đúng
thời hạn quy định [18, tr.1].
Tự khai - tự nộp thuế (theo nghĩa rộng, đang được sử dụng) được hiểu là

phương thức quản lý thuế được xây dựng trên nền tảng sự tuân thủ của NNT,
trong đó NNT tự giác căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh, thu nhập phát
sinh trong kỳ kê khai của mình, kê khai, nộp thuế vào NSNN và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, chính xác của việc kê khai. CQQLT
tổ chức và thực hiện các biện pháp quản lý thuế phù hợp với nguyên tắc đó.
Cơ chế tự khai, tự nộp là phương thức quản lý thuế được xây dựng dựa
trên nền tảng tính tự giác tuân thủ của NNT. Vì vậy, các quy định của pháp
luật quản lý thuế về trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn, đặc biệt là trách nhiệm
về hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật quản lý thuế theo cơ
chế TKTN được quy định rõ ràng và cụ thể.
Theo cơ chế này, CQQLT không can thiệp và không làm thay trách nhiệm
của NNT. Cụ thể, CQQLT không can thiệp vào quá trình kê khai, nộp thuế
của cơ sở kinh doanh. Tuy nhiên, cơ quan thuế sẽ tiến hành kiểm tra, thanh tra
và áp dụng các biện pháp xử phạt, cưỡng chế theo luật định đối với những
trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật về thuế như không kê khai hoặc kê
khai không đúng, không nộp thuế, trốn thuế, gian lận thuế...
Cơ chế TKTN thuế làm tăng tính dân chủ trong quan hệ giữa cơ quan Nhà
nước và NNT. Biểu hiện của đặc trưng này là việc Nhà nước (cơ quan thuế)
từ chủ yếu dùng quyền lực để quản lý chuyển sang hỗ trợ là chính. Đây là cơ
Lê Mai Quyên – CH16

16


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

sở cho cuộc cải cách toàn diện hệ thống quản lý thuế (cải cách thể chế, cải
cách bộ máy, cải cách phương pháp quản lý, cải cách thủ tục hành chính...
trong lĩnh vực thuế).
Cơ chế TKTN thuế là cơ chế quản lý thuế hiện đại, hiệu quả, được hầu

hết các nước trên thế giới áp dụng. Nó cho phép CQQLT phân bổ nguồn lực
theo hướng chuyên môn hoá, chuyên sâu trong quản lý; cải tiến các quy trình
quản lý; làm tăng sự minh bạch trong quản lý thuế đồng thời giảm bớt chi phí
quản lý, thúc đẩy cải cách hành chính thuế.
1.2.1.2. Những ưu điểm và hạn chế của cơ chế tự khai tự nộp thuế
Ưu điểm của cơ chế TKTN
Cơ chế TKTN thuế đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, đây là
một cơ chế hành thu tiên tiến đem lại nhiều lợi ích cho cả CQQLT và NNT.
Cơ chế này có nhiều ưu điểm. Cụ thể là: [15, tr.8]
Thứ nhất, tiết kiệm thời gian, công sức. Đối với CQQLT, khi áp dụng cơ
chế TKTN, hàng tháng cán bộ quản lý thuế sẽ không phải mất thời gian tính
toán số thuế phải nộp của NNT – việc mà NNT đã tự thực hiện trước đó,
không phải mất thời gian gửi thông báo thuế cho NNT. Với số lượng NNT
hiện lên đến hơn 100 ngàn doanh nghiệp và hơn 1,4 triệu tổ chức hộ kinh
doanh cá thể thì việc không phải tính toán lại số thuế phải nộp của NNT sẽ
tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức cho cán bộ quản lý thuế. Đối
với NNT thì việc TKTN thuế sẽ làm giảm những thủ tục hành chính rườm rà
trong quá trình thực hiện nghĩa vụ kê khai và nộp thuế, do đó cũng sẽ tiết
kiệm được nhiều thời gian và công sức.
Thứ hai, tiết kiệm chi phí quản lý hành chính thuế. Khi áp dụng cơ chế
TKTN thì hàng tháng CQQLT không phải gửi hàng triệu thông báo thuế nên
ngành thuế tiết kiệm được chi phí giấy mực, in ấn, cước phí bưu điện... đem
lại hiệu quả kinh tế không nhỏ, bởi chi phí hành thu càng thấp thì hiệu quả
công tác quản lý càng nâng cao. Ngoài ra, khi thực hiện cơ chế TKTN, cơ cấu
tổ chức của CQQLT được tổ chức theo chức năng nên bộ máy quản lý sẽ gọn
nhẹ, bớt cồng kềnh do đó giảm được phần lớn chi phí quản lý mà hiệu quả
Lê Mai Quyên – CH16

17



Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

quản lý vẫn cao.
Thứ ba, nâng cao trách nhiệm pháp lý của NNT. Với cơ chế “thông báo
thuế”, trách nhiệm pháp lý của NNT về tính chính xác của việc tính toán số
thuế phải nộp không cao vì số thuế NNT phải nộp được xác định theo thông
báo của CQQLT. Do đó sẽ có tình trạng các CSKD tính toán số liệu một cách
qua loa, đại khái và nếu cán bộ quản lý thuế không kiểm tra kỹ có thể dẫn đến
sai số thuế phải nộp mà CSKD đó không có lỗi. Tuy nhiên, khi áp dụng cơ
chế TKTN thì NNT phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực của số
liệu kê khai và tính chính xác của việc tính toán số thuế phải nộp. Như vậy,
ngoài việc nâng cao trách nhiệm pháp lý; sự tự giác, chủ động trong việc thực
hiện nghĩa vụ của NNT, cơ chế TKTN còn thiết lập được niềm tin giữa
CQQLT và NNT.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác của CQQLT. Thực hiện áp dụng cơ
chế TKTN, cơ quan thuế có điều kiện để cải tiến cơ cấu tổ chức nhằm sử
dụng một cách hiệu quả nhất các nguồn lực hiện có, công tác quản lý thu thuế
được tổ chức theo hướng ngày càng hiện đại và chuyên môn hóa. Nhờ việc
không mất thời gian tính toán lại số thuế phải nộp của NNT và phát hành
thông báo thuế mà cán bộ quản lý thuế có điều kiện tập trung thời gian và
công sức cho các công việc quản lý khác như: công tác phục vụ, hỗ trợ các tổ
chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hiểu và tự giác thực hiện các nghĩa vụ thuế
của mình đối với Ngân sách nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra, công tác
đôn đốc thu nộp và cưỡng chế thuế… Triển khai thực hiện cơ chế này sẽ tạo
điều kiện cho ngành thuế đẩy mạnh hiện đại hóa công tác quản lý mà cụ thể là
đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học trong công tác quản lý thu thuế.
Đó là tiền đề để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế.
Nhược điểm của cơ chế TKTN
Ngoài những ưu điểm nổi bật trên đây, cơ chế TKTN cũng thể hiện một

số hạn chế sau đây: [15, tr. 10]
Thứ nhất, nguy cơ trốn lậu thuế, thất thoát thuế sẽ lớn nếu trình độ dân trí
thấp và không có biện pháp quản lý thuế phù hợp. Trường hợp công tác kiểm
Lê Mai Quyên – CH16

18


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

tra không kịp thời... có thể dẫn đến tình trạng NNT lợi dụng việc không kiểm
tra, tính toán lại số thu thường kỳ của CQQLT để cố tình kê khai sai nhằm
trốn lậu thuế. Trường hợp do hiểu biết về pháp luật thuế của NNT kém hoặc
công tác hướng dẫn của CQQLT không đầy đủ, chu đáo... có thể dẫn đến kê
khai sai số thuế phải nộp một cách vô ý. Với trình độ dân trí nước ta còn thấp,
ý thức tự giác và tuân thủ pháp luật của người dân chưa cao và nếu biện pháp
quản lý cũng không có hiệu quả thì nguy cơ thất thoát thuế là rất lớn.
Thứ hai, đòi hỏi cao về cơ sở vật chất, công nghệ và trình độ quản lý của
các cơ quan nhà nước. Để áp dụng cơ chế TKTN một cách hiệu quả đòi hỏi
cơ sở vật chất của ngành thuế phải được hiện đại hoá, đặc biệt là hệ thống cơ
sở vật chất phục vụ công tác thông tin, liên lạc sao cho việc kiểm tra, đối
chiếu số liệu được nhanh chóng và chính xác. Mặt khác, trình độ quản lý của
cơ quan hành pháp hiện nay còn thấp, nếu không có sự chuẩn bị kỹ càng có
thể xảy ra tình trạng buông lỏng trong công tác quản lý thuế.
1.2.1.3. Điều kiện thực hiện cơ chế tự khai tự nộp thuế hiệu quả
Để thực hiện được tốt cơ chế TKTN, đòi hỏi phải có sự kết hợp đầy đủ và
đồng bộ nhiều yếu tố đối với cả NNT và CQQLT. Chẳng hạn như trình độ và
sự nhận thức của người nộp thuế, người dân về nghĩa vụ thuế, chính sách
thuế, tổ chức quản lý thuế, nghiệp vụ quản lý thuế, trình độ của cán bộ thuế và
các thẩm quyền cần thiết của CQQLT trong quản lý thuế.

Một cách khái quát, có thể hình dung các điều kiện cần thiết để thực thi
cơ chế TKTN một cách hiệu quả sẽ bao gồm: [19, tr.2]
Thứ nhất, NNT là người trực tiếp tính toán số thuế phải nộp vào NSNN,
do đó đòi hỏi NNT phải có trình độ hiểu biết về pháp luật thuế, thực hiện kế
toán, hạch toán đầy đủ để đảm bảo tự thực hiện được đúng nghĩa vụ thuế của
mình. Mặt khác cơ chế TKTN đòi hỏi sự tự giác cao của NNT vì vậy người
dân phải có được hiểu biết cơ bản về nghĩa vụ thuế, có ý thức tuân thủ nghĩa
vụ thuế, cộng đồng xã hội lên án những hành vi gian lận trốn thuế.
Thứ hai, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cung cấp
cho CQQLT những thông tin về NNT có liên quan đến việc xác định nghĩa vụ
Lê Mai Quyên – CH16

19


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

thuế của NNT.
Thứ ba, chính sách thuế phải rõ ràng, dễ hiểu và dễ thực hiện như: thuế
GTGT chỉ có 1 mức thuế suất, ít miễn giảm trong thuế TNDN..., các qui định
về kê khai, nộp thuế thuận lợi, phù hợp với điều kiện kinh doanh của NNT.
Thứ tư, bộ máy quản lý thuế của CQQLT các cấp phải tổ chức chủ yếu
tập trung theo các chức năng: tuyên truyền, hỗ trợ NNT; theo dõi, xử lý việc
kê khai thuế; đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thuế; kiểm tra, thanh tra thuế để
nhằm chuyên môn hoá, nâng cao năng lực quản lý thuế ở từng chức năng.
Trên cơ sở đó CQQLT phải có được:
- Hệ thống dịch vụ hỗ trợ NNT toàn diện, có chất lượng.
- Hệ thống cưỡng chế, thu nợ hiệu quả.
- Hệ thống thanh tra có hiệu lực, hiệu quả và có mục tiêu rõ ràng.
Thứ năm, cần có hệ thống xử phạt nghiêm khắc, công bằng và hệ thống

giải quyết khiếu nại hoạt động hiệu quả. CQQLT phải có đủ thẩm quyền về
điều tra, đủ điều kiện về cưỡng chế thuế để phát hiện và xử lý nghiêm, kịp
thời những trường hợp gian lận, trốn thuế, chây ỳ nợ thuế, thu hồi đủ tiền thuế
cho NSNN và đảm bảo sự công bằng trong quản lý thuế.
Thứ sáu, quản lý thuế phải dựa trên kỹ thuật quản lý hiện đại - kỹ thuật
quản lý rủi ro để nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý. Để thực hiện được
quản lý thuế theo kỹ thuật quản lý rủi ro, CQQLT cần phải có:
- Thông tin đầy đủ và liên tục về NNT trong một khoảng thời gian nhất
định (ít nhất là 5 năm). Trên cơ sở các thông tin đó CQQLT phân tích, phân
loại NNT để xác định biện pháp quản lý phù hợp với từng đối tượng.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tập hợp, khai thác, sử dụng
thông tin về NNT và ở tất cả các hoạt động quản lý thuế của CQQLT .
- Hệ thống quy trình quản lý của CQQLT phù hợp với yêu cầu của cơ chế
TKTN và được hỗ trợ tin học hoá.
- Cán bộ quản lý thuế được đào tạo có đủ kiến thức, năng lực để thực hiện
quản lý thuế chuyên sâu, chuyên nghiệp theo từng chức năng quản lý.
Lê Mai Quyên – CH16

20


Cơ chế tự khai tự nộp trong pháp luật quản lý thuế tại Việt Nam

1.2.2. Các quy định pháp lý có liên quan đến cơ chế tự khai, tự nộp
1.2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong cơ chế tự khai, tự nộp
Ngoài những quyền và nghĩa vụ chung trong quan hệ quản lý thuế giống
như các hình thức quản lý thuế khác, trong cơ chế TKTN thuế các bên còn có
một số quyền, nghĩa vụ pháp lý mang tính đặc thù. Cụ thể là:
Quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế
Về phương diện quyền, NNT có các quyền cơ bản sau đây:

Một là, NNT có quyền được hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp
thông tin, tài liệu để thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về thuế (Khoản 1 Điều 6
Luật Quản lý thuế). Quyền lợi này của NNT gắn chặt với sự ra đời của cơ chế
TKTN - một cơ chế được xây dựng trên nền tảng tính tự giác và trình độ hiểu
biết cao về pháp luật thuế của NNT. Theo quy định của pháp luật, NNT được
quyền yêu cầu cán bộ quản lý thuế, CQQLT tuyên truyền, hướng dẫn, giải
thích chính sách thuế cho mình thông qua bộ phận một cửa. Cụ thể, khi đến
cơ quan thuế giải quyết các yêu cầu, thủ tục về thuế, NNT tiếp xúc trực tiếp
với cán bộ thuế tại bộ phận một cửa để được hướng dẫn, thực hiện việc nộp
các hồ sơ yêu cầu và nhận kết quả giải quyết mọi giao dịch. Mặt khác, NNT
không được tự ý tiếp xúc trực tiếp với cán bộ thuế thuộc các bộ phận chuyên
môn để giải quyết yêu cầu, thủ tục hành chính thuế, tuyệt đối không được đưa
bất kỳ một khoản thù lao nào cho cán bộ, công chức thuế mà không có trong
quy định đã được công khai tại các văn bản pháp luật và tại bảng niêm yết ở
trụ sở của CQQLT. NNT phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu vi phạm
các quy định này.
Hai là, NNT có quyền ký hợp đồng với tổ chức kinh doanh dịch vụ làm
thủ tục về thuế (Khoản 5 Điều 6 Luật Quản lý thuế). Việc được chủ động
trong kê khai và tính số thuế phải nộp của NNT sẽ làm phát sinh các nhu cầu
về tư vấn kê khai các loại thuế; lập báo cáo quyết toán thuế TNDN và thuế
TNCN; hướng dẫn các nội dung của các luật thuế; ngoài ra là tư vấn về các
luật thuế quốc tế; hoạch định kế hoạch tiết kiệm thuế; hỗ trợ các doanh nghiệp
giải đáp các thắc mắc trong lĩnh vực thuế - là những việc mà một tổ chức kinh
Lê Mai Quyên – CH16

21


×