Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN Ngữ văn THCS rất hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.42 KB, 13 trang )

Trường THCS Định Thành

Năm học: 2013 - 2014

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN NGỮ BẰNG PHƯƠNG
PHÁP SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC
TRONG NHÀ TRƯỜNG THCS NGỮ VĂN KHỐI
.
Họ và tên: Lê Thị Yên
Năm sinh: 10/01/1981
Trình độ chuyên môn: Cử nhân Ngữ văn.
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường THCS Định Thành
PHẦN I. Đặt VẤN ĐỀ
Dạy học nói chung, dạy Ngữ văn nói riêng, điều quan trong nhất là làm thức
dậy được tình yêu, niềm say mê đối với môn học. Hiện nay, tri thức trong các môn học
ở hầu hết các cấp học đang trở lên quá tải với cả giáo viên và học sinh, điều này đã
tạo ra hàng loạt những áp lực và nghịch lý: Thời gian có hạn mà kiến thức thì vô cùng;
môn học thì quá tải mà sức học của học sinh có hạn. Những nghịch lý trên là những
rào cản làm người dạy và người học đều thấy nản lòng. Vậy làm thế nào để có thể hạn
chế được các rào cản trên? Trong giờ giảng Ngữ văn, vấn đề không chỉ là ngôn ngữ,
lời bình của người thầy mà còn đòi hỏi phương pháp dạy học của người thầy. Phương
pháp dạy học là một trong những yêu cầu quan trọng đối với sự thành công trong giờ
giảng dạy của giáo viên, học tập của học sinh. BĐTD ( Bản đồ tư duy) là một trong
những phương pháp dạy học tương đối hiệu quả. Phương pháp dạy học bằng BĐTD
không chỉ giải quyết được vấn đề quá tải đối với kiến thức, đơn giản hóa kiến thức của
môn học mà nó còn giúp học sinh có khả năng nhớ kiến thức lâu hơn, tránh sự nhàm
chán đối với môn học, đặc biệt là bộ môn Ngữ văn.
PHẦN II:NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận.
Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là môn học có vai


trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Đồng
thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình
cảm cho học sinh. Mặt khác nó cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn
thể hiện rõ mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác trong các nhà trường phổ
thông. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các
môn học khác cũng góp phần học tốt môn Ngữ văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng
cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết
sức phong phú, sinh động của cuộc sống. Thế hệ học sinh ngày nay rất ít em có thiện
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn

1

Giáo viên: Lê Thị yên


Trường THCS Định Thành

Năm học: 2013 - 2014

chí, hứng thú trong việc học môn Ngữ văn, chưa nắm được vai trò quan trọng của
môn Ngữ văn đối với đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Vì thế đổi
mới phương pháp, cách thức tổ chức vừa hiệu quả vừa tạo được hứng thú cho học sinh
đối với môn Ngữ văn là rất cần thiết.
2. Cơ sở thực tiễn:
Năm học 2013 - 2014 là năm học Bộ giáo dục và đào tạo tiếp tục đổi mới
phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ngữ văn trong các nhà
trường phổ thông. Một trong những phương pháp dạy học mới và hiện đại nhất được
đưa vào là phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy (BĐTD) - một phương pháp
dạy học mới đang được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng. Qua việc tìm hiểu và
vận dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy, tôi nhận thấy phương pháp dạy

học này rất có hiệu quả trong công tác giảng dạy và học tập của học sinh. Bước đầu đã
giảm bớt được tâm lý ngại học văn, khơi gợi trong học sinh tình yêu đối với môn học,
đồng thời đem đến cho các em cái nhìn mới, tư duy mới về môn học Ngữ văn. Vậy thế
nào là phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy? Cần sử dụng bản đồ tư duy như thế
nào để nâng cao chất lượng trong các giờ học văn? Đó là những vấn đề tôi muốn cùng
được chia sẻ với các đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm này .
Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và
đào sâu các ý tưởng. BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó
là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc
phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác
tiềm năng vô tận của bộ não.
BĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả hơn: Việc rèn luyện
phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học
mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ
nhưng vẫn học kém, các em thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên
phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến
thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh khi đọc sách hoặc
nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng
tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học sẽ gúp học sinh
có được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư
duy.
BĐTD - giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu
cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình
tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp
học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
PHẦN III. THỰC TRẠNG:
1. Thực trạng của việc học văn hiên nay:

Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn


2

Giáo viên: Lê Thị yên


Trường THCS Định Thành

Năm học: 2013 - 2014

Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân học" vậy mà
một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn thích học văn. Thực trạng
này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời than thở với nhau
của những người trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn và nay đã trở thành vấn đề của báo
chí và dư luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài làm văn của học sinh trong những năm
gần đây mới thấy cần thiết phải có những thay đổi về phương pháp dạy văn và học
văn hiện nay. Qua công tác giảng dạy cũng như chấm trả các bài kiểm tra Ngữ văn, tôi
nhận thấy có rất nhiều những biểu hiện thể hiện tâm lý chán học văn của học sinh, cụ
thể là:
- Học sinh thờ ơ với Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến
công tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ với việc
học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buồn nhất cho các giáo viên dạy văn là
nhiều học sinh có năng khiếu văn cũng không muốn tham gia đội tuyển văn. Các em
còn phải dành thời gian học các môn khác. Phần lớn phụ huynh khi đã định hướng cho
con mình sẽ thi khối A thì chỉ chủ yếu chú trọng ba môn: Toán, Lý, Hóa. Điều đáng lo
ngại hơn nữa, là có không ít phụ huynh đã chọn hướng cho con thi khối A từ khi học
tiểu học. Một bậc học mà học sinh còn đang được rèn nói, viết, mới bắt đầu làm quen
với những khái niệm về từ ngữ mà đã định hướng khối A thì thật là nguy hại.
- Kỹ năng trình bày: Khi HS tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ dàng
nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết chính tả
sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có những bài văn diễn

đạt ngô nghê, tối nghĩa, lủng củng ... Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến và
thậm chí là đáng báo động trong xã hội ta.
Mục tiêu của bậc học phổ thông là đào tạo con người toàn diện, nhưng thực tế
hiện nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh xem nhẹ, mặc dù
kiến thức của các bộ môn này vô cùng quan trọng cho tất cả mọi người. Muốn khôi
phục sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn khoa học xã hội, không thể chỉ bằng
biện pháp kêu gọi mà chúng ta phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học văn, khơi
gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho các em phương pháp học văn
hiệu quả nhất.
2. Nguyên nhân:
a. Đối với người dạy: Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, mến trẻ, tận tụy
với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn những mặt
hạn chế sau :
- Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ
học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao.

Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn

3

Giáo viên: Lê Thị yên


Trường THCS Định Thành

Năm học: 2013 - 2014

- Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp
trực quan vào tiết học hạn chế, nội dung kiến thức SGK nhiều ảnh hưởng đến chất
lượng giảng dạy của giáo viên, việc tiếp thu bài học của học sinh cũng bị hạn chế.

- Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch
nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học.
- Đời sống giáo viên còn nhiều khó khăn, đầu tư ngân sách cho các hoạt động
giáo dục của nhà trường còn hạn chế, các tiêu chí thi đua đề ra quá cao, không có tính
thực thi vì thế không phát huy hết được nội lực của giáo viên.
b. Đối với học sinh:
- Một số học sinh vì lười học, chán học mải chơi, không tập trung nghe giảng,
lười suy nghĩ, hổng kiến thức nên không chủ động, tích cực và có tâm thế tốt cho giờ
học Ngữ văn.
- Địa phương xã Định Thành thuộc vùng kinh tế còn khó khăn, hầu hết phụ
huynh đều đi làm ăn xa, con cái đông, ít có thời gian quan tâm kèm cặp con em mình.
Bản thân các em còn phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp, không có thời gian học.
- Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như
xem ti vi, chơi game, chat, học sinh tụ tập chơi bời… ngày càng nhiều làm cho một số
em chưa có ý thức học bị lôi cuốn, sao nhãng việc học tập.
PHẦN IV CÁC GIẢI PHÁP:
A. Bản chất phương pháp dạy học bằng BĐTD:
BĐTD là kĩ thuật dạy học tổ chức và phát triển tư duy giúp người học chuyển
tải thông tin vào bộ não rồi được thông tin ra ngoài bộ não một cách dễ dàng, đồng
thời là phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả, mở rộng, đào sâu và kết nối các ý
tưởng, bao quát được các ý tưởng trên phạm vi sâu rộng. Dạy học bằng Bản đồ tư duy
- một giải pháp góp phần đổi mới cơ bản giáo dục.
1. BĐTD tận dụng được các nguyên tắc của trí nhớ siêu đẳng:
a. Sự hình dung: BĐTD có rất nhiều hình ảnh để bạn hình dung về kiến thức
cần nhớ. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của trí nhớ siêu đẳng.
Đối với não bộ, BĐTD giống như một bức tranh lớn đầy hình ảnh màu sắc phong phú
hơn là một bài học khô khan, nhàm chán.
b. Sự liên tưởng, tưởng tượng: BĐTD hiển thị sự liên kết giữa các ý tưởng
một cách rất rõ ràng. Đặc biệt là khả năng khái quát và hệ thống hóa kiến thức.
c. Làm nổi bật sự việc: Thay cho những từ ngữ tẻ nhạt đơn điệu, Sơ BĐTD

cho phép giáo viên và học sinh làm nổi bật các ý tưởng trọng tâm bằng việc sử dụng
những màu sắc, kích cỡ, hình ảnh đa dạng. Hơn nữa, việc BĐTD dùng rất nhiều màu
sắc khiến giáo viên và học sinh phải vận dụng trí tưởng tượng sáng tạo đầy phong phú
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn

4

Giáo viên: Lê Thị yên


Trường THCS Định Thành

Năm học: 2013 - 2014

của mình. Nhưng đây không chỉ là một bức tranh đầy màu sắc sặc sỡ thông thường,
BĐTD giúp tạo ra một bức tranh mang tính lý luận, liên kết chặt chẽ về những gì
được học.
2. BĐTD sử dụng cả hai bán cầu não cùng một lúc: BĐTD thật sự giúp bạn
tận dụng các chức năng của não trái lẫn não phải khi học. Đây chính là công cụ học
tập vận dụng được sức mạnh của cả bộ não. Nếu vận dụng đúng cách, nó sẽ hoàn toàn
giải phóng những năng lực tiềm ẩn trong bạn, đưa bạn lên một đẳng cấp mới, đẳng
cấp của một tài năng thực thụ hay thậm chí của một thiên tài.
B. Vận dụng BĐTD trong quá trình dạy học Ngữ văn:
1. Giáo viên sử dụng BĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học:
- Dùng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức
của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để
các em tìm ra các tự liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD. Qua BĐTD đó
học sinh sẽ nắm được kiến thức bài học một cách dễ dàng.
- Ví dụ 1: Với văn bản: “Thầy bói xem voi” (Môn Ngữ văn lớp 6), sau phần
đọc và tìm hiểu chung, giáo viên có thể vẽ mô hình BĐTD lên bảng. BĐTD gồm 5

nhánh chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc vào nội dung,
kiến thức của bài học.
Để có thể hoàn thiện được mô hình BĐTD của bài học, giáo viên sử dụng hệ
thồng câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức:
+ Bố cục của văn bản: Học sinh sẽ dựa vào văn bản để xác định các ý chính
(Hoàn cảnh các thầy bói xem voi, cách xem voi, các thầy nhận xét về con voi, hậu
quả.)
+ Tiếp tục hoàn thành các nhánh của BĐTD bằng hệ thống câu hỏi nhỏ có tính
gợi mở (các thầy xem voi trong hoàn cảnh nào, cách xem voi của các thầy ra sao, ...)
từ đó rút ra nhận xé về kết quả của cách xem voi phiếm diện để khái quát thành bài
học về cách nhìn nhận đánh giá sự vật, hiện tượng…

Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn

5

Giáo viên: Lê Thị yên


Trường THCS Định Thành

Năm học: 2013 - 2014

Sơ đồ minh hoạ

Bản đồ tư duy văn bản: Thầy bói xem voi - Ngữ văn 6
- Ví dụ 2: Khi học bài “So sánh” (Môn Ngữ văn lớp 6), đầu tiết học, giáo viên
có thể kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, sau đó dẫn dắt vào bài học. Giáo
viên ghi nhan đề bài học lên bảng, khái quát lại các phương diện kiến thức cần tìm về
các phép tu từ đã học ở tiết học trước.

- Ở tiết học So sánh này ta cũng tìm hiểu kiến thức qua các phương diện: Khái
niệm, cấu tạo, tác dụng và các kiểu so sánh.
- Từ việc khái quát kiến thức cơ bản về So sánh, Giáo viên lần lượt hoàn thiện
BĐTD trên bảng thông qua ngữ liệu mẫu SGK. Việc hoàn thiện BĐTD phải có sự
phối hợp giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên đưa ra các tình huống bằng hệ thống
câu hỏi phát hiện, gợi mở, khái quát… Học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động
dạy học do giáo viên tổ chức: cá nhân, nhóm, thảo luận…
- Cùng với giáo viên, học sinh cũng lần lượt hoàn thành BĐTD vào vở ghi. Để
kiến thức bài học được chi tiết, dễ hiểu, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tiếp tục
trẻ nhỏ thêm các nhánh trên BĐTD.

Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn

6

Giáo viên: Lê Thị yên


Trường THCS Định Thành

Năm học: 2013 - 2014

Sơ đồ minh hoạ

Bản đồ tư duy bài “So sánh” - Ngữ Văn 6
- Có thể dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến
thức sau mỗi chương, phần…: Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học
sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ
BĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập.
Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh

chóng, dễ dàng.
- Ví dụ 1: Ở lớp 9, trong bài “ Tổng Kết ngữ pháp”, học sinh có thể dễ dàng
tổng hợp kiến thức về từ loại tiếng Việt bằng BĐTD dựa vào tập BĐTD đã có về từ
loại đã học ở lớp dưới. Đặc trưng của tiết học này là ôn tập, khái quát lại kiến thức đã
học vì vậy BĐTD sẽ giúp các em có cái nhìn tổng quát hơn về từ ngữ tiếng Việt. Việc
sử dụng BĐTD trong tiết tổng kết văn học nói chung, trong phân môn tiếng Việt nói
riêng không chỉ có tác dụng khái quát hóa kiến thức mà còn giúp củng cố kỹ năng
nhận biết và kỹ năng thực hành. Tổng kết ngữ pháp ở lớp 9 được coi là giờ thực hành.
Vì vậy giáo viên cần linh hoạt trong việc tổ chức các hình thức học tập. Với kiểu bài
này, giáo viên nên tạo ra các nhóm học tập thực hiện việc vẽ BĐTD, sau đó đại diện
các nhóm trình bày bài làm của nhóm mình, các nhóm khác nhận xét, góp ý, bổ sung
thêm cho bài làm. Cuối cùng giáo viên chốt lại kiến thức.

Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn

7

Giáo viên: Lê Thị yên


Trường THCS Định Thành

Năm học: 2013 - 2014

Sơ đồ minh hoạ

Bản đồ tư duy bài “Tổng kết ngữ pháp”- Ngữ văn 9
- Ví dụ 2: BĐTD khi tìm hiểu tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du:
Giáo viên định hướng để học sinh khai thác kiến thức của bài học bằng hệ
thống câu hỏi gợi mở. Trên cơ sở đó hình thành và củng cố kiến thức cho học sinh

bằng BĐTD. Hệ thống kiến thức của bài học bao gồm:
a. Tác giả bao gồm: Tiểu sử (thân thế, gia đình), cuộc đời, sự nghiệp sáng tác...
b. Tác phẩm:
+ Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du ở cả hai thành phần chữ (chữ Hán và
chữ Nôm gồm cả thơ và truyện)
+ Thời gian và hoàn cảnh sáng tác, nguồn gốc của tác phẩm; đồng thời giáo
viên gúp học sinh hiểu được vì sao Truyện Kiều có nguồn gốc từ Trung Quốc mà vẫn
được coi là tác phẩm văn học Việt Nam; tại sao Truyện Kiều được viết bằng những
câu thơ lục bát mà vẫn được coi là một tác phầm truyện…
+ Tóm tắt Truyện Kiều: Bố cục của Truyện Kiều (Gặp gỡ và đính ước; gia biến
và lưu lạc. đoàn tụ)
+ Giá trị của Truyện Kiều: Giá trị nội dung (gái trị hiện thực, giá trị nhân đạo);
giá trị nghệ thuật của truyện.
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn

8

Giáo viên: Lê Thị yên


Trường THCS Định Thành

Năm học: 2013 - 2014

Sơ đồ minh hoạ

Đây là những hình ảnh được vẽ bằng phần mềm Mindmap mà tôi tham khảo từ
đồng nghiệp trên thư viện violet. Việc sử dụng phần mềm Mindmap không dễ, tuy
nhiên chúng ta có thể đơn giản hóa phương pháp trên qua sơ đồ hình nan quạt, xương
cá, mô hình…Việc sơ đồ hóa kiến thức trong tiết dạy Ngữ văn chắc chắn sẽ gúp học

sinh nhớ kiến thức lâu hơn, hệ thống hơn. Đối với phân môn Tập làm văn BĐTD hay
sơ đồ có thể coi là một dàn ý sơ lược của một đề bài cụ thể.
2. Học sinh học tập độc lập, sử dụng BĐTD để hỗ trợ học tập, phát triển tư
duy lôgic.
- Học sinh tự có thể sử dụng BĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu trước
bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ BĐTD trên giấy, bìa… hoặc để tư duy
một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố khắc sâu kiến thức,
kĩ năng ghi chép.
3. Một số biện pháp ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học
môn Ngữ văn
* BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp
học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là
mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học
kém, nhất là môn toán, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã
quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng

Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn

9

Giáo viên: Lê Thị yên


Trường THCS Định Thành

Năm học: 2013 - 2014

kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh này khi đọc sách
hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức
trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học học sinh sẽ

học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
* BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực:
- Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu
và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì
vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm
năng của bộ não.
- Việc học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học
sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn màu sắc
(xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự “sáng tác”
nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh
và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
PHẦN V. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐEM LẠI:
1 - Hiệu quả kinh tế:
- BĐTD rất hữu hiệu cho người học khi lập kế hoạch, dự án, có thói quen tính
toán tỉ mỉ trước khi bắt tay vào công việc. Nó cho người học một cái nhìn tổng thể,
cách đánh giá khách quan. Nếu một người nào đó đang một dự án kinh doanh thì
đừng quên sử dụng BĐTD khi làm việc.
- Khi chúng ta chưa định hướng được kế hoạch rõ ràng, vẫn chỉ là những ý
tưởng, sử dụng phương pháp BĐTD chắc chắn sẽ thành công.
- Khi ta bắt đầu cho một dự án kinh doanh khởi nghiệp, ta phải lo quá nhiều
việc một lúc. Có khi nào ta nản trí vì đuối sức? BĐTD sẽ giúp bạn tư duy thông suốt
và biết sắp xếp công việc theo một trật tự ngay từ đầu.
2 - Hiệu quả về mặt xã hội:
- Việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp học
sinh học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển khai nội
dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội dung của phong
trào thi đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và
Đào tạo phát động.
- Sử dụng thành thạo và hiệu quả Bản đồ Tư duy trong dạy học sẽ mang lại
nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh và phương

pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính
chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn

10

Giáo viên: Lê Thị yên


Trường THCS Định Thành

Năm học: 2013 - 2014

linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức
thông qua một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức.
- Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học nói
chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng, tôi thấy bước đầu có
những kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của ứng dụng BĐTD
trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Biết sử dụng BĐTĐ để dạy bài mới, củng
cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn,
hiệu quả hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài,
tổng hợp kiến thức môn học. Một số học sinh trung bình đã biết dùng BĐTD để củng
cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Đối với môn Ngữ văn, học sinh rất hào hứng
trong việc ứng dụng BĐTD để ghi chép bài nhanh, hiệu quả, đặc biệt là trong học
tiếng Việt.
* Thực tế kết quả kiểm tra hết học kỳ I năm học 2013 - 2014 cho thấy môn
Ngữ văn khối 8 nói riêng và chất lượng môn văn của nhà trường nói chung đã có
nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là:
- Môn Ngữ văn 6 đạt 80%
- Môn Ngữ văn 7 đạt 89.

- Môn Ngữ văn 8 đạt 95 %.
- Môn Ngữ văn 9 đạt 82 % * Năm học 2013 – 2014, chất lượng môn Ngữ văn
của nhà trường tiếp tục được nâng lên. Đặc biệt là đối với bộ môn Ngữ văn 9, cụ thể
là:+
* Chất lượng môn Ngữ văn của nhà trường trong những năm qua tương đối ổn
định và có chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
PHẦN VI. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:
- Đối với phụ huynh
Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về thời gian
cho con cái học tập, thường xuyên động viên nhắc nhở con em mình ý thức tự giác
học tập rèn luyện.
Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc sách; chia sẻ tư vấn, định hướng, bồi
dưỡng tâm hồn cho con em mình thông qua những câu chuyện, bộ phim hay hoặc
những phóng sự, bài viết… Dần hình thành cho các em thói quen tư duy logic.
Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm
để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình.
- Đối với các cấp quản lí giáo dục
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn

11

Giáo viên: Lê Thị yên


Trường THCS Định Thành

Năm học: 2013 - 2014

Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn Ngữ văn trong từng học kỳ,
từng năm để giáo viên có cơ hội được học tập, trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra

phương pháp dạy học hiệu quả, góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng giảng
dạy môn Ngữ văn.
Có kế hoạch tham mưu với cấp trên về chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo viên
có chất lượng cao, phương pháp dạy học tốt.
Có kế hoạch bổ sung đồ dùng thiết bị dạy học, đặc biệt là đầu tư công nghệ
thông tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy.
- Đối với địa phương
Tích cực tuyên truyền về vai trò của giáo dục đối với bản thân và sự phát triển
đất nước. Động viên phong trào khuyến học, khuyến tài… Quan tâm nhiều hơn đến
phong trào giáo dục, chất lượng giáo dục ở địa phương .
Tôi hy vọng rằng, trong những năm học tới phòng giáo dục đào tạo sẽ tiếp tục
tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn hiệu quả hơn, tổ chức kiểm tra đánh giá
nghiêm túc, chặt chẽ hơn nữa để đưa phong trào giáo dục của huyện nhà có được
những kết quả tốt nhất, xứng đáng với miền đất học ơ Định Thành.
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm tôi tự viết không sao chép của ai.
Xin trân trọng cảm ơn!
Định Thành, ngày 10 tháng 3 năm 2014
Người viết sáng kiến

Lê Thị Yên

Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn

12

Giáo viên: Lê Thị yên


Trường THCS Định Thành


Năm học: 2013 - 2014

Tài liệu tham khảo
1. Trần Đình Châu, Sử dụng bản đồ tư duy – một biện pháp hiệu quả hỗ trợ học sinh
học tập môn toán- Tạp chí Giáo dục, kì 2- tháng 9/2009.
2. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, Sử dụng bản đồ tư duy góp phần TCH HĐ
học tập của HS, Tạp chí Khoa học giáo dục, số chuyên đề TBDH năm 2009.
3. Tony Buzan - Bản đồ Tư duy trong công việc – NXB Lao động – Xã hội.
4. Stella Cottrell (2003), The study skills handbook (2nd edition), PalGrave Macmillian.
5. www.mind-map.com (trang web chính thức của Tony Buzan).
6. Tài liệu tập huấn chuyên môm do phòng giáo dục đào tạo tổ chức.
7. Tham khảo nhóm Ngữ văn 9 trường THCS Thọ Nghiệp - Xuân Trường - Nam
Định.

Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn

13

Giáo viên: Lê Thị yên



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×