Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Xã hội hoá công chứng ở việt nam hiện nay một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.23 KB, 72 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ tư pháp

Trường đại học luật Hà Nội

Nguyễn Quang Minh

Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Chuyên ngành: lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật

Mã số: 60 38 01

Luận văn thạc sỹ luật học

Người hướng dẫn:
TS. Nguyễn Thị Hồi

Hà Nội 2009


Mục lục
Phần mở đầu ............................................................................................... 1
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Xã hội hoá công chứng ...........8
1.1. Xã hội hóa công chứng...................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm xã hội hoá công chứng ...................................... 8
1.1.2. Nội dung xã hội hóa công chứng ...................................... 15
1.1.3. ý nghĩa của việc xã hội hóa công chứng ............................ 18
1.1.4. Điều kiện cần thiết để xã hội hoá công chứng ................... 20


1.2. Sự cần thiết phải xã hội hoá công chứng ở Việt Nam ...................... 22
Chương 2: Thực trạng xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện
nay và giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình xã hội hóa
công chứng ................................................................................................ 29

2.1. Thực trạng xã hội hoá công chứng ở Việt Nam hiện nay................. 29
2.1.1. Pháp luật về xã hội hoá công chứng ở Việt Nam ................ 29
2.2.2. Quá trình tổ chức thực hiện xã hội hoá công chứng trong
thực tế ........................................................................................ 43
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả của quá trình xã hội hoá công chứng ở
Việt Nam ................................................................................................. 54
2.2.1. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hoá công chứng ................. 54
2.2.2. Thành lập tổ chức nghề nghiệp công chứng ....................... 58
2.2.3. Phát triển cả về số lượng và chất lượng đội ngũ công chứng
viên ............................................................................................ 59
2.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhà nước về công
chứng ......................................................................................... 62
Phần kết luận.......................................................................................... 66
Tài liệu tham khảo


1

Phần mở đầu

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Công chứng có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm an toàn pháp
lý đối với các hợp đồng, giao dịch dân sự, kinh tế. Việc xác nhận tính xác
thực, tính hợp pháp của các văn bản công chứng đem lại cho các văn bản đó
hiệu lực thi hành và giá trị chứng cứ. Với vai trò đặc biệt đó, trong 18 năm

qua, từ năm 1991 đến nay, hoạt động công chứng đã có nhiều đóng góp quan
trọng cho đời sống xã hội và quản lý nhà nước, phục vụ yêu cầu công chứng
của nhân dân, tạo nên vị trí, vai trò của công chứng nói chung và phòng công
chứng nhà nước nói riêng.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khi nền kinh tế của nước ta có
những chuyển biến mạnh mẽ theo cơ chế thị trường, kèm theo đó là sự gia
tăng mạnh mẽ nhu cầu công chứng giao dịch của nhân dân, hoạt động công
chứng đã và đang bộc lộ một số bất cập. Nổi bật nhất chính là số lượng rất hạn
chế của các phòng công chứng cũng như các công chứng viên không đủ phục
vụ nhu cầu công chứng. Tình trạng quá tải, xếp hàng chờ công chứng đã gây
ra tâm lý bức xúc cho người dân. Mặt khác, các phòng công chứng nhà nước
chỉ tập trung ở trung tâm của các tỉnh, thành phố nên chưa đáp ứng và khuyến
khích phát triển nhu cầu về công chứng ở những khu vực xa trung tâm. Trong
khi đó, việc thành lập thêm các phòng công chứng mới gặp nhiều khó khăn
do Nhà nước phải đầu tư rất lớn cả về tài chính, trụ sở, tổ chức, con người.
Nhất là trong giai đoạn Nhà nướcđẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư
pháp với mục tiêu xây dựng bộ máy nhà nước tinh giản, gọn nhẹ và hiệu quả.
Từ thực tiễn đó, yêu cầu xã hội hoá công chứng ngày càng trở nên cấp
thiết. Việc thực hiện xã hội hóa công chứng sẽ phát huy được các nguồn lực
trong xã hội, mở rộng tổ chức hành nghề công chứng, phát triển hệ thống công
chứng rộng khắp trong cả nước; đồng thời đảm bảo thực hiện cải cách hành


2

chính, cải cách tư pháp, cũng như phục vụ tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Tuy
nhiên, xã hội hoá công chứng là một quá trình phức tạp, cần phải thực hiện
từng bước phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của nước ta. Hiện nay,
chúng ta mới bước đầu thực hiện quá trình này nên còn gặp nhiều khó khăn,
lúng túng, đồng thời đã nẩy sinh những vấn đề bức xúc về lý luận và thực tiễn

cần được tiếp tục nghiên cứu, xử lý một cách nghiêm túc. Vì vậy, việc nghiên
cứu lý luận nhận thức cũng như thực trạng hiện nay để tìm ra những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả quá trình xã hội hoá công chứng là cần thiết. Đây
cũng là lý do mà chúng tôi chọn đề tài này để viết luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hệ thống công chứng ở nước ta bắt đầu hình thành từ khi Nghị định số
45/HĐBT ngày 27/02/1991 có hiệu lực. Quá trình xây dựng, hoàn thiện các
chế định về công chứng tính đến nay mới được 18 năm. Đây là một khoảng
thời gian ngắn nếu so với các quốc gia có lịch sử công chứng lâu đời. Vì vậy,
chúng ta chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này. Tuy nhiên, trong
thực tế đã có một số công trình nghiên cứu về công chứng, trong số đó, có thể
kể đến:
- Luận văn thạc sỹ luật học:
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay của tác giả Nguyễn Chí Thiện năm 2006. Trong luận văn, tác giả đã
đề cập đến hiệu quả hoạt động công chứng, quá trình hình thành và phát triển
công chứng ở nước ta và những tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến hoạt động công
chứng. Ngoài ra, tác giả cũng nêu ra các biện pháp nâng cao hiệu quả họat
động công chứng, trong đó có việc xã hội hóa công chứng.
- Các luận án tiến sỹ luật học:
+ Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội
dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta


3

hiện nay của tác giả Đặng Văn Khanh năm 2000. Trong Luận án này, tác giả
đi sâu nghiên cứu về xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị
pháp lý của văn bản công chứng, đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật công

chứng về các nội dung nêu trên.
+ Tổ chức và họat động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay của
tác giả Dương Khánh năm 2002. Tác giả đã nghiên cứu về nguyên tắc tổ chức
hoạt động công chứng nhà nước cũng như thực trạng ở nước ta. Trong phương
hướng đổi mới tổ chức và họat động công chứng ở nước ta, tác giả nêu ra
Yêu cầu đổi mới tổ chức công chứng nhà nước, trong đó, xã hội hóa công
chứng được đề cập đến như là một yêu cầu của quá trình cải cách hành chính
và cải cách tư pháp.
+ Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số nước trên thế
giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật
về công chứng ở Việt Nam hiện nay của tác giả Tuấn Đạo Thanh năm 2007.
Trong Luận án này, tác giả nghiên cứu nội dung cơ bản trong pháp luật công
chứng của một số quốc gia, thực trạng công chứng tại Việt Nam và nêu lên
một số luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật công chứng tại Việt
Nam hiện nay. Trong đó, có luận cứ kiên trì chủ trương xây dựng mô hình
công chứng hành nghề tự do cũng như cụ thể hóa chủ trương này thành những
quy định cụ thể.
- Công trình nghiên cứu:
+ Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt
động công chứng ở Việt Nam - Đề tài khoa học mã số: 92-98-224 năm
1993. Đây là công trình nghiên cứu quy mô lớn, tập hợp các tác giả là các
chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực công chứng. Giá trị lớn nhất của đề tài là
việc xây dựng nên một hệ thống cơ sở lý luận về công chứng, bao gồm: khái
niệm công chứng, ý nghĩa pháp lý của văn bản công chứng, phạm vi công
chứng và trách nhiệm của công chứng cũng như mô hình tổ chức, quản lý


4

công chứng trên thế giới. Bên cạnh đó, các tác giả cũng nghiên cứu về thực

tiễn tổ chức và họat động công chứng ở Việt Nam hiện nay và xây dựng các
chuyên đề khoa học. Trong các chuyên đề này, các tác giả đã đề cập đến ưu
điểm của công chứng tự do so với công chứng nhà nước, lợi ích của việc
thay đổi tư cách công chứng viên từ một công chức trở thành một người làm
nghề tự do.
Tóm lại, trong các công trình nêu trên, vấn đề được tập trung nghiên cứu
là các quy định pháp luật trong các lĩnh vực cụ thể của công chứng cũng như
hoàn thiện tổ chức hoạt động công chứng. Trong đó, vấn đề xã hội hoá công
chứng nếu được đề cập đến cũng chỉ là một điểm trong phương hướng hoàn
thiện pháp luật về công chứng.
- Ngoài ra, vấn đề này chỉ được đề cập đến dưới dạng bài viết trong các
ấn phẩm:
+ Công chứng và xã hội hoá công chứng ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu
lập pháp, số 8 (2005), tr 33-39 của tác giả Lê Thị Phương Hoa.
+ Tự trang trải về tài chính đối với các phòng công chứng là bước đệm
tiến tới xã hội hoá hoạt động công chứng, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 9
(2005), tr 47-49 của tác giả Phan Thuỷ.
+ Yêu cầu và thách thức của xã hội hoá công chứng, Tạp chí dân chủ và
pháp luật, số chuyên đề về công chứng tháng 8/2006, tr 5-7 của tác giả Võ
Đình Nho.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định cho đến thời điểm này, chưa có một
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về xã hội hoá công chứng.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở một số vấn đề chính về xã hội
hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở của việc nghiên cứu quá
trình hình thành, phát triển của các quy định pháp luật thực định của nước ta
về xã hội hóa công chứng cũng như nguồn gốc kinh tế, xã hội của các quy


5


định đó, chúng tôi nêu lên cơ sở lý luận cho quá trình xã hội hóa công chứng ở
Việt Nam. Đồng thời, kết hợp với việc nghiên cứu, phân tích thực trạng xã hội
hóa công chứng hiện nay, chúng tôi đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần
hoàn thiện quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả quá trình xã hội hóa
công chứng trên thực tế.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Với việc xác
định rõ đối tượng nghiên cứu là vấn đề xã hội hóa công chứng ở Việt Nam
hiện nay, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp lịch
sử, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê và
phương pháp xã hội học. Trong đó, phương pháp lịch sử được sử dụng để
nghiên cứu sự phát triển pháp luật về công chứng cũng như sự phát triển của
hệ thống công chứng ở nước ta. Phương pháp phân tích được sử dụng để làm
rõ cụ thể từng vấn đề trong việc xây dựng cơ sở lý luận cũng như thực trạng xã
hội hóa công chứng hiện nay. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái
quát hóa các vấn đề đã phân tích, khẳng định lại các nội dung chính. Phương
pháp thống kê được sử dụng để thu thập, diễn giải và trình bày các dữ liệu,
cung cấp các thông tin thống kê trung thực, khách quan, chính xác, tạo ra các
dẫn chứng chứng minh trong phần Quá trình tổ chức thực hiện xã hội hoá
công chứng trong thực tế. Phương pháp xã hội học được sử dụng để xem xét,
điều tra tình hình thực tế, thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài:
- Thứ nhất: Góp phần xây dựng và hoàn thiện cơ sở lý luận cho việc xã
hội hoá công chứng.
- Thứ hai: Đánh giá thực trạng xã hội hoá công chứng ở Việt Nam hiện
nay.



6

- Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quá trình xã
hội hoá công chứng ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài này là tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về xã hội hoá công chứng: khái
niệm, nội dung, ý nghĩa, điều kiện xã hội hóa công chứng, sự cần thiết phải xã
hội hóa công chứng ở Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng quá trình xã hội hoá công chứng ở Việt Nam
hiện nay: tổng hợp các quy định pháp luật thể hiện nội dung xã hội hoá công
chứng, thực trạng thực hiện các quy định này trong giai đoạn hiện nay, đánh
giá ưu điểm, nhược điểm của quá trình xã hội hoá công chứng trên thực tế.
- Đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình xã hội hoá công chứng,
nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, nâng cao
chất lượng công chứng viên.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu mới, nổi bật nhất của luận văn là nghiên cứu một
cách có hệ thống lý luận, thực tiễn về xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện
nay. Các kết quả cụ thể:
- Hệ thống hóa các quy định của pháp luật nước ta về xã hội hóa công
chứng.
- Đánh giá quá trình xã hội hóa công chứng trên thực tế, bao gồm những
ưu điểm, nhược điểm, những vấn đề tồn tại.
- Đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả của quá trình xã hội hóa công
chứng.


7


7. Cơ cấu của luận văn
Để thực hiện những nhiệm vụ, mục đích đề ra, luận văn này bao gồm:
Phần mở đầu
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xã hội hóa công chứng.
Chương 2: Thực trạng xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay và
giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình xã hội hóa công chứng.
Phần kết luận


8

Chương 1
Một số vấn đề lý luận về Xã hội hoá công chứng

1.1.

Xã hội hóa công chứng

1.1.1. Khái niệm xã hội hoá công chứng
Nhà nước luôn luôn mang cả tính giai cấp và tính xã hội. Nhà nước chỉ
sinh ra và tồn tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện tính giai
cấp sâu sắc. Tính giai cấp đó thể hiện ở chỗ nhà nước là một bộ máy cưỡng
chế đặc biệt trong tay giai cấp cầm quyền, là công cụ để thực hiện sự thống trị
giai cấp. Nhưng bên cạnh đó, nhà nước cũng thể hiện tính xã hội. Nhà nước tổ
chức đời sống xã hội, phục vụ xã hội, chăm lo cho cộng đồng. Các nhà nước
trong lịch sử khác nhau ở chỗ nhà nước này thể hiện tính giai cấp rõ rệt trong
khi đó nhà nước khác lại thể hiện rõ tính xã hội. Đó là do nhà nước đó thực
hiện sứ mệnh nào nhiều hơn trong hai sứ mệnh: thống trị giai cấp hay tổ chức
đời sống cộng đồng. Những nhà nước dân chủ, tiến bộ đều chú trọng đến việc
tổ chức đời sống cộng đồng nhiều hơn.

Ngoài chức năng quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội, nhà nước còn có chức năng cung ứng dịch vụ công cho xã
hội. Nhà nước thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ công nhằm phục vụ các
lợi ích thiết yếu, các quyền cơ bản của các tổ chức, công dân. Trước đây,
nhiều nhà nước chỉ chú trọng đến chức năng cai trị, kể cả khi tiến hành cung
cấp hàng hoá, dịch vụ thiết yếu cho xã hội cũng theo cung cách cai trị, cung
ứng dịch vụ công dưới hình thức xin - cho. Chức năng phục vụ xã hội chỉ được
tách riêng và có vị trí tương ứng với chức năng cai trị khi điều kiện kinh tế-xã
hội phát triển, nhất là khi xu hướng dân chủ hoá đang diễn ra mạnh mẽ
trên thế giới. Nhà nước không còn là một quyền lực đứng trên nhân dân để
cai trị nhân dân nữa, mà có trách nhiệm phục vụ nhân dân qua việc cung
ứng dịch vụ công.


9

Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các lợi ích chung thiết yếu,
các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức, do Nhà nước trực tiếp
đảm nhận hay uỷ quyền cho các cơ sở ngoài nhà nước thực hiện nhằm đảm
bảo trật tự, lợi ích chung và công bằng xã hội. [27 - tr 452]
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế xã hội, đời sống được nâng
cao, dân số ngày càng tăng lên thì phạm vi của các hoạt động dịch vụ công
ngày càng mở rộng. Chất lượng, số lượng dịch vụ công ngày càng được xã hội
đòi hỏi cao hơn, nhiều hơn trên quy mô rộng lớn hơn. Những yêu cầu trên
nằm ngoài khả năng đáp ứng của bộ máy nhà nước cũng như của ngân sách
nhà nước. Vì vậy, nhà nước phải huy động nguồn lực to lớn của xã hội tham
gia vào việc cung ứng những dịch vụ công này. Việc huy động này vừa giảm
bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, vừa tăng tính cạnh tranh, nâng cao
chất lượng dịch vụ cung ứng. Đây chính là việc nhà nước chuyển giao cho khu
vực ngoài nhà nước đảm nhiệm một số chức năng của nhà nước.

Xã hội hoá là quá trình huy động, tổ chức sự tham gia rộng rãi, chủ động
của nhân dân và các tổ chức vào hoạt động cung ứng dịch vụ công cộng trên cơ
sở phát huy tính sáng tạo và khả năng đóng góp của mỗi người. [32 - tr 54]
Xã hội hoá cũng có thể được hiểu là: Quá trình chuyển hoá, tạo lập cơ
chế hoạt động và cơ chế tổ chức quản lý mới của một số lĩnh vực hoạt động
kinh tế xã hội, trên cơ sở cộng đồng trách nhiệm nhằm khai thác sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực xã hội, phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế xã hội
của đất nước [28- tr 106]
Tại nhiều nước trên thế giới, việc xã hội hoá dịch vụ công đã trở thành
một xu hướng tất yếu. Phạm vi các dịch vụ công được xã hội hoá ngày càng
mở rộng. Hầu hết các quốc gia áp dụng nguyên tắc cái gì các chủ thể kinh tế
khác có thể làm được thì nhà nước không tham gia. Trong trường hợp này,
nhà nước chỉ đóng vai trò kiểm soát, điều tiết, bảo hộ để các chủ thể khác thực
hiện các dịch vụ đó một cách thuận lợi.


10

Tại Việt Nam, xã hội hoá là một chủ trương quan trọng của Đảng và
Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới. Nhà nước ta đã thực hiện chủ trương mở
rộng phạm vi xã hội hoá, thực hiện xã hội hoá y tế, giáo dục, khoa học, văn
hoá, giao thông vận tải và gần đây là xã hội hoá công chứng.
Vậy công chứng là gì? Khái niệm này đã được nêu trong Điều 2 Luật
công chứng như sau: Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính
xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo
quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu
cầu công chứng.
Điều 6 Luật công chứng quy định về giá trị pháp lý của văn bản công
chứng như sau:
1. Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan;

trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên
kia có quyền yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ
trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thoả thuận khác.
2. Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện
trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Toà án
tuyên bố là vô hiệu.
Hai điều luật trên cho thấy công chứng là hoạt động vừa mang tính
công quyền vừa mang tính dịch vụ. Tính công quyền thể hiện ở chỗ: công
chứng viên thay mặt nhà nước chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của
hợp đồng, giao dịch, đem lại cho văn bản công chứng giá trị pháp lý đặc biệt:
đó là giá trị thi hành và giá trị chứng cứ. Văn bản công chứng có giá trị pháp
lý cao hơn hẳn những loại chứng cứ khác, bởi nó mang dấu ấn của quyền lực
của công quyền và được đảm bảo bằng trách nhiệm đặc biệt của công chứng
viên - là một công chức do nhà nước bổ nhiệm để thực hiện chức năng công
chứng. [46 tr18]


11

Tính dịch vụ thể hiện ở chỗ: bằng hành vi công chứng, công chứng viên
đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh
chấp có thể xảy ra giữa các bên. Điều đó cũng có nghĩa là công chứng viên đã
cung cấp một dịch vụ về an toàn pháp lý cho công dân, tổ chức khi tham gia
giao dịch. Đây là biện pháp hữu hiệu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, tổ chức. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp, việc công chứng viên soạn
thảo văn bản công chứng theo yêu cầu của các bên giao dịch cũng là một biểu
hiện rõ nét của tính dịch vụ.
Ngoài ra, khi xem xét bản chất của công chứng theo quan điểm lịch sử,
chúng ta sẽ thấy công chứng thực sự là loại hình dịch vụ mang tính chất công.
Công chứng từ gốc Latinh là Notarius, nghĩa là người ghi chép, người làm

chứng. Xét về nguồn gốc, nghề công chứng đã xuất hiện từ thời La Mã cổ đại.
Các tài liệu nghiên cứu về công chứng cho thấy từ trước đến nay có ba hệ
thống công chứng trên thế giới:
- Hệ thống công chứng La tinh tương ứng với hệ thống pháp luật lục địa
châu âu - Civil Law mà điển hình là các nước Pháp, Đức.
- Hệ thống công chứng Anglo-Saxon tương ứng với hệ thống pháp luật
Common Law mà điển hình là các nước Anh, Mỹ.
- Hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng nhà nước) tương ứng
với hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa mà điển hình là các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây.
Trong đó, hai hệ thống công chứng La tinh và Anglo-Saxon có lịch sử
rất lâu đời, công chứng xuất hiện ở Pháp năm 1270, ở Anh năm 1279.
Vào khoảng thế kỷ XII XIII ở một số nước châu âu, các
giao dịch bất động sản phát triển mạnh mẽ. Từ đó đã làm nảy
sinh nhu cầu soạn thảo hợp đồng rõ ràng, chặt chẽ và phù hợp với
pháp luật. Nhu cầu đó được đáp ứng bởi các Notaire một nhóm
người chuyên soạn thảo các văn bản hợp đồng theo yêu cầu. Thời


12

kỳ đầu hoạt động của các Notaire chỉ đơn thuần là một dịch vụ xã
hội. Về sau, do nhận thấy các hợp đồng nêu trên có tính ưu việt
đặc biệt là tính làm chứng của các Notaire khi có tranh chấp, nhà
nước đã khuyến khích và công nhận giá trị pháp lý, giá trị chứng
cứ trong tố tụng của các hợp đồng đó. Nhà nước đã tiến tới công
nhận địa vị của các Notaire, khiến cho việc làm chứng của họ có
tính chất quyền lực công của nhà nước. Vì vậy, tuy các Notaire
không phải là công chức nhà nước và hành nghề tự do nhưng các
văn bản của họ được nhà nước công nhận có giá trị là một công

chứng thư, có giá trị chứng cứ trước Tòa án. Như vậy có thể thấy
họat động công chứng theo hệ thống La tinh như là một loại dịch
vụ có dấu ấn quyền lực công. [7 tr 2]
Từ trích dẫn nêu trên ta thấy được chế định về công chứng bắt nguồn từ
đòi hỏi khách quan của xã hội cần có dịch vụ làm chứng chuyên nghiệp, đáng
tin cậy và có giá trị pháp lý cao. Công chứng về bản chất chính là một hoạt
động dịch vụ công.
Trong ba hệ thống công chứng trên thế giới như đã nêu trên, hai hệ
thống công chứng La tinh và hệ thống công chứng Anglo-Saxon đều coi công
chứng là một nghề tự do, công chứng viên do nhà nước bổ nhiệm hoặc công
nhận theo các điều kiện, tiêu chuẩn luật định và được cấp chứng chỉ hành
nghề. Công chứng viên hoạt động độc lập và tự chịu trách nhiệm về hoạt động
của mình.
Khái niệm xã hội hóa công chứng chỉ áp dụng ở những nước theo hệ
thống công chứng Collectiviste, tổ chức công chứng theo mô hình công chứng
nhà nước và đang trong quá trình cải cách theo mô hình công chứng tự do. ở
hệ thống này, công chứng chưa được coi là một nghề, việc công chứng giao cả
cho các chủ thể không phải là công chứng viên. Công chứng là hoạt động của
nhà nước, do nhà nước trực tiếp thực hiện. Về loại hình hoạt động chuyên biệt


13

chỉ có duy nhất Phòng công chứng nhà nước do nhà nước lập ra. Tất cả các
điều kiện vật chất, con người để hình thành, tổ chức và hoạt động của Phòng
công chứng như: trụ sở, phương tiện làm việc, quyết định biên chế, tiền lương
và các vấn đề phát sinh khác đều do nhà nước chịu trách nhiệm. Công
chứng viên cũng là công chức nhà nước, đảm nhiệm cả công chứng cả chứng
thực (sao y bản chính). Công chứng viên không phải chịu trách nhiệm dân sự
đối với khách hàng, chỉ chịu trách nhiệm hành chính về sai phạm trong hoạt

động của mình. Điển hình cho các nước theo hệ thống này là Trung Quốc, Ba
Lan, Việt Nam
Hệ thống công chứng nhà nước đã tồn tại một thời gian và đã đạt những
thành quả nhất định. Nhưng nó chỉ phù hợp trong điều kiện kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, bao cấp. Vì vậy, khi các nước theo hệ thống trên chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, nó đã bộc lộ ngay nhiều bất cập, hạn chế. Việc
nhận thức không đúng về chủ thể của hoạt động công chứng cũng như chưa
phân biệt được công chứng và chứng thực đã dẫn đến sự quá tải của các phòng
công chứng.
Công chứng như đã nêu trên là hành vi của công chứng viên, chứng
nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch bằng văn bản. Công
chứng là hoạt động dịch vụ công. Đối tượng của công chứng là các hợp đồng
giao dịch.
Chứng thực bao gồm các hành vi chứng thực bản sao từ bản chính và
chứng thực chữ ký. Chứng thực bản sao từ bản chính là việc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản
chính; còn chứng thực chữ ký là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng
thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người đã yêu cầu chứng thực.
Chứng thực là hoạt động mang tính hành chính. Đối tượng của chứng thực là
các giấy tờ, tài liệu, chữ ký của người yêu cầu.


14

Chúng ta có thể nhận thấy đây là hai lĩnh vực họat động riêng biệt khác
nhau về chủ thể, về tính chất, đối tượng. Tuy vậy, khi chưa có sự phân biệt rõ
ràng thì các phòng công chứng đã gánh vác cả hai công việc trên. Việc này đã
dẫn đến sự bất đối xứng giữa nhu cầu công chứng, chứng thực rất lớn của
người dân và khả năng cung ứng của các Phòng công chứng vốn hạn chế về số
lượng, con người. Tình trạng quá tải diễn ra thường xuyên, liên tục trong nhiều

năm đã phát sinh ra yêu cầu phải thay đổi. Và xã hội hóa chính là giải pháp
cho việc cải cách công chứng.
Xã hội hóa công chứng có thể hiểu là quá trình chuyển hoá, tạo lập cơ
chế hoạt động và cơ chế tổ chức quản lý mới của hoạt động công chứng, trong
đó Nhà nước mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả công chứng bằng cách
chuyển giao hoạt động công chứng cho các tổ chức, cá nhân thực hiện.
Khi nhà nước chuyển giao hoạt động công chứng cho các tổ chức, cá
nhân thực hiện thì công chứng đã được coi là một nghề, chủ thể hoạt động
công chứng đã được xác định chỉ là công chứng viên. Công chứng không còn
do nhà nước trực tiếp thực hiện mà nhà nước giao cho công chứng viên thực
hiện. Chính vì nhà nước công nhận nghề công chứng nên nhà nước cho phép
thành lập các tổ chức hành nghề công chứng. Tổ chức này không do nhà nước
lập ra mà do công chứng viên tự lập ra và được nhà nước cấp phép hoạt động.
Điều này đã xóa bỏ sự độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực công chứng.
Qua quá trình chuyển giao, nhà nước dần dần rút khỏi việc trực tiếp cung ứng
mà sẽ chuyển giao toàn bộ cho các tổ chức, cá nhân đủ điều kiện cung ứng
dịch vụ công chứng. Các tổ chức, cá nhân này tự lo các điều kiện vật chất, con
người cần thiết để hoạt động và tự chịu trách nhiệm dân sự đối với khách
hàng. Trong khi đó nếu thành lập thêm các phòng công chứng mới sẽ gặp
nhiều khó khăn do phải đầu tư rất lớn về vật chất (tài chính, trụ sở), về con
người (công chức, biên chế), tạo thêm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Chính vì vậy, ưu điểm nổi bật của quá trình xã hội hóa công chứng là làm tăng


15

khả năng cung ứng dịch vụ công chứng, phát triển mạng lưới công chứng mà
lại không phải sử dụng đến ngân sách nhà nước bằng cách huy động, khai thác
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội.
Việc thay đổi cơ chế hoạt động công chứng nêu trên đồng thời cũng dẫn

đến sự thay đổi cơ chế tổ chức, quản lý công chứng. Dù trực tiếp cung ứng hay
ủy quyền cho các tổ chức phi nhà nước cung ứng thì nhà nước vẫn là người
chịu trách nhiệm đảm bảo việc cung ứng dịch vụ công chứng cho xã hội. Nhà
nước phải có biện pháp quản lý, kiểm tra và duy trì việc cung ứng đó theo
đúng yêu cầu đặt ra. Vì không trực tiếp cung ứng dịch vụ công chứng nữa nên
nhà nước càng cần phải tăng cường quản lý đối với hoạt động công chứng. Từ
việc quản lý phòng công chứng nhà nước - một cơ quan thuộc bộ máy hành
chính nhà nước sang quản lý tổ chức nghề nghiệp, Nhà nước phải đổi mới
phương thức, cơ chế quản lý. Nhà nước tập trung quản lý vĩ mô, hoạch định
quy hoạch, chiến lược, định hướng phát triển nghề công chứng và giám sát,
điều chỉnh việc thực hiện các kế hoạch theo lộ trình cụ thể. Nhà nước cũng
tăng cường quản lý thông qua việc bổ nhiệm công chứng viên, cấp phép hoạt
động cho tổ chức hành nghề công chứng cũng như giám sát chất lượng, hiệu
quả hoạt động của công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng. Chính vì
cơ chế hoạt động và cơ chế tổ chức, quản lý công chứng có mối liên hệ mật
thiết với nhau nên mức độ xã hội hóa công chứng cũng phải phù hợp với năng
lực quản lý của nhà nước, cần phải có giai đoạn chuyển tiếp, quá độ để có thể
giải quyết các vấn đề phát sinh, đảm bảo cho hoạt động công chứng phát triển
đúng định hướng mà nhà nước đã đề ra.
1.1.2. Nội dung xã hội hóa công chứng
Việc xã hội hóa công chứng hướng tới hình thành mạng lưới công
chứng rộng khắp, nâng cao tính hiệu quả của hoạt động công chứng. Nó bao
gồm những nội dung chính:


16

Thứ nhất, nhà nước phải xây dựng cơ sở pháp lý cho việc xã hội hóa
công chứng. Đây chính là sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật công chứng
theo hướng xã hội hóa, thể hiện sự chuyển biến, thay đổi nhận thức về cơ chế

hoạt động và cơ chế tổ chức quản lý mới của hoạt động công chứng.
Thứ hai, nhà nước phải lập quy hoạch phát triển mạng lưới công chứng,
có mục tiêu cũng như lộ trình rõ ràng trong từng giai đoạn để từng bước thực
hiện xã hội hóa, có chính sách phát triển hoạt động công chứng phù hợp đặc
biệt là trong giai đoạn chuyển tiếp, quá độ.
Thứ ba, nhà nước phải hoàn thiện cơ chế tổ chức, quản lý, kiểm tra,
giám sát hoạt động công chứng theo mô hình mới, đảm bảo trách nhiệm cung
ứng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu công chứng của người dân.
Quá trình cải cách công chứng theo hướng xã hội hóa là một quá trình
chuyển hóa phức tạp, cần phải kết hợp với việc nghiên cứu cho phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh của mỗi quốc gia. Mặc dù mang những nội dung chung
nêu trên nhưng nó cũng chứa đựng đặc điểm riêng về giải pháp, cách thức tiến
hành đối với mỗi quốc gia áp dụng.
Cải cách công chứng ở Ba Lan được tiến hành theo lộ trình rõ ràng, cụ
thể, phù hợp. Quá trình cải cách được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn
chuyển tiếp và giai đoạn tự do hóa công chứng. Trong giai đoạn chuyển tiếp,
Ba Lan đã tạo ra hệ thống công chứng tư nhân, đồng thời vẫn sử dụng hiệu quả
Phòng công chứng nhà nước hiện có, với hai loại công chứng viên: công
chứng viên nhà nước, và công chứng viên tư nhân. Trong đó công chứng viên
tư nhân là người mới được bổ nhiệm hoặc là công chứng viên nhà nước
chuyển sang hành nghề tự do. Công chứng viên tư nhân có trụ sở, tài khoản,
kinh phí hoạt động riêng, là chủ doanh nghiệp quản lý phòng công chứng của
mình. Trong giai đoạn tự do hóa công chứng, Ba Lan đã tiến thành cải cách
thể chế công chứng theo mô hình công chứng La tinh.


17

Cải cách công chứng ở Trung Quốc lại được tiến hành theo các giải
pháp cụ thể. Thứ nhất, xác định quan điểm, mục tiêu chủ đạo: đến năm 2010

thiết lập thể chế công chứng phù hợp với kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
mang đặc sắc Trung Quốc. Thứ hai: xây dựng các phòng công chứng cho phù
hợp với chế độ kinh tế thị trường, không thành lập mới các phòng công chứng
nhà nước, chuyển các phòng công chứng nhà nước sang hình thức các cơ quan
dân sự, xác định trách nhiệm của các cơ quan hữu quan (nhân sự, thuế, tài
chính) trong việc hộ trợ quá trình cải cách công chứng. Thứ ba: nâng cao chất
lượng, tăng nhanh số lượng công chứng viên, thực hiện chế độ giấy phép hành
nghề của công chứng viên. Thứ tư: hoàn thiện cơ chế quản lý công chứng.
Cải cách công chứng ở Việt Nam cũng mới được tiến hành gần đây.
Luật công chứng theo xu hướng xã hội hóa đã được Quốc hội thông qua ngày
29/11/2006 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2007. Sau một thời gian Luật công
chứng có hiệu lực, đi vào cuộc sống, Nhà nước ta đã bước đầu thực hiện đa
dạng hóa loại hình tổ chức hành nghề công chứng, thành lập mới nhiều văn
phòng công chứng để hoạt động song song với Phòng công chứng đã thành lập
trước đây. Việc cải cách công chứng cũng đã thu được những kết quả ban đầu.
Tổng kết kinh nghiệm thực hiện cải cách công chứng ở một số nước nêu
trên, có thể rút ra kết luận: quá trình xã hội hóa công chứng phải theo quy
hoạch thống nhất, phải có lộ trình, giải pháp cụ thể với những nội dung, phạm
vi tùy theo với điều kiện riêng biệt của từng nước. Khi thực hiện quá trình này,
phải có những bước trung gian, quá độ, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm
để có sự điều chỉnh phù hợp trong từng giai đoạn. Đồng thời với quá trình cải
cách, nhà nước phải tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức, tư duy của xã hội
và của chính những người chịu tác động trực tiếp của việc cải cách. Từ đó nhà
nước mới có thể chuyển hoá, tạo lập cơ chế hoạt động và cơ chế tổ chức quản
lý mới của hoạt động công chứng, để thực hiện thành công mục tiêu xã hội
hóa công chứng.


18


1.1.3. ý nghĩa của việc xã hội hóa công chứng
Xã hội hóa công chứng là giải pháp cải cách hệ thống công chứng phù
hợp với quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp, tự cung tự cấp sang nền
kinh tế thị trường. Nếu được thực hiện thành công, nó sẽ khắc phục được
những hạn chế trong tổ chức, hoạt động của mô hình công chứng nhà nước cũ,
mang lại nhiều thành quả tích cực cho việc phát triển hệ thống công chứng.
Thứ nhất, nó khắc phục được về hạn chế về số lượng công chứng viên
theo mô hình công chứng nhà nước. Công chứng viên không nhất thiết phải là
công chức mà có thể là những người nằm ngoài biên chế nhà nước, chỉ cần
đáp ứng đủ điều kiện luật định. Đối tượng được Nhà nước bổ nhiệm chức danh
công chứng viên được mở rộng hơn. Điều này sẽ phát triển đội ngũ công
chứng viên - chủ thể của hoạt động công chứng. Bên cạnh đó, việc công chứng
viên phải chịu trách nhiệm vật chất trực tiếp trong trường hợp gây thiệt hại cho
người yêu cầu công chứng sẽ khiến cho công chứng viên có ý thức nâng cao
chất lượng làm việc, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật cũng
như trách nhiệm trong công việc. Công chứng viên sẽ phải trở nên chuyên
nghiệp hơn để có thể tồn tại được trong môi trường mới.
Thứ hai, xã hội hóa công chứng mở rộng, phát triển hệ thống công
chứng trên quy mô lớn bằng việc phát huy được các nguồn lực tiềm tàng trong
xã hội. Trước đây, việc thành lập mới một phòng công chứng nhà nước đặt ra
nhiều vấn đề cần giải quyết: nhà nước phải dùng ngân sách của mình để lo trụ
sở, phương tiện làm việc, biên chế, tổ chức, con người, trả lương cho cán bộ
nhân viên . Việc này rất tốn kém về mặt vật chất nếu thực hiện nhân rộng
trên quy mô lớn. Hơn nữa, ngân sách nhà nước còn phải chi thường xuyên để
duy trì hoạt động của các Phòng công chứng nhà nước đã được thành lập, dù
các phòng đó hoạt động có hiệu quả hay không. Đây là một gánh nặng rất lớn
cho ngân sách nhà nước. Xã hội hóa công chứng sẽ giải quyết được vấn đề nêu
trên. Các tổ chức hành nghề công chứng sẽ phải tự lo toàn bộ về cơ sở vật



19

chất, tự tuyển chọn, trả lương cho nhân viên giúp việc. Tổ chức hành nghề
công chứng hoạt động tự chủ về mặt tài chính và chịu trách nhiệm đóng thuế
đối với nhà nước như một doanh nghiệp tư nhân. Nhà nước chỉ cần xem xét tổ
chức nào đủ điều kiện thì cấp phép hoạt động. Việc huy động các nguồn lực
xã hội để thành lập các tổ chức hành nghề công chứng mới sẽ khiến cho
nguồn cung ứng dịch vụ công chứng ngày một tăng lên, mạng lưới công chứng
ngày một mở rộng hơn mà lại giảm được gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Đây chính là một ưu điểm lớn của giải pháp xã hội hóa.
Thứ ba, xã hội hóa công chứng sẽ đổi mới phương thức tổ chức, quản lý
hoạt động công chứng. Sự bao cấp toàn bộ của nhà nước đối với các phòng
công chứng trong mô hình cũ sẽ được thay bằng sự tự chủ trong tổ chức, hoạt
động của tổ chức hành nghề công chứng. Xóa bỏ sự bao cấp cũng có nghĩa là
các tổ chức hành nghề công chứng phải tổ chức, hoạt động một cách linh hoạt,
hiệu quả hơn. Các tổ chức hành nghề công chứng không làm được điều này sẽ
không có cơ hội để tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó, phương thức quản lý của
nhà nước cũng phải thay đổi. Trước kia theo mô hình cũ, Phòng công chứng là
cơ quan nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước, bộ máy cán bộ
nhân viên cũng thuộc biên chế nhà nước. Nhà nước quản lý theo cơ chế quản
lý đối với cơ quan trực thuộc. Vì vậy việc can thiệp bằng phương pháp mệnh
lệnh hành chính của nhà nước nhiều khi cũng gây ra một số hạn chế: ví dụ
việc quyết định về biên chế khiến cho các phòng công chứng phải chịu áp lực
về biên chế mà không có quyền tự lựa chọn, sa thải nhân viên, giao nhiều chỉ
tiêu mà không cung cấp đủ điều kiện cần thiết, giới hạn mức lương, thù lao
không tương xứng với khối lượng công việc Theo mô hình mới, công
chứng đã được coi là một nghề, vì vậy, nhà nước quản lý theo cơ chế quản lý
đối với tổ chức nghề nghiệp. Các tổ chức hành nghề công chứng phải tự chủ
về mặt tài chính và tự tìm ra phương thức tổ chức, hoạt động cũng như duy trì
hoạt động sao cho có hiệu quả nhất. Nhà nước chỉ quản lý vĩ mô thông qua



20

việc hoạch định các quy hoạch phát triển, chủ trương, chính sách ... và giám
sát, kiểm tra hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng. Điều này làm
cho việc quản lý của nhà nước sẽ tập trung, bao quát và khách quan hơn.
Tóm lại, xã hội hóa công chứng là giải pháp hữu hiệu để cải cách mô
hình công chứng nhà nước, đảm bảo hoạt động công chứng phát triển, mở
rộng, chuyên nghiệp, phục vụ tốt hơn nhu cầu công chứng của nhân dân.
1.1.4. Điều kiện cần thiết để xã hội hoá công chứng
Điều kiện thứ nhất là Nhà nước phải xây dựng được cơ sở pháp lý đầy
đủ, vững chắc cho việc xã hội hóa công chứng. Quá trình này chỉ có thể thành
công nếu dựa trên pháp luật. Bằng các quy định của mình, Nhà nước tạo điều
kiện phát triển rộng mạng lưới công chứng, đảm bảo sự bình đẳng giữa các tổ
chức hành nghề công chứng. Các văn bản do các tổ chức hành nghề công
chứng phải được Nhà nước thừa nhận là có giá trị pháp lý như nhau. Nhà nước
cũng phải đồng bộ hóa hệ thống pháp luật của mình, đảm bảo sự thống nhất
giữa các quy định trong luật công chứng theo hướng xã hội hóa với các quy
định trong các bộ luật khác như: luật dân sự, luật đất đai, luật kinh doanh bất
động sản, luật nhà ở, luật hộ tịch . Nhà nước cũng phải tính đến sự phù
hợp giữa các quy định pháp luật về công chứng với mức độ phát triển kinh
tế xã hội. Các quy định này cũng phải có sự chuyển biến hợp lý với từng
giai đoạn cụ thể. Cơ sở pháp lý chính là điều kiện tiên quyết cho việc xã hội
hóa công chứng.
Điều kiện thứ hai là việc phát triển đội ngũ công chứng viên cả về số
lượng và chất lượng. Để có được mạng lưới công chứng phát triển rộng khắp
thì việc đảm bảo về mặt nhân sự có ý nghĩa rất quan trọng. Nhà nước phải có
chính sách đào tạo cũng bổ nhiệm công chứng viên nhằm mục đích tạo ra sự
thuận lợi, thông thoáng cho quá trình xã hội hóa. Nguồn công chứng viên

không chỉ là đối tượng công chức nhà nước như trước kia mà cần phải được
mở rộng hơn. Nhà nước cũng phải đảm bảo việc phát triển số lượng công


21

chứng viên đi đôi với việc nâng cao chất lượng. Quá trình này rất quan trọng,
cần phải có thời gian và những biện pháp phù hợp để có thể thực hiện thành
công mục tiêu đặt ra.
Điều kiện thứ ba là phải đảm bảo sự quản lý của nhà nước. Công chứng
có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm an toàn pháp lý đối với các hợp
đồng, giao dịch dân sự, kinh tế. Nó góp phần hỗ trợ tích cực cho nhà nước
thực hiện quản lý kinh tế, quản lý xã hội bằng pháp luật. Vì vậy, nếu mạng
lưới công chứng tăng lên quá nhanh, với số lượng nhiều trên quy mô lớn mà
không đảm bảo về quản lý nhà nước thì rất dễ dẫn đến sự phát triển không
đúng định hướng, thậm chí có thể gây ra sự hỗn loạn, mất ổn định về mặt xã
hội. Sự quản lý của nhà nước thể hiện qua việc đề ra các chính sách, quy
hoạch phát triển, ban hành pháp luật cũng như giám sát, kiểm tra việc thực
hiện của các tổ chức hành nghề công chứng. Mức độ quản lý của nhà nước
cũng phải phù hợp với từng giai đoạn trong quá trình xã hội hóa. Quá trình
chuyển giao hoạt động công chứng ngày càng mạnh thì nhà nước càng cần
phải tăng cường việc kiểm tra, giám sát.
Điều kiện thứ tư là sự chuyển biến về mặt ý thức xã hội về vấn đề công
chứng. Trước hết và quan trọng nhất là thay đổi nhận thức của người dân những người vốn theo định kiến công chứng phải là hoạt động của cơ quan
nhà nước với tâm lý chỉ tin vào nhà nước. Vì vậy, khi nhà nước chuyển giao
hoạt động công chứng cho các tổ chức cá nhân ngoài nhà nước sẽ dẫn đến tâm
lý e ngại, hoài nghi, thiếu tin tưởng. Để có thể nâng cao hiệu quả thực hiện
quá trình xã hội hóa công chứng thì mỗi người dân đều phải nhận thức đúng
đắn về cơ sở pháp lý cũng như ý nghĩa của quá trình này. Chỉ khi có sự tham
gia, ủng hộ của đông đảo nhân dân thì mới tạo ra được cơ sở xã hội rộng rãi,

thuận lợi cho quá trình đổi mới. Bên cạnh đó, việc xóa bỏ độc quyền nhà nước
trong hoạt động công chứng cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến bộ phận cán bộ
công chức đang hoạt động trong các phòng công chứng nhà nước. Đây là bộ


22

phận vốn đã quen với sự bao cấp của nhà nước, hoạt động trong mô hình công
chứng nhà nước và đang phải đứng trước yêu cầu chuyển đổi của quá trình xã
hội hóa. Tuy nhiên, đây là những người vốn có trình độ chuyên môn, tính
chuyên nghiệp cao và đặc biệt là có kinh nghiệm lâu năm làm việc trong lĩnh
vực công chứng. Đây chính là nguồn nhân lực quan trọng cần phải tận dụng
để phát triển, mở rộng mạng lưới công chứng. Vì vậy sự chuyển biến cả về
tâm lý và nhận thức là rất cần thiết để bộ phận này tham gia tích cực vào quá
trình xã hội hóa.
1.2.

Sự cần thiết phải xã hội hoá công chứng ở Việt Nam
Trong thời gian 18 năm qua, từ năm 1991 đến nay, hệ thống công

chứng nhà nước ở nước ta đã đạt được nhiều thành tích, đã có những đóng góp
tích cực cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phục vụ quản lý nhà
nước, đáp ứng yêu cầu công chứng của nhân dân, phòng ngừa tranh chấp, vi
phạm pháp luật. Các phòng công chứng nhà nước đã công chứng hàng triệu
văn bản, đem lại sự an toàn pháp lý cho rất nhiều hợp đồng giao dịch. Sự đóng
góp, cống hiến của các phòng công chứng nhà nước đã được cộng đồng xã hội
ghi nhận, người dân hầu hết có sự tin tưởng cũng như mong muốn văn bản,
hợp đồng giao dịch của mình được đóng dấu công chứng. Đây là những thành
quả tốt đẹp không thể phủ nhận. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế xã
hội, hệ thống công chứng nhà nước ở nước ta đã bộc lộ những tồn tại hạn chế

cả về mặt tổ chức và hoạt động. Đây cũng là sự tồn tại tất yếu của quá trình
phát triển đi lên. Và xã hội hóa công chứng chính là giải pháp cho những hạn
chế đó.
Thứ nhất, cần phải xã hội hóa công chứng để thay đổi cơ chế quản lý
của Nhà nước cho phù hợp với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Cơ
chế quản lý quan liêu bao cấp với nhiều hạn chế sẽ được xóa bỏ, Nhà nước
chuyển giao hoạt động công chứng cho các cá nhân tổ chức đáp ứng đủ điều
kiện theo quy định để tập trung vào quản lý vĩ mô bằng chính sách, pháp luật.


23

Những quy định mang đặc trưng của cơ chế quản lý quan liêu bao cấp như:
hạn chế biên chế, giới hạn mức lương thưởng, đặt ra chỉ tiêu phải đạt được
sẽ không còn. Thay vào đó, các tổ chức cá nhân được Nhà nước chuyển giao sẽ
tự quyết định theo nhu cầu cần thiết. Sự thay đổi cơ chế quản lý này là cần thiết
để nhà nước tự nâng cao năng lực quản lý của mình cũng như đảm bảo tính chủ
động cho cá nhân tổ chức được chuyển giao.
Thứ hai, cần phải xã hội hóa công chứng để đáp ứng nhu cầu công
chứng ngày càng tăng của xã hội. Cùng với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường cũng như sự mở rộng quy mô xã hội, các quan hệ dân sự, kinh tế đã
phát triển mạnh mẽ, đa dạng và ngày càng phức tạp. Nhu cầu công chứng hợp
đồng giao dịch của các cá nhân, tổ chức có chiều hướng ngày càng tăng, kèm
theo đó là sự đòi hỏi cao về cả chất lượng văn bản công chứng và thời gian đáp
ứng. Việc công chứng, chứng thực được yêu cầu thực hiện một cách chính
xác theo đúng pháp luật nhưng phải nhanh chóng, kịp thời, thuận tiện cho
người dân. [35]
Đứng trước thực trạng đó, hệ thống công chứng nhà nước với số lượng
rất hạn chế của các phòng công chứng cũng như các công chứng viên không
đủ phục vụ nhu cầu công chứng. Mặc dù, tại các phòng công chứng nhà nước

ở các thành phố trung tâm, các cán bộ, nhân viên đều phải làm việc quá sức,
thậm chí làm thêm giờ trong cả ngày nghỉ nhưng tình trạng quá tải, xếp hàng
chờ công chứng xảy ra liên tục trong một thời gian dài, gây ra sự bức xúc cho
người dân. Người dân cũng như các phương tiện thông tin đại chúng liên tục
phản ánh sự ách tắc, bất tiện, mất nhiều công sức, thời gian khi đi công chứng.
Điều này đã tạo ra tâm lý xã hội không tốt. Trong khi đó, giải pháp thành lập
thêm các phòng công chứng mới gặp nhiều khó khăn do Nhà nước phải đầu tư
rất lớn cả về tài chính, trụ sở, tổ chức, con người. Đặc biệt là trong giai đoạn
Nhà nước đang đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp với mục tiêu
xây dựng bộ máy nhà nước tinh giản, gọn nhẹ và hiệu quả. Việc mở rộng


×