Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Những vấn đề pháp lý về sử dụng đất của người việt nam định cư ở nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.69 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ HẰNG

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ SỬ DỤNG ĐẤT
CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN QUANG TUYẾN

HÀ NỘI 2010


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cám ơn tiến sĩ Nguyễn Quang Tuyến đã tận tình
giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin được tỏ lòng tri ân tới các thầy giáo, cô giáo trường Đại
học Luật Hà Nội, những người thân trong gia đình, những người bạn đã luôn
ủng hộ, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thiện luận văn.


MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ĐỐI VỚI NGƯỜI
VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ DỤNG ĐẤT TẠI VIỆT NAM ... 7
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH
CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ DỤNG ĐẤT TẠI VIỆT NAM ......................... 7
1.1.1. Khái niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài ............................ 7
1.1.2. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước
ngoài sử dụng đất tại Việt Nam .................................................................. 9
1.1.3. Các hình thức sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
tại Việt Nam ............................................................................................. 11
1.2. VAI TRÒ VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH
CƯ Ở NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
VIỆT NAM .................................................................................................. 12
1.3. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG CÁC
QUY ĐỊNH ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ
DỤNG ĐẤT TẠI VIỆT NAM...................................................................... 15
1.3.1 Cơ sở lý luận của việc xây dựng các quy định về quyền và nghĩa vụ
của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam ....... 15
1.3.2. Cơ sở thực tiễn của việc xây dựng các quy định về SDĐ của người
Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam ........................................... 17
1.4. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUY
ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM ............................................................................. 19
1.4.1. Giai đoạn trước Đổi mới (trước năm 1986) ..................................... 19
1.4.2. Giai đoạn sau Đổi mới (từ năm 1986 đến nay) ................................ 19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC
QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM ..................................................................... 25



2.1. CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIAO ĐẤT, CHO THUÊ ĐẤT ĐỐI VỚI NGƯỜI
VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ DỤNG ĐẤT TẠI VIỆT NAM
..................................................................................................................... 25
2.1.1. Quy định về căn cứ giao đất, cho thuê đất ......................................... 25
2.1.2. Quy định về hình thức sử dụng đất ................................................. 26
2.1.3. Quy định về thẩm quyền giao đất, cho thuê đất ................................. 28
2.2. CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH
CƯ Ở NƯỚC NGOÀI TRONG KHU CÔNG NGHIỆP, KHU KINH TẾ VÀ
KHU CÔNG NGHỆ CAO ............................................................................ 28
2.3. CÁC QUY ĐỊNH VỀ VIỆC NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC
NGOÀI ĐƯỢC MUA NHÀ Ở GẮN LIỀN VỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở
TẠI VIỆT NAM........................................................................................... 32
2.4. CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỜI HẠN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI VIỆT NAM
CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI............................. 36
2.5. CÁC QUY ĐỊNH VỀ CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT, QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ CÁC TÀI SẢN KHẮC GẮN LIỀN
VỚI ĐẤT CHO NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ
DỤNG ĐẤT TẠI VIỆT NAM...................................................................... 37
2.5.1. Quy định về đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản
khác gắn liền với đất................................................................................. 37
2.5.2. Quy định về thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất . 38
2.5.3. Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất .............. 39
2.5.4. Nghĩa vụ tài chính của việc cấp Giấy chứng nhận ........................... 46
2.6. QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ DỤNG ĐẤT TẠI VIỆT NAM ................. 46
2.6.1. Quy định vê quyền và nghĩa vụ chung của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam........................................................ 46



2.6.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ cụ thể của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam........................................................ 47
2.7. QUY ĐỊNH VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT CỦA NGƯỜI VIỆT
NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ DỤNG ĐẤT TẠI VIỆT NAM ....... 53
2.8. QUY ĐỊNH VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ DỤNG
ĐẤT TẠI VIỆT NAM .................................................................................. 54
2.9. QUY ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI ........ 56
2.10. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG ĐẤT CỦA
NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM........... 57
2.10.1. Những thành công ........................................................................ 57
2.10.2. Những hạn chế, tồn tại .................................................................. 60
2.10.3. Nguyên nhân cơ bản của những tồn tại, hạn chế ........................... 61
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ SỬ DỤNG ĐẤT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM ............................................................................................... 64
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG ĐẤT CỦA
NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM........... 64
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT SỬ
DỤNG ĐẤT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI TẠI
VIỆT NAM .................................................................................................. 65
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việt Nam đang ngày càng khẳng định vai trò và vị trí của mình trên

trường quốc tế. Trải qua hơn hai thập kỷ thực hiện công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và ngoại giao… Những thành tựu này
đã được cộng đồng quốc tế công nhận. Theo đánh giá của Liên hiệp quốc,
Việt Nam là quốc gia thành công nhất trên thế giới trong việc giảm tỷ lệ đói
nghèo. Có được những thành tựu phát triển ấn tượng như ngày hôm nay là
nhờ đường lối phát triển đúng đắn của Đảng trong việc tranh thủ có hiệu quả
sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc và huy
động mọi nguồn nội lực của người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước. Với
quan điểm coi cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ
phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, Nhà nước ta đã ban hành
nhiều chính sách, cơ chế mới nhằm khuyến khích, thu hút sự đầu tư của người
Việt Nam sống xa Tổ quốc đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước vì
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Một
trong những chính sách đó là việc Nhà nước ban hành các quy định đối với
người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất (SDĐ) tại Việt Nam nhằm
tạo cơ sở pháp lý để các chủ thể này dễ dàng tiếp cận vấn đề đất đai triển khai
thực hiện dự án đầu tư cũng như làm ăn gắn bó lâu dài tại Việt Nam. Qua gần
10 năm triển khai thi hành cho thấy các quy định này đã phát huy tác dụng
trong cuộc sống góp phần hình thành khung pháp lý ngày càng đồng bộ, tạo
cơ sở pháp lý bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người Việt Nam định cư
ở nước ngoài trong SDĐ thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam và giúp Nhà
nước quản lý có hiệu quả việc SDĐ của người Việt Nam định cư ở nước
ngoài. Tuy nhiên bên cạnh đó, các quy định về SDĐ của người Việt Nam định


2

cư ở nước ngoài tại Việt Nam cũng bộc lộ một số tồn tại như chưa mở rộng
đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua nhà ở; chưa tạo

điều kiện cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài được tham gia vào thị
trường bất động sản (BĐS) nói chung và thị trường quyền SDĐ nói riêng…
Những hạn chế này làm cho một bộ phận bà con là người Việt Nam định cư ở
nước ngoài còn e dè, chưa mạnh dạn tìm hiểu, đầu tư làm ăn lâu dài tại Việt
Nam. Nhằm tìm ra giải pháp khắc phục những tồn tại này, thì việc nghiên
cứu, tìm hiểu các quy định pháp luật đối với người Việt Nam định cư ở nước
ngoài SDĐ tại Việt Nam là rất cần thiết; đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi
Quốc hội và Chính phủ đang rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về cho
phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài được tham gia kinh doanh BĐS,
được mua nhà ở gắn liền với quyền SDĐ ở tại Việt Nam. Với những lý do
nêu trên, tôi lựa chọn đề tài: “Những vấn đề pháp lý về sử dụng đất của
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam” làm luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt
Nam tiếp cận dưới góc độ pháp lý không phải là đề tài mới mẻ. Thời gian qua
ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này được
công bố mà tiêu biểu là một số công trình khoa học được công bố dưới đây:
- “Quyền sử dụng đất và nghĩa vụ của người nước ngoài sử dụng đất tại
Việt Nam” của TS. Nguyễn Quang Tuyến - Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Bộ
Tư pháp), số 10 năm 2004;
- Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về việc cho phép người Việt Nam
định cư ở nước ngoài được quyền mua nhà ở gắn liền với quyền SDĐ ở tại
Việt Nam” của Phạm Thị Tuyến, Trường Đại học Luật Hà Nội (năm 2005);


3

- Khoá luận tốt nghiệp “Các vấn đề pháp lý về quyền và nghĩa vụ của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng

đất tại Việt Nam" của Vũ Thị Lý, Trường Đại học Luật Hà Nội (năm 2005);
- Khóa luận tốt nghiệp “Tìm hiểu các vấn đề về quy định giao đất, cho
thuê đất thực hiện các dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê của
tổ chức kinh tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài” của Nguyễn Thị Thu, Trường Đại học Luật Hà Nội (năm 2008);
- Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về hình thức giao đất có thu tiền sử
dụng đất áp dụng đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân trong nước,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài” của Trần Thị Hồng Nhung, Trường
Đại học Luật Hà Nội (năm 2008);
- Khóa luận tốt nghiệp “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về việc
cho phép Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở tại Việt Nam” của
Trần Thị Thu Giang, Trường Đại học Luật Hà Nội (năm 2009).v.v..
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đây mới tập trung tìm hiểu
nội dung các quy định hiện hành về vấn đề SDĐ của người Việt Nam định cư
ở nước ngoài tại Việt Nam mà chưa hệ thống hóa, đề cập đầy đủ, toàn diện cơ
sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng cũng như xem xét quá trình hình
thành, phát triển của chế định pháp luật này… đặt trong mối quan hệ với việc
Nhà nước ta ban hành các chính sách, quy định mới về mở rộng quyền và đối
tượng cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua nhà ở tại Việt
Nam, cho phép họ được tham gia kinh doanh BĐS bình đẳng với các chủ thể
khác. Kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các công trình khoa học đã
được công bố, Luận văn hệ thống hóa, góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc xây dựng các quy định về vấn đề SDĐ của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài tại Việt Nam; đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải
pháp hoàn thiện mảng pháp luật về vấn đề này đặt trong mối quan hệ với các


4

chính sách, quy định mới của Nhà nước ta về mở rộng đối tượng và quyền

cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu, kinh doanh BĐS tại
Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn được giới hạn ở phạm vi cụ thể sau:
Nghiên cứu nội dung và thực trạng áp dụng các quy định của các đạo Luật đất
đai và văn bản hướng dẫn thi hành về vấn đề SDĐ của người Việt Nam định
cư ở nước ngoài tại Việt Nam được Nhà nước ta ban hành từ năm 1993 (năm
ban hành Luật đất đai năm 1993) đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra; trong quá trình
nghiên cứu Luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin;
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
+ Phương pháp nghiên cứu bình luận, phương pháp diễn giải, phương
pháp lịch sử… được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu tổng quan
những vấn đề lý luận đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài SDĐ tại
Việt Nam;
+ Phương pháp so sánh luật học, phương pháp đánh giá, chứng minh
v.v.. được sử dụng trong Chương 2 khi tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật
về SDĐ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam;
+ Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp… được sử dụng ở
Chương 3 khi xem xét, tìm hiểu về định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về SDĐ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


5

5.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài có các mục đích nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Hệ thống hóa, bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng
các quy định về vấn đề SDĐ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại
Việt Nam;
- Đánh giá thực trạng pháp luật về SDĐ của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài tại Việt Nam;
- Hoàn thiện pháp luật về SDĐ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
tại Việt Nam;
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể của Luận văn bao gồm:
- Đưa ra những luận giải khoa học về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
xây dựng pháp luật về SDĐ đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại
Việt Nam;
- Nhận diện các đặc trưng cơ bản của pháp luật về SDĐ của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam;
- Nhận diện cơ chế áp dụng pháp luật về vấn đề SDĐ của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam;
- Tìm hiểu và chỉ ra những hạn chế, tồn tại cũng như nguyên nhân của
quá trình áp dụng pháp luật về SDĐ của người Việt Nam định cư ở nước
ngoài tại Việt Nam;
- Đề xuất các kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về SDĐ của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam;
6. Những đóng góp của luận văn


6

Luận văn “Những vấn đề pháp lý về sử dụng đất của Người Việt Nam
định cư ở nước ngoài tại Việt Nam” có những đóng góp nhất định về mặt
khoa học pháp lý. Những đóng góp này bao gồm:

- Hệ thống hóa và góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc xây dựng các quy định về vấn đề SDĐ của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài tại Việt Nam;
- Chỉ ra những hạn chế, tồn tại về nội dung các quy định về SDĐ của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam dựa trên cơ sở đánh giá
quá trình thực thi các quy định này trên thực tế;
- Đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định về SDĐ
của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam;
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn được kết cấu thành 3 chương. Cụ thể:
- Chương 1: Tổng quan những vấn đề lý luận đối với Người Việt Nam
định cư ở nước ngoài SDĐ tại Việt Nam;
- Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về
sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam;
- Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về sử dụng
đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam.


7

CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ĐỐI VỚI NGƯỜI
VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ DỤNG ĐẤT TẠI
VIỆT NAM

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH
CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ DỤNG ĐẤT TẠI VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm người Việt Nam định cư ở nước ngoài


Với quan điểm coi cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài
(Trong luận văn này, người Việt Nam định cư ở nước ngoài còn được gọi là
kiều bào ở nước ngoài hay Việt kiều) là một bộ phận không thể tách rời của
dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, chủ
trương nhằm thu hút đông đảo kiều bào về nước tìm hiểu cơ hội đầu tư, làm
ăn lâu dài tại Việt Nam. Cụm từ “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài”
được nhiều văn bản pháp luật đề cập như Luật đầu tư, Luật quốc tịch, Luật đất
đai, Luật về nhà ở... Tìm hiểu những quy định về vấn đề này cho thấy trước
năm 1982, trong các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta cụm từ “Việt
kiều” hoặc “Người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài” hay được sử dụng khi
đề cập đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tuy nhiên, khi Quyết
định số 84-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) được ban hành
ngày 28/07/1983 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Việt
kiều Trung ương thì cụm từ “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài” đã ra
đời thay thế cụm từ “Người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài”. Thuật ngữ
này được các văn bản pháp luật được ban hành trong thời gian gần đây quan
niệm như sau:


8

Theo Khoản 6, Điều 2 - Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi)
ngày 20/05/1998: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt
Nam và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”;
Điều 5 - Nghị định số 07/1998/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
20/05/1998 lại quan niệm: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài bao gồm
người có quốc tịch Việt Nam định cư ở nước ngoài và người gốc Việt Nam có
quốc tịch nước khác”;
Theo Điều 3 - Nghị định số 51/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày
08/07/1999 quy định chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước

(sửa đổi) năm 1998: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư theo Luật
khuyến khích đầu tư trong nước, bao gồm: Người có quốc tịch Việt Nam và
người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”.
Như vậy, theo các văn bản pháp luật trên đây thì người Việt Nam định
cư ở nước ngoài bao gồm: Người có quốc tịch Việt Nam nhưng sinh sống ở
nước ngoài và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước
ngoài. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật này lại chưa phân biệt rõ khái niệm
“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài” và khái niệm “Người Việt Nam ở
nước ngoài”. Chỉ đến khi Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 ra đời thay thế
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988 thì hai khái niệm này mới được “giải mã”
rõ ràng, theo đó:
- “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và
người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài” (khoản 4
Điều 2);
- Còn “Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người
gốc Việt Nam đang thường trú hoặc tạm trú ở nước ngoài” (khoản 3 Điều 2);
Như vậy, theo pháp luật hiện hành tiêu chí để xác định người Việt Nam
định cư ở nước ngoài với người Việt Nam ở nước ngoài là họ có cư trú, làm


9

ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài hay không. Những người là công dân Việt
Nam, người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài thì
được xác định là người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Công dân Việt Nam,
người gốc Việt Nam đi học tập, công tác, lao động mà không định cư lâu dài
ở nước ngoài thì được xác định là người Việt Nam ở nước ngoài. Quan niệm
của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 phù hợp với quan niệm về quốc tịch
của nhiều quốc gia trên thế giới. Quan niệm này được Luật Quốc tịch Việt
Nam năm 2008 kế thừa. Hơn nữa, Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 còn

giải thích rõ thế nào là công dân Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở
nước ngoài và người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài, cụ thể:
- Công dân Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài là
những người Việt Nam ở nước ngoài vẫn mang quốc tịch Việt Nam. Trong
quá trình cư trú, sinh sống, làm ăn lâu dài ở nước ngoài họ có thể nhập quốc
tịch của một nước khác hoặc chưa nhập quốc tịch của bất kỳ quốc gia nào;
- “Người gốc Việt nam định cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã
từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định
theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu
dài ở nước ngoài” (khoản 4 Điều 3);
Tóm lại, Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam,
người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống, làm ăn lâu dài ở nước ngoài.
1.1.2. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
sử dụng đất tại Việt Nam

Nghiên cứu những vấn đề pháp lý về SDĐ của người Việt Nam định cư
ở nước ngoài tại Việt Nam, trước hết chúng ta cần tìm hiểu khái niệm quyền
và nghĩa vụ của chủ thể quan hệ pháp luật nói chung và quyền và nghĩa vụ
của người sử dụng đất nói riêng;


10

- Theo Từ điển Luật học: “Quyền công dân: là khả năng tự do lựa chọn
hành vi của công dân mà Nhà nước phải bảo đảm khi công dân yêu cầu”1[29,
tr. 649], còn “Nghĩa vụ: là việc Nhà nước đòi hỏi công dân phải thực hiện
những hành vi cần thiết khi Nhà nước yêu cầu, nếu không thực hiện thì Nhà
nước buộc phải áp dụng bằng mọi biện pháp từ giáo dục, thuyết phục đến
cưỡng chế”2[29, tr. 561];
- Theo Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, quyền và nghĩa vụ của

chủ thể quan hệ pháp luật được quan niệm: Quyền chủ thể “là cách xử sự mà
pháp luật cho phép chủ thể được tiến hành. Nói cách khác, quyền chủ thể là
khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định được pháp luật cho phép.
Nói là khả năng có nghĩa là chủ thể có thể lựa chọn giữa việc xử sự theo cách
thức mà nó được phép tiến hành hoặc không xử sự như vậy”3[25, tr. 448]. Còn
nghĩa vụ chủ thể “là cách xử sự mà Nhà nước bắt buộc chủ thể phải tiến hành
nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác. Nghĩa vụ pháp lý tự nó
không phải là hành vi mà chỉ là sự cần thiết phải xử sự như vậy. Nếu sự cần
thiết ấy được thể hiện trong hoạt động thực tiễn thì nghĩa vụ pháp lý đó đã
được thực hiện”4[25, tr. 449].
Trong lĩnh vực đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất được
đề cập trong nhiều tài liệu, sách báo pháp lý. Theo Giáo trình Luật đất đai:
“Quyền của người sử dụng đất là khả năng mà pháp luật cho phép người sử
dụng đất được thực hiện những hành vi nhất định trong quá trình sử dụng đất
nhằm sử dụng đất đúng mục đích, hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả kinh tế cao;
Nghĩa vụ của người sử dụng đất là cách xử sự mà pháp luật bắt buộc
người sử dụng đất phải tiến hành trong quá trình sử dụng đất nhằm không làm
tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và của các chủ thể sử
dụng đất khác”5[28, tr. 191];


11

Theo pháp luật đất đai hiện hành, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài sử dụng đất tại Việt Nam bao gồm các đối tượng cụ thể là người Việt
Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư, hoạt động văn hóa, hoạt động khoa học
thường xuyên hoặc về sống ổn định tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam
giao đất, cho thuê đất, được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở
(Khoản 6 Điều 9 Luật đất đai năm 2003). Họ là một trong những chủ thể sử
dụng đất và được pháp luật cho hưởng các quyền và nghĩa vụ theo quy định

của pháp luật đất đai.
1.1.3. Các hình thức sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước
ngoài tại Việt Nam

Ở nước ta do tính đặc thù của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai: Đất
đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu; Nhà nước thay
mặt chủ sở hữu toàn dân về đất đai thực hiện việc phân bổ đất đai dựa trên
quy hoạch, kế hoạch và nhu cầu sử dụng đất của mỗi tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân. Nhà nước thực hiện việc phân bổ vốn đất đai cho các nhu cầu sử dụng
đất của xã hội thông qua phương thức giao đất, cho thuê đất và công nhận
quyền sử dụng đất. Thông qua các phương thức này làm phát sinh quyền sử
dụng đất của người sử dụng. Mặc dù pháp luật đất đai không đưa ra một quan
niệm cụ thể về hình thức sử dụng đất song tìm hiểu các quy định hiện hành
Tôi cho rằng hình thức sử dụng đất là cách thức chiếm hữu, sử dụng thông
qua việc Nhà nước giao, cho thuê hoặc công nhận quyền sử dụng đất của các
chủ thể theo đúng mục đích sử dụng đất nhất định. Với cách thức tiếp cận như
vậy thì hình thức sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại
Việt Nam được hiểu là cách thức mà pháp luật cho phép người Việt Nam định
cư ở nước ngoài chiếm hữu, sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê hoặc
công nhận việc nhận chuyển quyền sử dụng đất theo đúng mục đích sử dụng


12

đất nhất định. Các hình thức sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước
ngoài tại Việt Nam bao gồm:
- Một là, hình thức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất;
- Hai là, hình thức được Nhà nước cho thuê đất (bao gồm hình thức
thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm và hình thức thuê đất trả tiền thuê đất một
lần cho cả thời gian thuê);

- Ba là, hình thức sử dụng đất thông qua việc Nhà nước công nhận
quyền sử dụng đất, bao gồm: Hình thức sử dụng đất thông qua việc được mua
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam và hình thức sử dụng đất
thông qua việc thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất như nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, thuê lại đất trong các khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao; nhận thừa kế hoặc nhận tặng cho hoặc nhận chuyển
nhượng nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng
được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
1.2. VAI TRÒ VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH
CƯ Ở NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
VIỆT NAM
Với mục tiêu phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tiếp tục đổi mới
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Đồng bào định cư ở
nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân
tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác,
hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước. Nhà nước tạo điều kiện
thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, chấp hành tốt pháp luật nước
sở tại; bảo vệ quyền lợi chính đáng của đồng bào. Làm tốt công tác thông tin
trong cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài về tình hình trong


13

nước và các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Có chính sách khuyến
khích người Việt Nam, trí thức Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương,
góp phần xây dựng đất nước; khen thưởng nhiều người có thành tích đóng
góp cho Tổ quốc”6[3, tr. 123]. Trong lịch sử cách mạng vẻ vang của dân tộc,
Đảng và Nhà nước ta luôn xác định cộng đồng người Việt Nam định cư ở
nước ngoài là bộ phận không thể tách rời của đại gia đình 54 dân tộc anh em

sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam và đã có những chính sách, biện pháp thiết
thực nhằm tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, động viên,
khuyến khích kiều bào đóng góp công sức, trí tuệ, vật chất vào sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Theo số liệu của Uỷ ban về người Việt Nam định cư
ở nước ngoài (Bộ Ngoại giao), hiện có khoảng ba triệu người Việt Nam đang
định cư, sinh sống lâu dài ở hơn 90 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cộng đồng
người Việt Nam định cư ở nước ngoài ngày càng hội nhập vững chắc và có
những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của các nước sở tại. Do chính sách
đối ngoại cởi mở của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua tính trung
bình hàng năm có tới nửa triệu kiều bào về nước thăm thân và tìm hiểu cơ hội
làm ăn, đầu tư tại Việt Nam. Theo con số không chính thức, thu nhập của
cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài hiện nay ước đạt khoảng 30
đến 40 tỷ USD/ năm. Chí tính riêng năm 2005, lượng kiều hối gửi về nước là
4,429 tỷ USD. Số lượng các dự án đầu tư tại Việt Nam của kiều bào là 2.050
dự án với tổng số vốn đăng ký là 14.500 tỷ VNĐ. Hàng năm có hàng trăm trí
thức kiều bào trở về làm việc tại các cơ sở kinh tế, thương mại, các trường đại
học, các viện nghiên cứu v.v.. Họ đã có những đóng góp không nhỏ vào việc
đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp phát
triển đất nước. Các dẫn chứng trên đây cho thấy vai trò và những đóng góp


14

quan trọng của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài đối với sự
nghiệp phát triển đất nước.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất
nước ta không thể thực hiện thành công nếu thiếu nguồn lực trí tuệ và chất
xám. Trong khi đó, cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài lại đang
sở hữu thế mạnh này. Họ là những người sinh sống lâu dài ở các nước phát

triển và có điều kiện học tập, nghiên cứu và tiếp cận với những thành tựu
khoa học - kỹ thuật tiên tiến, hiện đại của thế giới. Hơn nữa, cộng đồng người
Việt Nam định cư ở nước ngoài lại đang làm việc ở các công ty lớn, đa quốc
gia không chỉ có nguồn lực tài chính hùng mạnh mà còn có phương thức quản
lý hiện đại nên có điều kiện tiếp thu các phương thức quản lý tiên tiến. Đây là
sự bổ sung vô cùng cần thiết cho đất nước trong quá trình phát triển và hội
nhập nhằm thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển.
Mặt khác với truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, cộng đồng
người Việt Nam định cư ở nước ngoài mặc dù sống xa tổ quốc song đại đa số
kiều bào đều hướng về quê hương và mong muốn có những đóng góp vào sự
nghiệp xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh. Với mong muốn đó, cộng
đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài đóng vai trò là “cầu nối” quảng
bá hình ảnh, đất nước và con người Việt Nam đến với chính phủ, các công ty
nước ngoài, doanh nhân nước ngoài nơi họ sinh sống. Hơn nữa, cộng đồng
người Việt Nam định cư ở nước ngoài còn thực hiện sứ mệnh xúc tiến thương
mại, đầu tư, tổ chức mời gọi các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam du lịch,
tìm hiểu cơ hội đầu tư và thực hiện các dự án đầu tư tại quê nhà. Bởi lẽ do
sinh sống lâu dài ở nước ngoài, kiều bào đã dần hội nhập vào cuộc sống của
nước sở tại và có nhiều điều kiện, thiết lập nhiều mối quan hệ với giới doanh
nhân nước ngoài nên có nhiều ưu thế trong việc thu hút, quảng bá để lượng
vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam. Mặc dù sống xa Tổ quốc song


15

cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn mang trong mình đậm
nét bản chất văn hóa Việt Nam kết hợp với việc hòa nhập vào cuộc sống công
nghiệp hiện đại của phương Tây, am hiểu chính sách, luật pháp của nước sở
tại và vượt qua rào cản ngôn ngữ nên kiều bào đóng vai trò quan trọng trong
việc giúp các doanh nghiệp trong nước tìm hiểu cơ hội đầu tư làm ăn và đưa

hàng hóa do trong nước sản xuất thâm nhập vào thị trường các quốc gia mà
kiều bào đang sinh sống.
Tóm lại, Cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài không chỉ
có những đóng góp to lớn vào công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước mà
còn có những đóng góp rất quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước vì
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
1.3. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG CÁC
QUY ĐỊNH ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI SỬ
DỤNG ĐẤT TẠI VIỆT NAM
1.3.1 Cơ sở lý luận của việc xây dựng các quy định về quyền và nghĩa vụ của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam

Các quy định về SDĐ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại
Việt Nam được xây dựng dựa trên những cơ sở lý luận chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, quan điểm, đường lối của Đảng về đại đoàn kết toàn dân.
Một trong bốn bài học lớn của cách mạng Việt Nam được Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX tổng kết là bài học phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc. Nhờ
biết phát huy truyền thống đoàn kết, trong suốt quá trình dựng nước và giữ
nước dân tộc ta đã chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân
sự hùng mạnh để trường tồn và phát triển cho đến tận ngày nay. Trong công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa muốn đưa đất nước phát triển nhanh
chóng tiến kịp với các nước tiên tiến trên thế giới, chúng ta phải biết khơi dậy


16

lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và phát huy sức mạnh đoàn kết của người Việt
Nam không phân biệt đó là người Việt Nam ở trong nước hay người Việt Nam ở
nước ngoài. Đảng ta xác định đại đoàn kết dân tộc “là vấn đề chiến lược nhất quán
của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và nhân tố có ý

nghĩa quyết định bảo vệ thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”7[3, tr.41]. Để khuyến khích kiều bào ta ở nước ngoài hướng về quê hương và
có những đóng góp thiết thực vào công cuộc xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước
phải có những chính sách, pháp luật nhằm bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của
kiều bào khi đầu tư, làm ăn lâu dài tại Việt Nam. Một trong những chính sách, pháp
luật đó là việc quy định các vấn đề pháp lý đối với người Việt Nam định cư ở nước
ngoài sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam;
Thứ hai, một trong những yêu cầu của việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới
hiện nay là phải hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường mà trước hết phải
hình thành các thị trường mang tính “đầu vào” của hoạt động sản xuất - kinh doanh;
đó là thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sản và thị trường khoa
học công nghệ. Tuy nhiên dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, nền kinh tế thị trường của nước ta nói chung và thị trường bất động sản nói
riêng không thể “đóng cửa” hay “bế quan, tỏa cảng” với thế giới mà phải mở cửa thị
trường để các nhà đầu tư trong và ngoài nước được kinh doanh bình đẳng và minh
bạch. Đây cũng chính là cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO). Với sức hấp dẫn từ lợi nhuận cao do hoạt động đầu tư, kinh doanh
của thị trường bất động sản đem lại đã thu hút một lượng ngoại tệ lớn của bà con
kiều bào ở nước ngoài chuyển về nước. Điều này không chỉ bổ sung nguồn vốn cho
xã hội mà còn nâng cao tính cạnh tranh của thị trường. Song vấn đề này có trở thành
hiện thực hay không lại phụ thuộc vào cơ chế pháp lý nhằm bảo hộ lợi ích hợp pháp
của bà con kiều bào thông qua việc xây dựng các quy định đối với người Việt Nam
định cư ở nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam;
Thứ ba, trong giai đoạn nền kinh tế được quản lý bởi cơ chế tập trung quan
liêu, bao cấp, kế hoạch hóa cao độ; Nhà nước xử lý quan hệ đất đai theo cơ chế hiện


17

vật: đất đai được xác định là một dạng phúc lợi xã hội, người sử dụng đất được cấp

đất không phải trả tiền sử dụng đất. Pháp luật nghiêm cấm việc mua bán, chuyển
nhượng đất đai, phát canh thu tô dưới mọi hình thức. Về hợp tác kinh tế, nước ta chỉ
quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa trong Hiệp hội Tương trợ kinh tế (Khối
SEV). Bước vào giai đoạn đổi mới nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường nhiều thành phần. Quan hệ đất đai chuyển đổi từ quan hệ hiện vật sang quan
hệ giá trị: Đất đai được thừa nhận có giá và quyền sử dụng đất được đem trao đổi
trên thị trường. Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất cho tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Về đối ngoại, để phá vỡ thế bao vây,
cô lập của Mỹ, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra chủ trương đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ ngoại giao với quan điểm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả
các nước trên thế giới”. Thể chế hóa chủ trường này, Luật đầu tư nước ngoài được
ban hành nhằm khuyến khích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài (trong đó có cộng
đồng Việt kiều) vào làm ăn lâu dài tại Việt Nam. Để bảo đảm cho Luật đầu tư nước
ngoài nhanh chóng đi vào cuộc sống phải xây dựng các quy định đối với người Việt
Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam.
1.3.2. Cơ sở thực tiễn của việc xây dựng các quy định về SDĐ của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam

Việc xây dựng các quy định về SDĐ của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài không chỉ dựa trên những cơ sở lý luận được đề cập trên đây mà
còn được xác lập căn cứ vào các cơ sở thực tiễn cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng của cộng đồng người Việt
Nam định cư ở nước ngoài mong muốn được đóng góp vào quá trình xây
dựng, phát triển đất nước. Phàm là con người sinh ra trên trái đất dù mang
quốc tịch gì, dù thuộc chủng tộc nào, màu da trắng, đen, vàng hay đỏ, dù sống
trong nước hay ở nước ngoài đều giống nhau ở mẫu số chung là tính cội
nguồn dân tộc. Ai cũng được sinh ra trong một gia đình, được nuôi dưỡng và


18


lớn lên trên một mảnh đất. Vì vậy từ trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi con
người đều có tình yêu quê hương, đất nước. Điều này lại càng sâu nặng hơn
khi họ sống xa Tổ quốc. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cho dù
chính kiến, quan điểm chính trị khác nhau nhưng cùng gặp nhau ở một điểm
tương đồng là luôn luôn hướng về Đất mẹ với mong muốn được đóng góp để
xây dựng đất nước giàu mạnh. Một trong những hình thức đóng góp thiết thực
đó là mang chất xám, trí tuệ, vốn liếng về đầu tư, làm ăn tại Việt Nam. Muốn
vậy trước tiên họ phải có đất và được quyền sử dụng đất. Đây là một trong
những lý do để xây dựng các quy định về SDĐ của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ hai, một trong những kinh nghiệm bổ ích từ sự thành công của
công cuộc cải cách ở Trung Quốc đó là nước này đã biết tìm cách khuyến
khích và huy động sự đầu tư của cộng đồng Hoa kiều về làm ăn lâu dài tại quê
hương thông qua những chính sách mở cửa, ưu đãi và cho phép Hoa kiều được
mua nhà ở v.v.. Những chính sách này đã khuyến khích đông đảo Hoa kiều
đầu tư về chính quốc và Trung Quốc đã thu hút được một lượng kiều hối
khổng lồ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Nhờ vậy, Trung Quốc đã có bước
phát triển kinh tế kỳ diệu trong hơn 2 thập kỷ qua. Đây là bài học bổ ích cho
Việt Nam trong việc xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật đất
đai nói riêng để thu hút cộng đồng Việt kiều về nước đầu tư, làm ăn lâu dài.
Thứ ba, như phần trên đã đề cập, nước ta phát triển kinh tế trong điều
kiện một nước nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu thiếu nguồn vốn đầu tư,
thiếu nhân lực có trình độ cao, thiếu máy móc, công nghệ hiện đại, thiếu kỹ
năng quản lý, văn hóa kinh doanh tiến tiến… Trong khi đó, cộng đồng Việt
kiều lại nắm giữ những lợi thế này do sinh sống, học tập lâu dài ở các nước
công nghiệp phát triển. Để khai thác, phát huy thế mạnh này của bà con kiều
bào, chúng ta phải có cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho họ đầu tư, làm ăn



19

tại quê hương. Một trong những chính sách này là tạo môi trường pháp lý để
cộng đồng Việt kiều được tiếp cận dễ dàng vấn đề đất đai thông qua việc xây
dựng các quy định về vấn đề SDĐ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
để thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam.
1.4. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUY
ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.4.1. Giai đoạn trước Đổi mới (trước năm 1986)

Như phần trên đã đề cập, trong giai đoạn trước đổi mới Việt Nam xây
dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên mô hình của chế độ tập trung, quan liêu, bao
cấp, kế hoạch hóa cao độ. Đất đai không được thừa nhận có giá và không được
phép mua bán, trao đổi trên thị trường. Pháp luật “đóng khung” quan hệ đất
đai theo “chiều dọc”: Nhà nước giao đất cho tổ chức, cá nhân không thu tiền
sử dụng đất. Người sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi đất khi không còn nhu
cầu sử dụng. Để duy trì các hoạt động của đất nước, bên cạnh việc tự sản xuất
ra của cải vật chất Việt Nam còn được nhận nguồn viện trợ rất lớn từ Liên Xô
(cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (cũ) thông qua Hội đồng Tương
trợ kinh tế (Khối SEV). Ở thời kỳ này, quan hệ đối ngoại của nước ta chủ yếu
gắn kết với Liên Xô (cũ), Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
(cũ) và một số nước có chế độ dân chủ nhân dân ở Châu Phi, Châu Mỹ La
Tinh và Châu Á. Trong bối cảnh đó, các quy định về vấn đề SDĐ của người
Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam dường như chưa xuất hiện.
1.4.2. Giai đoạn sau Đổi mới (từ năm 1986 đến nay)

Do xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ tập trung quan
liêu, bao cấp, kế hoạch hóa cao độ và không chú trọng đúng mức đến lợi ích



20

của người lao động nên năng suất lao động của hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa bị giảm sút nghiêm trọng. Nền kinh tế của các nước này ngày càng trì
trệ và đến những năm 80 của Thế kỷ XX thì lâm vào khủng hoảng toàn diện.
Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng này. Để bảo vệ thành quả cách
mạng và đưa đất nước nhanh chóng thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và tiếp
tục phát triển, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đã khởi xướng
thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đặt trọng tâm là đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế. Nền kinh tế nước ta từng bước được chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế thị
trường đã tác động làm thay đổi tư duy pháp lý về quản lý đất đai. Pháp luật
đất đai từ chỗ chưa thừa nhận đất đai có giá đã thừa nhận đất đai là một loại
hàng hóa đặc biệt và có giá. Quyền sử dụng đất được phép tham gia trao đổi
trên thị trường. Nhà nước từng bước xác lập quan hệ giá trị thay thế quan hệ
hiện vật trong quan hệ đất đai. Về mặt đối ngoại nói chung và hợp tác kinh tế
quốc tế nói riêng, để phá vỡ thế bao vây, cấm vận của Mỹ, Đảng ta đã thực
hiện đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế và đề ra chủ
trương khuyến khích, thu hút đầu tư nước ngoài. Để thể chế hóa những chủ
trương đổi mới của Đảng, Luật đầu tư nước ngoài và Luật đất đai được ban
hành trong năm 1987. Trong Luật đất đai năm 1987 chỉ quy định một cách
chung chung về “việc giao đất cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc
tế, tổ chức liên doanh, hợp tác của Việt Nam và nước ngoài để sử dụng do
Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam quyết định”
(Điều 50). Trải qua gần 6 năm thi hành Luật đất đai năm 1987 cho thấy nhiều
quy định của đạo Luật này không còn phù hợp với sự phát triển của đất nước
trong điều kiện thể chế kinh tế thị trường ngày càng được xác lập đồng bộ.
Luật đất đai năm 1993 được Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 3 thông qua ngày
14/07/1993 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/1993 thay thế Luật đất



×