Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

SKKN Ngữ văn THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.63 KB, 11 trang )

ĐỀ TÀI
MỘT VÀI KINH NGHIỆM VỀ
PHƯƠNG PHÁP THIẾT KẾ HỆ THỐNG CÂU HỎI
TRONG VIỆC DẠY HỌC VĂN BẢN Ở TRƯỜNG THCS
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài
Giáo dục là một lĩnh vực có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của mỗi xã hội. Bởi vì đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của giáo dục là
những con người. Sự tác động ấy bao gồm cả trí tuệ lẫn tâm hồn, cả năng lực lẫn
quan niệm sống. Như vậy là chất lượng cuộc sống cũng như quá trình hình thành và
hoàn thiện nhân cách của con người phụ thuộc rất nhiều vào giáo dục. Trọng trách
này đòi hỏi ngành Giáo dục và Đào tạo phải có những điều chỉnh kịp thời để đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội .
Chúng ta đang sống ở thế kỷ XXI, đang đứng trước một thử thách vô cùng
gay gắt. Thế giới đang tiến như vũ bão trên các mặt trận sản xuất vật chất và tinh
thần, trong khi nước ta ở tình trạng lạc hậu về nhiều mặt. Để vượt qua được những
thử thách đó, ta phải phát huy được nguồn lực con người, phát huy cao tiềm năng
trí tuệ của toàn dân tộc để vượt qua được nguy cơ tụt hậu, bắt kịp trình độ phát triển
hòa nhập với trình độ khu vực thế giới. Xuất phát từ nhận thức đó, Đảng ta đặc biệt
coi trọng sự nghiệp giáo dục và đào tạo, coi con người là mục tiêu, là động lực của
sự phát triển, coi “ Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu” và: “ Muốn tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục và đào
tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền
vững”. Từ sự quan tâm đó đã đặt ra cho ngành GD và ĐT những thách thức mới
đòi hỏi ngành GD và ĐT phải có nhiều đổi mới về phương pháp dạy học, chương
trình SGK. Để được như vậy đòi hỏi mỗi người giáo viên (GV) phải tự ý thức được
trách nhiệm của mình, phải luôn tìm tòi, học hỏi nắm bắt phương pháp dạy học
mới để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn
đề. Như vậy mục đích cuối cùng của quá trình dạy học là phải giúp học sinh có khả
năng tiếp cận những tri thức, những kỹ năng mới tiên tiến hiện đại, đồng thời có
năng lực phát triển và giải quyết vấn đề nảy sinh trong cuộc sống.


Bản thân tôi tham dự đầy đủ các buổi tập huấn về việc thay sách, tiếp cận đổi
mới phương pháp dạy học, tôi thấy cách sắp xếp chương trình và nội dung chương
trình của SGK rất hay, các phương pháp dạy học hết sức mới mẻ, phong phú và đa
dạng, nhưng áp dụng nó như thế nào? Thực hiện nó ra sao đó mới là vấn đề cần nói
đến.
Trên thực tế trải qua nhiều năm giảng dạy trực tiếp đứng lớp cọ sát với
chương trình, kiêm nhiệm thêm công tác tổ trưởng tổ Văn – Sử – GDCD, tôi đi dự
giờ góp ý xây dựng tiết dạy rất nhiều tôi đã nhận thấy một số khó khăn trong việc
dạy Ngữ văn khai thác văn bản đặc biệt là cách giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh
1
trả lời. Có những tiết dạy giáo viên đặt câu hỏi rất nhiều, câu hỏi nào học sinh cũng
trả lời được, vì những câu hỏi đó học sinh chỉ nhìn vào SGK đọc lên, không suy
luận . Nếu như vậy thì khả năng phân tích tìm hiểu nêu suy nghĩ của các em sẽ
không có, dẫn tới tình trạng khi viết văn lời văn khô khan chỉ biết sao chép theo
khuân mẫu không có sáng tạo. Có những tiết giáo viên đặt câu hỏi không học sinh
nào trả lời được, không khí lớp học nặng nề nhưng giáo viên vẫn không gợi ý,
không thay hình thức câu hỏi. Có những giáo viên gặp đâu hỏi đó, câu hỏi vụn vặt
hỏi tấn công học sinh đến khi không trả lời được mới thôi. Chính những câu hỏi
như vậy khiến cho chất lượng tiết dạy đạt hiệu quả thấp, học sinh lo sợ khi GV đặt
câu hỏi… Từ những khó khăn trên tôi đã tập trung nghiên cứu, ghi chép, và suy
nghĩ để tìm ra phương pháp xây dựng hệ thống câu hỏi cho phù hợp với bài dạy
văn bản trong tiết dạy học Ngữ văn của mình. Đó cũng chính là lí do tôi chọn viết
đề tài này.
II. Các biện pháp nghiên cứu viết đề tài:
- Tham khảo các tài liệu;
- Thực tế giảng dạy;
- Các kinh nghiệm qua các đợt tập huấn thay sách;
- Qua các tiết dự giờ rút kinh nghiệm học hỏi ở đồng nghiệp…
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận:

Trong các môn học như chúng ta đã biết môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt trong
việc thực hiện mục tiêu chính của trường THCS. Góp phần hình thành những con
người có trình độ học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho hoặc ra đời hoặc tiếp tục
những con người cao hơn nữa. Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng biết
thương yêu, biết quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu CNXH, biết
hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp, như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng
lẽ phải, sự công bằng, lòng sáng tạo, bước đầu có năng lực hình thành và năng lực
sử dụng Tiếng Việt như một công cụ tư duy và thực hành. Đó cũng là những con
người có ham muốn đem tài trí của mình để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Cũng chính vì vậy đòi hỏi người giáo viên dạy văn phải khéo léo nắm bắt
đặc điểm đối tượng học sinh để vừa dạy học, vừa rèn luyện và giáo dục khả năng
toàn diện cho học sinh qua các môn học.
Việc xây dựng hệ thống câu hỏi làm sao cho phù hợp, sinh động, gợi hứng
thú tìm tòi suy nghĩ, óc phán đoán cho học sinh mới là điều hết sức khó khăn, học
sinh có hứng thú học, khi giáo viên đặt câu hỏi học sinh có chịu suy nghĩ trả lời hay
không, học sinh có hiểu bài nắm bắt được kiến thức trọng tâm hay không cũng phụ
thuộc vào việc xây dựng hệ thống câu hỏi cho bài dạy của mình.
Qua đề tài này việc xây dựng hệ thống câu hỏi tôi tin là sẽ giúp cho tất cả
giáo viên dạy Ngữ văn đặc biệt là GV của trường tôi rút ra được nhiều kinh nghiệm
khi đặt câu hỏi trong giờ dạy của mình. Bởi vì hệ thống câu hỏi ở đề tài này là
những câu hỏi mà vai trò của giáo viên chỉ là người dẫn đưa học sinh khám phá nội
2
dung kiến thức của bài học từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Tức là đi từ
câu hỏi phát hiện, tái hiện để dấn sâu vào hình thức hỏi sáng tạo nêu vấn đề, từ đó
sẽ kích thích năng lực suy nghĩ, óc phán đoán, mở ra nhiều hướng tiếp nhận mới
nhằm khơi dậy hoạt động bên trong của người học. Đây chính là việc thể hiện vai
trò, năng lực của người giáo viên khi giảng dạy.
II. Một số biện pháp cụ thể :
Trong quá trình tiến hành một tiết dạy GV tiến hành đặt rất nhiều câu hỏi để

học sinh trả lời. Mục đích của việc đặt câu hỏi là kiểm tra việc chuẩn bị bài cũ,
chuẩn bị bài mới, chú ý nghe giảng hay mức đô tiếp thu tìm hiểu bài, mức độ hiểu
bài của học sinh. Để được như vậy người GV phải nắm được đặc điểm đối tượng
học sinh của lớp mình dạy, nắm được các kiểu bài, cách tiến hành tìm hiểu từng
phần, nội dung đơn vị kiến thức để từ đó có cách đặt câu hỏi khai thác kiến thức
cho phù hợp. Có rất nhiều dạng câu hỏi nhưng ở đây tôi chỉ đưa ra một số dạng câu
hỏi cơ bản chủ yếu nhất cần phải có trong tiết dạy văn học - khai thác văn bản. Các
dạng câu hỏi này nó bao quát cho tất cả các đối tượng học sinh từ học sinh trung
bình, yếu kém đến học sinh khá giỏi đó là 4 loại câu hỏi cơ bản:
(1) Câu hỏi phát hiện.
(2) Câu hỏi gợi mở.
(3) Câu hỏi nêu vấn đề.
(4) Câu hỏi so sánh.
Bốn dạng câu hỏi này GV thường xuyên sử dụng trong quá trình tiến
hành tiết dạy của mình với các dạng văn bản thuộc các thể loại khác nhau.
1. Câu hỏi phát hiện.
Đây là loại câu hỏi cho đối tượng học sinh yếu, trung bình phát huy khả năng
của mình, bởi vì loại câu hỏi này là những nội dung đã có sẵn, chỉ cần học sinh theo
dõi hoặc xem bài trước sẽ trả lời được. Học sinh có thể nhìn vào SGK phát hiện ra
kiến thức GV hỏi . Chính loại câu hỏi câu hỏi này không làm cho học sinh chán nản
đặc biệt là học sinh có lực học trung bình và yếu, khi học sinh trả lời đúng câu hỏi
các em sẽ cảm thấy hứng thú, cảm thấy có cơ hội để chứng tỏ mình.
Ví dụ khi dạy văn bản “Đêm nay Bác không ngủ” (Ngữ văn 6 – tập 2) khi
tìm hiểu bài thơ được làm theo thể thơ nào GV có thể dùng câu hỏi phát hiện sau:
? Quan sát bao quát bài thơ, bài thơ có bao nhiêu khổ?
? Mỗi khổ thơ có bao nhiêu câu thơ? Và mỗi câu thơ có mấy tiếng?...
Với câu hỏi đó học sinh chỉ cần quan sát bài thơ và đếm các khổ thơ các số tiếng
trong câu thơ để tìm ra bài thơ được viết theo thể nào.
Hay khi GV dạy các bài ca dao nói về tình cảm gia đình (Ngữ văn 7 tập 1)giáo
viên có thể đưa ra một số câu hỏi phát hiện như sau:

? Các bài ca dao này nói về nội dung gì?
? Tình cảm được thể hiện trong các bài ca dao đó là tình cảm nào?
Hoặc khi dạy văn bản “Quan Âm Thị Kính” (Ngữ văn 7 tập 2) khi tìm hiểu nỗi
oan của Thị Kính GV đặt câu hỏi:
? Trong đoạn trích em thấy có mấy lần Thị Kính kêu oan?
? Thị Kính kêu oan với ai?...
3
Đó là những câu hỏi phát hiện học sinh rất dễ trả lời, câu hỏi này làm cơ sở,
tạo tiền đề để cho GV tiến hành hướng dẫn học sinh đi đến tìm hiểu kiến thức khác
được rút ra từ câu hỏi phát hiện, tạo không khí cho lớp học sôi nổi, học sinh hứng
thú học tập.
2. Câu hỏi gợi mở.
Trong tiến hành dạy học không nhất thiết câu hỏi nào GV đưa ra cũng yêu
câu học sinh phải trả lời. Có câu hỏi GV hỏi chỉ để hỏi, tức là hỏi rồi tự mình trả
lời, hỏi như vậy lôi cuốn học sinh chú ý tập trung vào bài học hơn, có khi GV đặt
câu hỏi học sinh không trả lời được, vậy lúc này mới đòi hỏi tới sự chuẩn bị, khéo
léo của người GV, GV phải biết dẫn dắt, khơi gợi vấn đề để cho học sinh tìm hiểu.
Ví dụ khi dạy bài “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” (Ngữ văn 7 tập 2)
GV đưa ra câu hỏi sau:
? Cho biết chủ đề của văn bản? Có thể học sinh không trả lời được GV dùng câu
hỏi gợi mở.
? Văn bản đề cập đến vấn đề gì?
? Câu văn nào thể hiện rõ nhất vấn đề đó?
Hoặc: ? Theo em nghệ thuật nghị luận ở bài văn này có gì đặc sắc?
Dùng câu hỏi gợi mở:
? Bố cục của bài văn gồm mấy phần?
? Dẫn chứng Bác đưa ra để chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân dân ta
có chính xác, toàn diện, thuyết phục không?...
Từ đó GV hướng dẫn học sinh rút ra được kết luận về nghệ thuật nghị luận
của bài văn qua các câu trả lời của học sinh.

Hay khi dạy văn bản “ Viếng lăng Bác” (Ngữ văn 9 – tập 2) GV hướng dẫn
học sinh cách khai thác văn bản theo khổ thơ. Khi tìm hiểu khổ thơ đầu để làm nổi
bật được nội dung xuyên suốt bài thơ là mạch cảm xúc tác giả, GV có thể hỏi:
? Câu đầu cho ta biết điều gì?
Dùng câu hỏi gợi mở:
? Giải thích nghĩa từ “viếng”, “thăm”?
? Tại sao ở nhan đề thác giả dùng từ “viếng”, ở câu đầu bài thơ dùng từ “thăm”?
? Nhận xét cách xưng hô của tác giả?...
Tác dụng của dạng câu hỏi này giúp học sinh dần dần nhận ra vấn đề cần tìm
hiểu, tạo sự lô-gíc và xâu chuỗi kiến thức một cách có hệ thống.
3. Câu hỏi nêu vấn đề.
Đây là dạng câu hỏi tối ưu trong phương pháp dạy học nhằm phát huy tính
tích cực và hoạt động tư duy, tính năng động trí tuệ cho học sinh qua giờ dạy. Khi
GV đặt câu hỏi học sinh phải dùng óc suy nghĩ, phán đoán để trả lời câu hỏi. Vì
vậy, đây là câu hỏi học sinh khá mới có thể trả lời được.
Trong giờ dạy GV phải biết xây dựng tình huống có vấn đề bằng việc thông
qua xây dựng hệ thống câu hỏi có vấn đề. Loại câu hỏi này chứa đựng một dung
lượng kiến thức lớn và mang tính chất tổng hợp gồm nhiều mối liên hệ giữa các
yếu tố, các kiến thức nhằm làm sáng tỏ quan điểm của tác giả trong tác phẩm.
Chính vì vậy loại câu hỏi này có tính chất phức tạp về nội dung bởi vì nó thường
4
gợi lên những mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, từ đó rèn luyện năng lực
độc lập, suy nghĩ sáng tạo, nó còn mang tính chất hệ thống, liên tục nhằm lôi cuốn
học sinh hứng thú tìm hiểu tác phẩm.
Bằng thực tế, tôi tiến hành lấy một số ví dụ trên một số văn bản như sau:
Văn bản: Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Ngữ văn 7 , tập 1).
? Em hãy hình dung cảnh tượng buổi chiều trong thôn xóm?
? Một vẻ đẹp như thế nào được toát lên từ cảnh tượng ấy?
? Vì sao khi tả cảnh buổi chiều nơi đồng quê tác giả chỉ cần dùng hai chi tiết
“tiếng sáo mục đồng” và “có trắng từng đôi liệng xuống đồng”?

? Qua văn bản này em hiểu gì thêm về thời nhà Trần trong lịch sử dân tộc ta?
Văn bản: Những ngôi sao xa xôi (Ngữ văn 9 tập 2)
? Trong văn bản em yêu mến, cảm phục nhân vật nào nhất? Vì sao?
? Qua văn bản em hiểu được gì về thế hệ thanh niên Việt Nam trong thời kì
kháng chiến chống giặc ngoại xâm?
? Nêu suy nghĩ của em về trách nhiệm của mình đối với cuộc sống hiện tại?...
Các câu hỏi trên đều mang tính chất suy luận, mở rộng vấn đề giúp học sinh
có khả năng nêu cảm nhận, nêu sự nhận xét đánh giá của cá nhân mình qua hệ
thống câu hỏi. Cũng chính vì vậy dạng câu hỏi này có tác dụng giúp học sinh khắc
sâu kiến thức bài học hơn, học sinh trình bày vấn đề mang tính chất sáng tạo hơn và
GV cũng nắm được qua bài dạy học sinh nắm được kiến thức bài học ở mức độ
nào.
4. Câu hỏi so sánh
Đây là một trong những loại câu hỏi có hiệu quả cao trong quá trình tìm hiểu
văn bản. So sánh nhằm mục đích làm sáng tỏ vấn đề, khắc sâu kiến thức. Vận dụng
loại câu hỏi này sẽ giúp việc phân tích văn bản sâu hơn, phong phú sinh động, có
liên hệ được các kiến thức cùng đề tài. Có những câu hỏi so sánh ngay kiến thức
trong văn bản với văn bản, có khi so sánh kiến thức giữa hai văn bản khác nhau hay
rộng hơn là kiến thức trong cùng một nội dung, một đề tài.
Ví dụ: Khi dạy văn bản “Người con gái Nam Xương” (Ngữ văn 9)?
? Em có nhận xét gì về cái chết của Vũ Nương?
? Nhân vật Vũ Nương có điểm nào giống và khác với nhân vật Thúy Kiều?
Hoặc GV có thể cho so sánh về thân phận người phụ nữ trong các tác phẩm
“Bánh trôi nước”; “Truyện Kiều”; “Người con gái Nam Xương”… Đó là các câu
hỏi so sánh với lượng kiến thức rộng xuyên suốt kiến thức trong cấp học, giúp học
sinh có kiến thức phổ rộng hơn. Cũng có những câu hỏi GV cho học sinh so sánh
cụm từ để tìm ra được các suy nghĩ, tâm trạng khác nhau của nhân vật mặc dù từ
ngữ tác giả sử dụng giống nhau.
Ví dụ: Dạy văn bản “Bạn đến chơi nhà” (Ngữ văn 7 – Tập 1)
? So sánh cụm từ “ta với ta” trong bài với cụm từ “ta với ta” trong bài “Qua Đèo

Ngang”? …
Nói như vậy những không phải khi Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh là phải
rạch ròi đâu là câu hỏi phát hiện, đâu là câu hỏi gợi mở hay đâu là câu hỏi so
sánh… Mà GV phải biết khéo leo sử dụng hệ thông câu hỏi tùy theo đối tượng học
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×