TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN HÀNH CHÍNH
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
(NIÊN KHÓA 2005-2009)
Đề tài:
VIỆC THỰC HIỆN CƠ CHẾ “MỘT CỬA”
TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ, PHƯỜNG,
THỊ TRẤN
Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN LAN HƯƠNG
LÊ THỊ HỒNG ĐANG
MSSV: 5054720
Lớp : Luật Thương Mại 2
Khóa : 31
CẦN THƠ, 4/2009
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
LỜI NÓI ĐẦU....................................................................................................1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH THEO
CƠ CHẾ “MỘT CỬA” TRONG GIẢI QUYẾT CÔNG VIỆC CỦA
CÔNG DÂN VÀ TỔ CHỨC ..............................................................................4
1.1 Khái quát về cải cách hành chính và Thủ tục hành chính...............................4
1.1.1 Khái quát về cải cách hành chính ............................................................4
1.1.1.1 Khái niệm cải cách hành chính .......................................................4
1.1.1.2 Quan điểm cơ bản về cải cách hành chính ......................................5
1.1.1.3 Nội dung của cải cách hành chính...................................................6
1.1.2 Khái quát về thủ tục hành chính ...........................................................13
1.1.2.1 Khái niệm về thủ tục hành chính ..................................................13
1.1.2.2 Đặc điểm chung về thủ tục hành chính .........................................14
1.1.2.3 Ý nghĩa của thủ tục hành chính.....................................................15
1.2 Khái quát về cải cách thủ tục hành chính.....................................................15
1.2.1 Sự cần thiết phải cải cách thủ tục hành chính ........................................15
1.2.2 Ý nghĩa của việc cải cách thủ tục hành chính ........................................16
1.2.3 Mục tiêu và yêu cầu của cải cách thủ tục hành chính............................. 16
1.3 Khái quát cơ chế “một cửa” và cơ chế “một cửa liên thông” trong việc
giải quyết công việc cho công dân và tổ chức ...................................................17
1.3.1 Bối cảnh ra đời của cơ chế “một cửa” ...................................................17
1.3.2 Mục đích, ý nghĩa của cơ chế “một cửa” ..............................................19
1.3.2.1. Mục đích .....................................................................................19
1.3.2.2 Ý nghĩa.........................................................................................19
1.3.3 Các nguyên tắc thực hiện cơ chế “một cửa”,
cơ chế “một cửa liên thông” .................................................................20
1.3.4 Các lĩnh vực, công việc giải quyết theo cơ chế “một cửa” ....................20
1.3.5 Cơ quan áp dụng cơ chế “một cửa”, cơ chế “một cửa” liên thông..........21
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VIỆC THỰC HIỆN
CƠ CHẾ MỘT CỬA TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÔNG VIỆC CỦA
CÔNG DÂN VÀ TỔ CHỨC TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN
XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN..............................................................................23
2.1 Khái niệm cơ chế “một cửa” và cơ chế “một cửa liên thông” ......................23
2.1.1 Khái niệm cơ chế “một cửa” ................................................................ 23
2.1.2 Khái niệm cơ chế “một cửa liên thông” ................................................24
2.2 Cơ chế “một cửa” và cơ chế “một cửa liên thông” về việc thực hiện
thủ tục hành chính........................................................................................24
2.2.1 Nội dung của cơ chế “một cửa” và cơ chế “một cửa liên thông”...........24
2.2.2 Quy trình giải quyết công việc theo cơ chế “một cửa” .........................25
2.2.3 Quy trình giải quyết công việc theo cơ chế “một cửa liên thông” .........26
2.3 Một số công việc Ủy ban nhân dân cấp xã phải thực hiện để áp dụng
cơ chế “một cửa” ............................................................................................. 26
2.3.1 Tổ chức “Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả” và bố trí lịch làm việc.......26
2.3.1.1 Tổ chức “Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả”.................................26
2.3.1.2 Chuẩn bị phòng làm việc của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả ....29
2.3.1.3 Bố trí lịch làm việc ......................................................................31
2.3.2 Trách nhiệm tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” .................................31
2.3.3 Số lượng và trách nhiệm cán bộ, công chức tại bộ phận tiếp nhận
và trả kết quả ....................................................................................................32
2.3.3.1 Số lượng cán bộ, công chức tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.32
2.3.3.2 Trách nhiệm của cán bộ, công chức làm việc tại
Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả..................................................33
2.3.4 Quy trình, thủ tục, hồ sơ hành chính giải quyết theo
cơ chế “một cửa” tại Ủy ban nhân dân cấp xã......................................34
2.3.5 Tuyên truyền, phổ biến trong nhân dân về việc áp dụng
cơ chế “một cửa” tại Ủy ban nhân dân cáp xã......................................36
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CƠ CHẾ “MỘT CỬA”
VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TIẾP TỤC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA.............................................................................37
3.1 Kết quả đạt được của cơ chế “một cửa” ......................................................37
3.2 Những ưu điểm trong việc thực hiện cơ chế “một cửa” ở cấp cơ sở.............38
3.3 Những hạn chế vướng mắc trong việc thực hiện cơ chế “một cửa” .............40
3.3.1 Về tổ chức thực hiện ...........................................................................40
3.3.2 Về cán bộ, công chức của bộ phận một cửa .........................................41
3.3.3 Về cơ sở vật chất.................................................................................42
3.3.4 Về thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” ...........................................43
3.4 Phương hướng tiếp tục cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa”.............44
KẾT LUẬN ......................................................................................................49
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
LỜI NÓI ĐẦU
Bất kỳ một quốc gia nào cũng đặt vấn đề quan tâm đến nền hành chính của mình
để thực thi quyền lực Nhà nước và phục vụ nhân dân. Đối với nước ta, một nhà nước
còn non trẻ lại chiến tranh triền miên, chưa đủ thời gian, lực lượng và thực lực để thực
hiện cải cách hành chính. Sau hơn 30 năm giải phóng thống nhất đất nước, thoát khỏi
chiến tranh, Việt Nam lại tiếp tục trải qua những chặng đường cam go thử thách của
công cuộc xây dựng, kiến thiết nước nhà. Trên những chặng đường ấy, chúng ta đã
dần dần có thêm bài học của đổi mới và cải cách. Cải cách hành chính là một việc làm
rất khó, vì nó liên quan đến nhiều mặt: cơ chế chính sách, về con người, tiềm lực...
Chính sự cải cách này đã tạo ra làn sóng cho tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa,
khai thông lộ trình hội nhập của Việt Nam vào khu vực và thế giới. Nền kinh tế của
Việt Nam trong những năm gần đây đã có những bước tiến đáng kể. Song, trong xu
thế hội nhập, những vấn đề yếu kém của chúng ta đã bộc lộ. Chính vì vậy mà công
cuộc cải cách hành chính nhà nước nay lại trở thành vấn đề mà Đảng và Nhà nước xác
định là nhiệm vụ trọng tâm, là cấp thiết của việc tiệp tục xây dựng và hoàn thiện nhà
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, trước yêu cầu bức thiết của
sự nghiệp đổi mới bộ máy nhà nước, đặc biệt là bộ máy hành chính đã bộc lộ những
khiếm khuyết và yếu kém như: thủ tục hành chính rườm rà, hệ thống pháp luật chưa
đồng bộ…làm cản trở công cuộc đổi mới của đất nước.
Vì vậy cải cách hành chính nhà nước là một trong những nội dung mang tầm
chiến lược trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Mục tiêu cải cách hành chính là xây
dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu lực và hiệu quả, tạo
điều kiện và môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với xu hướng
hội nhập kinh tế thế giới.
Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” đã được triển khai thực hiện khi
Quyết định 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 về việc ban hành quy chế thực hiện cơ
chế “một cửa” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương được ban hành. Tuy
nhiên, sau vài năm thực hiện thì những quy định đó không thật sự giải quyết được
những vần đề cấp bách đang đặt ra, không còn phù hợp với tình hình đổi mới của đất
nước và còn nhiều bất cập. Dó đó, Chính phủ đã tiếp tục ban hành Quyết định
93/2007/QĐ-TTg ngày 22 tháng 6 năm 2007 về việc ban hành quy chế thực hiện cơ
chế “một cửa”, cơ chế “một cửa liên thông” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương. Khi Quyết định này được ban hành và đi vào triển khai tại các cơ sở thì đã
đáp ứng được những thiết sót mà Quyết định 181/2003/QĐ-TTg chưa giải quyết được.
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 1
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, thủ tục hành chính, trước hết là thủ tục tiếp nhận và giải quyết công
việc của công dân và tổ chức do nhiều ngành, nhiều cấp qui định, vừa thiếu tính đồng
bộ, vừa rườm rà phức tạp, thường xuất phát từ yêu cầu thuận tiện của cơ quan có trách
nhiệm giải quyết công việc mà chưa quan tâm đầy đủ đến nguyện vọng và sự thuận
tiện cho dân.
Nhiều cơ quan Nhà nước chưa chấp hành đúng các quy định về việc tiếp nhận và
giải quyết công việc của dân hoặc đùn đẩy trách nhiệm giải quyết công ciệc giữa các
cơ quan, cuối cùng công việc không ai giải quyết; thậm chí tự đặt ra các thủ tục, các
khoản phí, lệ phí không đúng thẩm quyền hoặc thu phí và lệ phí quá mức qui định;
không niêm yết công khai cho nhân dân biết các qui định về thủ tục hành chính của
Nhà nước; không bố trí cán bộ đủ trình độ và phẩm chất làm công việc tiếp nhận và
giải quyết công việc.
Không ít công chức Nhà nước khi tiếp và giải quyết công việc của dân có thái độ
thiếu tôn trọng nhân dân, cửa quyền, ban ơn, thậm chí sách nhiễu, đòi hối lộ. Tình hình
giải quyết công việc như vậy không những làm mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc
của các cơ quan, đơn vị, của nhân dân, mà là nguyên nhân chính làm tệ tham nhũng
phát triển, gây bất bình và làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước. Vì vậy,
cải cách thủ tục hành chính là một đòi hỏi bức xúc, đáp ứng yêu cầu chính đáng của
nhân dân. Đây cũng là một nội dung quan trọng của cải cách một bước nền hành chính
quốc gia.
Yêu cầu đặt ra là phải đạt được bước chuyển biến căn bản trong quan hệ và thủ
tục giải quyết công việc giữa các cơ quan Nhà nước, giữa cơ quan Nhà nước và các cơ
quan, đơn vị khác; giữa cơ quan Nhà nước với nhân dân trong việc tiếp nhận và giải
quyết công việc.
Cơ chế “một cửa” được hình thành trong quá trình thực hiện mục tiêu cải cách
hành chính nhằm thay thế có chế nhiều cửa trong quan hệ thủ tục giải quyết công việc
của các cơ quan công quyền với công dân và tổ chức chính trị xã hội, và giữa các cơ
quan công quyền với nhau. Cơ chế “một cửa” trong quá trình thực hiện đã mang lại
một số hiệu quả nhất định. Song trong quá trình vận hành đã bộc lộ những hạn chế và
yều kém mà ta gọi là “một cửa nhiều khóa” làm cản trở công việc của công dân, tổ
chức Nhà nước và quá trình phát triển toàn diện đất nước. Vì vậy, ra đời cơ chế “một
cửa liên thông” là phù hợp với quy luật phát triển, nó phát huy cao tính dân chủ, bình
đẳng trong việc giải quyết công việc của công dân, tổ chức nhà nước, tổ chức kinh tế,
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 2
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
tiết kiệm được thời gian, giảm nhẹ việc đi lại của dân, chống tệ nạn hối lộ, phiền hà,
công việc giải quyết chính xác, khách quan.
Ở cấp xã, là cấp mà công dân trực tiếp liên hệ khi cần giải quyết công việc. Dó
đó, sự ra đời của Quyết định 93/2007/QĐ- TTg ngày 22 tháng 6 năm 2007 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế thực hiện cơ chế “một cửa”, cơ chế “một
cửa liên thông” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đã tạo được bước đột
phá mới trong công cuộc cải cách hành chính. Quyết định này ra đời chỉ trong vòng
hơn một năm mà kết quả mà nó mang lại đã được công nhận là vô cùng to lớn.Tuy
nhiên, đây vẫn còn là mô hình tương đối mới mẻ. Vì vậy việc tìm hiểu vấn đề này là
hết sức cần thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của đề tài là tìm hiểu và đánh giá thực trạng của công cuộc cải cách
hành chính và cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ
chức ở địa phương, tìm hiểu rõ những vấn đề nào đã thực hiện được và vấn đề nào cần
khắc phục trên cơ sở đó đưa ra đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế này, tạo sở pháp lý
vững chắc cho chương trình cải cách hành chính trong giai đoạn 2001- 2010, hướng
đến xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, hiện đại.
3. Phương pháp nghiên cứu
Người viết đã vận dụng các phương pháp như: phân tích, tổng hợp, so
sánh,…nhằm mục đích nghiên cứu và giới thiệu một cách tổng quát về công cuộc cải
cách hành chính theo cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết công việc của công dân
và tổ chức ở địa phương, các văn bản có liên quan đồng thời tham khảo các sách báo
và những bài viết có liên quan của tác giả khác để giải quyết từng vấn đề đặt ra của đề
tài.
4. Kết cấu luận văn
Chương 1: Khái quát về cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” trong việc
giải quyết công việc của công dân và tổ chức
Chương 2: Quy định của pháp luật về thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải
quyết công việc cho công dân và tổ chức tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Chương 3: Kết quả thực hiện và phương hướng tiếp tục cải cách hành chính theo
cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết công việc của công dân, tổ chức tại Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 3
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH THEO CƠ CHẾ “MỘT
CỬA” TRONG GIẢI QUYẾT CÔNG VIỆC CỦA CÔNG DÂN VÀ
TỔ CHỨC
1.1 Khái quát về cải cách hành chính và thủ tục hành chính
1.1.1 Khái quát về cải cách hành chính
1.1.1.1 Khái niệm cải cách hành chính
Bàn về cải cách hành chính, chúng ta gặp phải nhiều định nghĩa khác nhau vì
không thể chỉ có một cách thức nhất định trong cải cách hành chính. Theo GS. Đoàn
Trọng Truyến, cải cách hành chính là: “sự tác động có kế hoạch lên toàn bộ hay một
số bộ phận của hệ thống hành chính làm cho nó hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, năng
suất và chất lượng cao hơn”1. Vì vậy cải cách hành chính không thuần túy là sự cải
biến mà là cuộc cách mạng có chủ thuyết chính trị và có kế hoạch, do Đảng cầm quyền
khởi xướng và lãnh đạo nhằm “xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, chuyên nghệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên
tắc nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát
triển đất nước”2.
Từ khái niệm trên chúng ta có thể thấy cái đích của cải cách hành chính là xây
dựng một nền hành chính gần dân, vì dân, đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của
người lao động. Nền hành chính gần dân là nền hành chính không có mục đích tự thân
mà chỉ có mục đích phục vụ dân, giữ gìn trật tự kỹ cương của xã hội, của chế độ.
Thông qua đó, nền hành chính tác động tích cực đối với đời sống kinh tể và đời sống
xã hội.
Nói đến đây thì khái niệm cải cách hành chính đã được làm rõ. Tuy nhiên, vấn đề
đặt ra và cần quan tâm ở đây là tại sao chúng ta phải cải cách hành chính? Chúng ta cải
cách nền hành chính vì những lý do sao đây:
Thư nhất, nền hành chính là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của nhà nước. Các chính sách và pháp luật đúng là điều kiện
tiên quyết, song nhất thiết phải có một nền hành chính mạnh để đưa chúng vào cuộc
sống và phát huy hiệu quả trong thực tế. Hơn nữa, trong quá trình tổ chức thực hiện,
nền hành chính còn góp phần tịch cực vào việc sửa đổi, bổ sung và phát triển chính
sách cũng như pháp luật.
1
Đoàn Trọng Truyến, Một số vấn đề về xây dựng và cải cách nền hành chính Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,
năm 1996
2
Báo cáo của Thủ tướng Phan Văn Khải tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa X.
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 4
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Thứ hai, các cơ quan hành chính nhà nước với tư cách là những chủ thể trực tiếp
tổ chức, quản lý và xử lý công việc hàng ngày của nhà nước liên quan đến quyền lợi
của dân, là cầu nối trực tiếp giữa Đảng, nhà nước và công dân. Nhân dân đánh giá chế
độ, đánh giá nhà nước một phần lớn và trực tiếp thông qua hoạt động của bộ máy hành
chính.
Thứ ba, trong bộ máy nhà nước ta, các cơ quan hành chính nhà nước là lực lượng
đông đảo nhất, với hệ thống tổ chức đồng bộ theo ngành và cấp từ Trung ương đến địa
phương….
Thứ tư, cải cách nền hành chính nhằm khắc phục những yếu kém trong chỉ đạo,
điều hành của bộ máy hành chính đối với những nội dung và vấn đề nêu trên, làm cho
nền hành chính thích ứng với mục tiêu mà công cuộc đổi mới đề ra.
1.1.1.2 Quan điểm cơ bản về việc cải cách hành chính
Việc cải cách hành chính ở nước ta được thực hiện dựa trên các nguyên tắc cơ
bản sau:
Thứ nhât, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, lấy
liên minh giai cấp công nhân và tầng lớp tri thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh
đạo.
Thứ hai, thực hiện đầy đủ nền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỹ cương xã
hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân nhân.
Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất,có sự phân công và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện 3 quyền: lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Thứ tư, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động và tổ chức của
nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được quy định sát hợp với tính chất,
chức năng của từng tổ chức, từng lĩnh vực hoạt động.
Thứ năm, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trong giáo dục, nâng cao đạo
đức xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước dựa trên cơ sở
đổi mới chỉnh đốn Đảng, bao gồm đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo Đảng.
Ngoài ra, việc cải cách hành chính nhà nước phải đảm bảo các tư tưởng chỉ đạo sau:
Nền hành chính nhà nước là một bộ phận chủ yếu của hệ thống chính trị: cải cách
nền hành chính là trong tâm của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước, gắn liền với
đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
Cải cách hành chính phải phối hợp chặt chẽ với đổi mới tổ chức và hoạt động của
Quốc hội, của các cơ quan tư pháp, phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 5
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
các cơ quan nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực trong việc thực thi cả ba quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp.
Xây dựng nền hành chính của một nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân,
một nền hành chính dân chủ, trong sạch, phục vụ đắt lực nhân dân và giữ vững trật tự
kỹ cương xã hội theo pháp luật.
Cải cách hành chính phải phục vụ đắt lực và thúc đẩy mạnh mẻ công cuộc đổi mới
và phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mọi chủ trương cải
cách nền hành chính nhà nước đều phải xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống, sát với
điều kiện thực tế, nhằm thu được kết qua thiết thực trong việc nâng cao hiệu lực và kết
quả của nền hành chính, tác động tích cực tới các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từng việc đã đề ra phải được tổ chức chặt chẽ, chỉ đạo kiên quyết, sâu sát, giành
cho được kết quả thiết thực, tạo đà cho bước tiệp theo.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đã đề ra mục tiêu và quan điểm chỉ đạo cải cách
hành chính một cách nhất quán, lâu dài, nhưng về chủ trương, nhiệm vụ chỉ đề cập
những vấn đề thiết thực, cấp bách, đáp ứng yêu cầu bức xúc và phù hợp với khả năng,
điều kiện thực tế, nhằm tiến hành cải cách một bước nền hành chính trong khuôn khổ
hiến pháp hiện hành, tạo cho được chuyển biến bước đầu, gây được niềm tin và là đà
cho các bước tiếp theo. Sở dĩ đặt vấn đề nêu trên vì:
Cải cách hành chính theo mục tiêu đã đề ra là công việc nặng nề, phức tạp, phải
tiến hành từng bước, liên tục trong nhiều năm, không thể nóng vội, giản đơn. Những
bệnh trạng của nền hành chính mang tính chất phổ biến, nghiêm trọng và kéo dài có
căn nguyên xã hội và lịch sử, không thể sửa chữa trong một thời gian ngắn.
Nền hành chính là một bộ phận của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Cải cách hành chính liên quan mật thiết đối với hệ thống chính trị. Những vấn
đề đã xác định trong nghị quyết đại hội Đảng, hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ và
trong hiến pháp hiện hành, có thể tiến hành ngay.
1.1.1.3 Nội dung của cải cách hành chính
Thực hiện nghị quyết đại hội VII , Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), Nghị
quyết đại hội VIII, các Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 6 (lần 2) và Trung ương
7 (khóa VIII), công cuộc cải cách hành chính trong 10 năm qua(1991-2000) đã góp
phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Những kết quả rõ nét, có ý nghĩa của cải cách hành chính trong thời gian qua thể hiện
ở nhiều nội dung.
Chức năng và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính từ Chính
phủ, các Bộ, ngành Trung ương đến Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp đã có nhiều
thay đổi tiến bộ, tập trung nhiều hơn vào quản lý nhà nước. Từng bước đổi mới thể chế
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 6
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
hành chính trên các lĩnh vực, trước hết là hình thành thể chế kinh tế phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính
phủ và cơ quan hành chính các cấp được sắp xếp, điều chỉnh tinh giản hơn trước; bộ
máy hành chính từ trung ương đến cơ sở vận hành phát huy tác dụng, hiệu quả tốt hơn.
Việc quản lý, xử dụng cán bộ, công chức được đổi mới một bước theo các quy định
của Pháp lệnh cán bộ, công chức: từ khâu tuyển chọn đánh giá, thi nâng ngạch, khen
thưởng, kỹ luật đến đào tạo, bồi dưỡng. Chế độ chính sách tiền lương bước đầu được
cải cách theo hướng tiền tệ hóa.
Tuy nhiên, nền hành chính nhà nước còn mang nặng dấu ấn của cơ chể quản lý
tập trung, quan liêu bao cấp, chưa đáp ứng được những yêu cầu của cơ chế quản lý
mới cũng như yêu cầu phục vụ nhân dân trong điều kiện mới, hiệu lực quản lý chưa
cao. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy hành chính trong nền quản lý
thị trường định hướng XHCN chưa được xác định thật rõ và phù hợp; sự phân công,
phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành mạch.Tổ chức bộ máy còn cồng
kềnh, nhiều tầng nấc; phương thức quản lý hành chính vừa tập trung quan liêu lại vừa
phân tán, chưa thông suốt; chưa có những cơ chế, chính sách tài chính thích hợp với
hoạt động của cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ công. Đội
ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng
lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm việc chậm đổi mới; tệ quan liêu,
tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục diễn ra nghiêm trọng trong bộ phận cán bộ,
công chức. Bộ máy hành chính ở các địa phương và cơ sở chưa thật sự gắn bó với
dân, không nắm chắt được những vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lung túng, bị động khi
xử lý các tình huống phức tạp.
Thực trạng trên đây do nhiều nguyên nhân gây ra, tuy nhiên cần tập trung vào
những nguyên nhân chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, nhận thức của cán bộ, công chức về vai trò chức năng quản lý Nhà
nước, về xây dựng bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy hành chính nhà nước trong
tình hình mới, điều kiện mới chưa thật rõ ràng và chưa thống nhất, còn nhiều vấn đề về
lý luận và thực tiển chưa được làm sáng tỏ, còn nhiều chủ trương và chính sách, quy
định của pháp luật ra đời trong cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chưa kịp thời sửa
đổi, thay thế.
Thứ hai, việc triển khai các nhiệm vụ về cải cách hành chính chưa được tiến hành
đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, cải
cách hành chính chưa gắn bó chặt chẽ với đổi mới hoạt động lập pháp và cải cách tư
pháp.
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 7
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Thứ ba, cải cách hành chính gặp trở ngại lớn do lạm dụng đến lợi ích cục bộ của
nhiều cơ quan hành chính, nhiều cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước ở Trung
ương và địa phương; ảnh hưởng của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp còn đè nặng
lên nếp nghĩ, cách làm của không ích cán bộ, công chức.
Thứ tư, các chế độ chính sách về tổ chức và cán bộ, về tiền lương còn nhiều điều
chưa phù hợp.
Thứ năm, là những thiếu sót trong công tác chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, ngành
Trung ương và Ủy ban nhân dân (UBND) các địa phương trong việc tiến hành cải cách
hành chính; sự chỉ đạo các chủ trương đã đề ra thiếu kiên quyết và chưa thống nhất.
Rút kinh nghiệm tư những thành công bước đầu cũng như những vấn đề còn tồn
tại của công cuộc cải cách hành chính giai đoạn (1991-2000) ngày 17/9/2001 Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 136/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt
chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn (2001-2010). Mục tiêu
chung của chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn (2001-2010)
là: phải xây dựng cho được một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh,
chuyên nghiệp, hiện đaị hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà
nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển
đất nước. Cơ bản đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải tạo phù hợp
với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Để thực hiện được
những mục tiêu nói trên chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn
(2001-2010) Chính phủ đã xác định công cuộc cải cách trong thời gian tới cần tập
trung vào những vấn đề sau đây: “xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh
theo các hướng: đổi mới thể chế; kiện toàn hợp lý bộ máy nhà nước; nâng cao phẩm
chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức; ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, quan
liêu…”(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX) khi đề cập đến nội dung cải
cách hành chính chúng ta cần lưu ý rằng, mỗi một quốc gia đều có một đặt điểm lịch
sử cụ thể phù hợp với nội dung cải cách hành chính tương ứng của mỗi quốc gia mình.
Ở Việt Nam, nội dung tổng thể mang tính lịch sử của quá trình cải cách hành chính tập
trung vào bốn nội dung lớn: cải cách về thể chế, cải cách bộ máy hành chính từ Trung
ương đến địa phương, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải
cách tài chính công.
Thứ nhất, cải cách thể chế
Thể chế ở đây được hiểu là toàn bộ các quy định của pháp luật và việc xây dựng
các thiết chế và tổ chức thực hiện chúng, cụ thể là:
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 8
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Xây dựng thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính, trước hết là
tổ chức và hoạt động của Chính phủ, các Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và UBND
các cấp về thẩm quyền quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp nhà nước nói riêng nhằm phân biệt rõ quyền của chủ sở hữu, quyền quản lý nhà
nước với quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp; về thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN trong đó chú trọng thị trường vốn và tiền tệ, thị trường chứng
khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường lao động,
thị trường dịch vụ. Đồng thời, xây dựng thể chế về mối quan hệ giữa nhà nước với
nhân dân như: thu thập ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương chính
sách quan trọng; trưng cầu dân ý; xử lý các hành vi trái pháp luật của cơ quan và cán
bộ, công chức trong khi thi hành công vụ; thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành
chính và Tòa án trong việc giải quyết khiếu nại của nhân dân. Đây cũng là nhiệm vụ to
lớn nhằm xác định lại mối quan hệ quyền lực giữa bộ máy hành chính với xã hội,
doanh nghiệp và công dân.
Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quy trình
xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta từ trước đến nay còn
nhiều bất cập, ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi pháp luật và hiệu quả của hệ thồng
pháp luật. Do đó việc cải cách thể chế cũng nhằm “bảo đảm cho các văn bản quy phạm
pháp luật có nội dung đúng đắn, nhất quán, khả thi”(Văn kiện Đại hội đai biểu toàn
quốc làn thứ IX). Cần tập trung vào các nội dung sau đây:
Thứ nhất, rà soát và hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật theo từng lĩnh
vực, loại bỏ những quy định pháp luật không còn hiệu lực hoặc chồng chéo, trùng lắp.
Phát huy hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản quy phạm pháp luật;
Thứ hai, tăng cường năng lực của các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương
và địa phương trong việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Khắc
phục tình trạng luật, pháp lệnh “chờ” nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành;
Thứ ba, khắc phục những biểu hiện thiếu khách quan, cục bộ trong việc xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, ngành chủ trì soạn thảo bằng cách nghiên
cứu, đổi mới phương thức, quy trình xây dựng pháp luật từ khâu bắt đầu soạn thảo đến
khi đưa ra Chính phủ xem xét, quyết định hoặc thông qua trình Quốc hội theo hướng
“cải tiến sự phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan, coi trọng việc xử dụng các
chuyên gia liên ngành và dành vai trò quan trọng cho tiếng nói của nhân dân, của
doanh nghiệp”(Văn kiện Đại hội đai biểu toàn quốc làn thứ IX).
Thứ tư, đảm bảo tính minh bạch, công khai của pháp luật, cần tổ chức tốt việc lấy
ý kiến nhân dân, của những người là đối tượng điều chỉnh của văn bản trước khi ban
hành; đồng thời, các văn bản quy phạm pháp luật sau khi đã ban hành hoặc có hiệu lực
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 9
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
pháp luật phải được đăng công báo hoặc yết thị, đưa tin trên các phương tiên thông tin
đại chúng để công dân, các tổ chức có điều kiện tìm hiểu và thực hiện.
Bảo đảm việc thực thi pháp luật nghiêm chỉnh của các cơ quan nhà nước, của
cán bộ, công chức. Các văn bản pháp luật phải cụ thể hóa thẩm quyền của mỗi một cơ
quan, mỗi người trong bộ máy theo hướng “người nào việc nấy” và trách nhiệm của
cơ quan, cá nhân trước pháp luật (sử dụng đúng các chế tài hình sự, hành chính, kỹ
luật và bồi thường vật chất khi công chức có vi phạm). Mặt khác, cần thực hiện tốt quy
chế dân chủ cơ sở; chế độ cán bộ chủ chốt của các ngành ở trung ương và địa phương
định kỳ trực tiếp gặp gỡ, đối thoại giải quyết các vấn đề cho doanh nghiệp và nhân dân
đặt ra; phát huy hiệu lực của thiết chế thanh tra kiểm soát và tài phán để đảm bảo hiệu
lực quản lý nhà nước, giữ gìn kỹ cương xã hội; mở rộng dịch vụ tư vấn pháp luật cho
nhân dân, cho người nghèo, người thuộc diện chính sách và đồng bào dân tộc ít người,
vùng sâu, vùng xa. Tạo điều kiện cho hoạt động luật sư, hoạt động bổ trợ tư pháp có
hiệu quả.
Cải cách thủ tục hành chính nhằm đảm bảo tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và
công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính. Loại bỏ những thủ tục hành
chính rườm rà, chồng chéo dể bị lợi dụng để tham nhũng gây khó khăn cho dân; xóa
bỏ kịp thời những quy định không cần thiết về cấp phép và thanh tra, kiểm tra, kiểm
soát, giám định; thống nhất và mẫu hóa các loại giấy tờ về giả quyết các công việc liên
quan đến sản xuất, kinh doanh của công dân, doanh nghiệp; mở rộng thực hiện cơ chế
“một cửa” trong việc giải quyết các công việc của công dân, tổ chức với các cơ quan
hành chính các cấp; công khai các loại phí, lệ phí, lịch công tác tại cơ sở làm việc của
các cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ hai, cải cách bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương
Hệ thống cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương, đứng đầu là Chính
phủ cơ quan hành chính nhà nước cao nhất cần được xác định rõ hơn về chực năng,
nhiệm vụ, việc phân công, phân cấp giữa Chính phủ với chính quyền địa phương “trên
cơ sở tách chức năng quản lý nhà nước với hoạt động kinh doanh, xúc tiến việc đổi
mới tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động và quy chế làm việc của cơ quan nhà
nước…;phân cấp trong hệ thống hành chính đi đôi với nâng cao tính tập trung thống
nhất trong việc ban hành thể chế” (Văn kiện Đại hội đai biểu toàn quốc làn thứ IX), cụ
thể là:
Chính phủ, các Bộ, các cơ quan ngang Bộ tập trung thực hiện chức năng xây
dựng, ban hành thể chế, kế hoạch chính sách quản lý vĩ mô đối với sự phát triển kinh
tế xã hội, chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện;
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 10
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Từng bước điều chỉnh những công việc của Chính phủ, các Bộ, các cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương đảm nhiệm đề khắc
phục những chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ. Chuyển cho các tổ chức xã
hội, tổ chức phi Chính phủ hoặc doanh nghiệp làm những việc về dịch vụ công không
cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp thực hiện. Chính phủ thực
hiện việc “ cung cấp các dịch vụ công” khi xét thấy không có chủ thể nào trong xã hội
đảm nhận được.
Xây dựng các quy định mới về phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương
nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương. Gắn phân công
phân việc với phân cấp về tài chính, tổ chức và cán bộ. Định rõ những loại việc nào
địa phương hoàn toàn quyết định, những việc trước khi địa phương quyết định phải có
ý kiến và những việc phải thực hiện theo quyết định của Trung ương;
Bố trí lại cơ cấu Chính phủ bao gồm các Bộ, các cơ quan ngang Bộ chỉ làm chức
năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng,
an ninh và đối ngoại; cơ cấu lại các Bộ và bộ máy làm việc của Chính phủ thật sự khoa
học, có hiệu lực, hiệu quả; đổi tên một số Bộ, cơ quan ngang Bộ cho phù hợp với nội
dung và phạm vi trách nhiệm quản lý nhà nước. Giảm mạnh các cơ quan trực thuộc
Chính phủ có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô
của Chính phủ. Sắp xếp các loại cơ quan tư vấn của Thủ tướng chính phủ, chỉ thành
lập các tổ chức này khi Thủ tướng có yêu cầu chỉ đạo tập trung những nhiệm vụ quan
trọng liên quan đến nhiều ngành,nhiều lĩnh vực. Cần quán triệt nguyên tắc là, các tổ
chức tư vấn này không có bộ máy chuyên trách và biên chế riêng, bộ phận thường trực
đặt tại Bộ hoặc cơ quan ngang Bộ có liên quan nhiều nhất.
Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ theo hướng tinh gọn, hợp lý, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ
quản lý nhà nước của mỗi tổ chức trong Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; tách chức năng
quản lý nhà nước của Bộ, ngành với tổ chức sự nghiệp công ích trực thuộc Bộ.
Cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương (bao gồm Hội đồng nhân dân
(HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp) trên cơ sở xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ của chính quyền ở đô thị với chính quyền ở nông thôn; Sắp xếp lại các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND các cấp theo tinh thần gọn nhẹ, tăng tính chuyên
nghiệp cho các cơ quan loại này. Đồng thời, cần có những văn bản pháp lý có giá trị
cao quy định các tiêu chí cụ thể đối với từng loại hình đơn vị hành chính ở nước ta, để
đi đến ổn định, chấm dứt tình trạng chia tách nhiều như thời gian qua.
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 11
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp,
loại bỏ những việc làm hình thức, không có hiệu quả thiết thực, giảm hội hợp, giấy tờ
hành chính.
Từng bước hiện đại hóa nền hành chính, triển khai và áp dụng công nghệ thông
tin trong hoạt động chỉ đạo, điều hành của hệ thống hành chính nhà nước, “phấn đấu
tăng cường đầu tư để đến năm 2010, các cơ quan hành chính có trang thiết bị tương
đối hiện đại, cơ quan hành chính cấp xã trong cả nước có trụ sở và phương tiện làm
việc bảo đảm nhiệm vụ quản lý; mạng tin học diện rộng được thiết lập tới cấp xã”3.
Đây cũng là một bước khởi đầu cho quá trình xây dựng “Chính phủ điện tử” ở Việt
Nam trong thời gian tới.
Thứ ba, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức:
Đây là nội dung mang tính “động lực” cho quá trình cải cách hành chính . Bởi lẽ,
“cán bộ quyết định tất cả”. Tuy nhiện, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức phải đặt trong lộ trình phát triển kinh tế- xã hội của từng thời kỳ, có bước đi
thích hợp. Trong thời gian tới cần phải:
Tiến hành tổng điều tra, đánh giá lại đội ngũ cán bộ, công chức; xây dựng cơ sở
dữ liệu về cán bộ, công chức.
Xây dựng quy chế hoạt động cộng vụ; hoàn thiện hệ thống bậc ngạch, chức
danh tiêu chuẩn chuyên môn của từng đối tượng; chế độ thi tuyển, bổ nhiệm, quy chế
đánh giá, khen thưởng, kỹ luật công thức; cơ chế thường xuyên đưa ra khỏi bộ máy
nhà nước những cán bộ, công chức không đủ năng lực trình độ, vi phạm pháp luật, đạo
đức nghề nghiệp và tiếp nhận, trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ cao và
đạo đức tốt;
Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức của các cơ quan quản lý cán bộ,
công chức, nâng cao trình độ của những người làm công tác tổ chức cán bộ; xây dựng
và thực hiện tốt quy chế về luân chuyển, phân cấp quản lý cán bộ, công chức cả ở
trung ương và địa phương;
Cải cách tiền lương và các chế độ chính sách đãi ngộ. Tiền lương của cán bộ,
công chức phải là hình thức đầu tư trực tiếp, đủ điều kiện sản xuất sức lao động, đầu tư
cho phát triển kinh tế- xã hội; đảm bảo cán bộ, công chức sống bằng lương; cải cách
hệ thống thang lương, bảng lương trên cơ sở xem xét tính chất và đặt điểm lao động
của từng loại cán bộ, công chức; điều chỉnh bội số và hệ số tiền lương trong các thang,
bảng lương; thực hiện tiền tệ hóa đầy đủ tiền lương;
3
Chương trình tổng thể cải cách hành chính
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 12
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài tiền lương theo ngạch,
bậc, theo cấp bậc chuyên môn, nghiệp vụ, phụ cấp tại những nơi độc hại, điều kiện khó
khăn;
Tiếp tục đổi mới nội dung chương trình đào tạo,bồi dưỡng cán bộ, công chức,
chú trọng nâng cao kiến thức, kỹ năng hành chính cho đội ngũ cán bộ, công chức theo
chức trách, nhiệm vụ đang đảm nhận; các hình thức và phương thức đào tạo, bồi
dưỡng phù hợp với mỗi loại cán bộ, công chức. Tạo điều kiện để các cơ sở đào tạo cán
bộ, công chức từ trung ương đến địa phương chủ động sắp xếp thời gian và giáo trình
phù hợp với việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ, công chức.
Thứ tư, cải cách tài chính công
Tài chính công phải được sử dụng một cách có khoa học, hiệu quả ngân sách
nhà nước, đáp ứng kinh tế giữa thu, chi ngân sách trên cơ sở tính toán kinh phí căn cứ
vào kết quả và chất lượng hoạt động của các chủ thể tham gia vào hoạt động tài chính;
xóa bỏ cơ chế cấp phát tài chính theo kiểu “xin cho”; ban hành các cơ chế, chính sách
thực hiện chế độ tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có điều kiện như trường đại
học, bệnh viện, viện nghiên cứu…trên cơ sở xác định nhiệm vụ phải thực hiện, mức hỗ
trợ tài chính tư ngân sách nhà nước và phần còn lại do các đơn vị tự trang trải;
Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách, bảo đảm tính thống nhất
của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chỉ đạo của ngân sách trung ương; đồng thời,
phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của địa phương và các ngành trong
việc điều hành tài chính và ngân sách; xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên
chế, thay thế bằng tính toán kinh phí căn cứ vào kết quả chất lượng hoạt động, hướng
vào kiểm soát “đầu ra”, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu của cơ quan hành chính, đổi
mới hệ thống định mức chi tiêu cho đơn giản hơn, tăng quyền chủ động cho cơ quan
sử dụng ngân sách;
Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của HĐND các cấp, tạo điều
kiện cho chính quyền địa phương chủ động xử lý các công việc ở địa phương; quyết
định của Bộ, Sở, ban, ngành nghề về phân bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc;
quyền chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách trong phạm vi dự đoán được quyền
phù hợp với chế độ, chính sách;
Thực hiện thí điểm để áp dụng rộng rãi một số cơ chế tài chính mới như: cho
thuê đơn vị sự nghiệp công; cho thuê đất để xây dựng cơ sở nhà trường, bệnh viện; chế
độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức chuyển từ các đơn vị công lập sang dân
lập ; khoán một số dịch vụ công cộng như: vệ sinh đô thị, cấp thoát nước, cây xanh,
công viên, nước phục vụ nông nghiệp…; thực hiện cơ chế hợp đồng hành chính đối
với một số dịch vụ công tác trong các cơ quan hành chính;
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 13
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Đổi mới công tác kiểm toán đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp
trong sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước; thực hiện dân chủ, công khai về
tài chính công, tất cả các chi tiêu tài chính đều được công khai.
1.1.2. Khái quát về thủ tục hành chính
1.1.2.1. Khái niệm về thủ tục hành chính
Trong từ điển tiếng Việt, thủ tục được hiểu là việc cụ thể phải làm theo một trật
tự quy định để tiến hành một công việc theo một thứ tự hay luật lệ đã quen. Như vậy,
thủ tục gồm hai yếu tố cơ bản là cách thức hoạt động và trình tự hoạt động. Thủ tục
hành chính là thủ tục do luật hành chính điều chỉnh, nó cũng chứa đựng hai yếu tố đó.
Nếu quy đinh thủ tục hành chính là trình tự, tức là thứ tự thực hiện hành vi, hoạt động
phản ánh liên tục, kế tiếp, tính giai đoạn của thủ tục thì chưa đủ. Bởi vì, nó chưa chỉ ra
được hoạt động thủ tục của các chủ thể pháp luật phải như thế nào, làm gì và không
được làm gì. Ngược lại nếu chúng ta quan niệm thủ tục hành chính chỉ gồm quy phạm
chỉ ra cách thức, phương pháp hành động cũng không đúng. Các hành vi thủ tục luôn
diễn biến theo và trong trình tự nhất định, trong mục đích chung thực hiện luật vật chất
(trong đó có quyền và nghĩa vụ của công dân). Bất cứ thủ tục hành chính nào cũng đều
như vậy. Trong quan niệm thủ tục hành chính của tiếng Việt như vừa nêu chúng ta
thấy yếu tố “cách thức hoạt động” rất nổi trội, trùm lên yếu tố “trình tự hoạt động”.
Trong đó thủ tục pháp lý nói chung, thủ tục hành chính nói riêng, “trình tự hoạt động”
lại là nét nổi bật không kém gì yếu tố “cách thức hoạt động”, kể cả trong việc xây
dựng pháp luật cũng như áp dụng pháp luật. Không phải ngẫu nhiên mà khi nói về
hình thức thủ tục nào đó, nhiều nhà nghiên cứu phải sử dụng từ phép “ trình tự - thủ
tục” để chỉ ra cái bên trong của nó.
Đến đây, có thể quan niệm thủ tục hành chính là quy định của luật hành chính
về cách thức và trình tự hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (chủ yếu là
các cơ quan hành chính nhà nước) trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước nhằm
mục đích thực hiện luật (quy phạm) vật chất.
Hiện nay, trong các tạp chí chuyên ngành các tác giả điều có hai cách
hiểu vể thủ tục hành chính như sau: Theo nghĩa thông thường hay nghĩa hẹp, thủ
tục hành chính được hiểu là thuật ngữ chỉ các quy định của pháp luật về cách
thức tiến hành hoạt động của các cơ quan nhà nước (chủ yếu là các cơ quan
hành chính nhà nước) và các chủ thể pháp luật khác trong việc giải quyết các
công việc cụ thể thuộc lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Theo nghĩa rộng,
thủ tục hành chính được quan niệm gồm hai mặt quan hệ chặt chẽ với nhau là
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 14
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
thể chế - mặt được hiểu theo nghĩa hẹp của thủ tục hành chính vừa nêu – và mặt
tổ chức thực hiện thể chế đó.
1.1.2.2 Đặc điểm chung của thủ tục hành chính
Tính chất đa diện và nột dung phong phú của hoạt động quản lý hành chính nhà
nước quy định đặt điểm của thủ tục hành chính, và do đó nó có những nét khác biệt
với các thủ tục trong hoạt động lập pháp, tư pháp.
Trước hết, thủ tục hành chính được thực hiện bởi nhiều cơ quan và công chức
nhà nước, ngoài cơ quan hành chính và công chức hành chính nhà nước những chủ thể
chủ yếu tiến hành thủ tục hành chính, theo quy định của pháp luật hiện hành, các cơ
quan lập pháp, tư pháp cũng được thực hiện một số thủ tục hành chính .
Thứ hai, thủ tục hành chính là thủ tục giải quyết công việc nội bộ nhà nước và
công việc liên quan đến quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của công dân. Do vậy, đối
tượng công việc cần thực hiện rất phực tạp. Có việc cần phải thực hiện nhanh gọn, ít
khâu, cấp, nhưng nhiều trường hợp đòi hỏi phải thận trọng, qua nhiều khâu và các loại
giấy tờ, xác minh tỉ mỉ.
Thứ ba, quản lý hành chính nhà nước chủ yếu là hoạt động cho phép, ra mệnh
lệnh có tính chất đơn phương và thi hành ngay nhằm giải quyết nhanh chóng, có hiệu
quả mọi công việc biến động hàng ngày của xã hội. Chính điều đó dẫn đến việc quy
định thủ tục hành chính phải kết hợp những khuôn mẫu ổn định tương đối và chặt chẽ
với các biện pháp thích hợp, được việc và tùy trường hợp cụ thể.
Thứ tư, nền hành chính nhà nước chuyển tư hành chính cai trị (hành chính đơn
thuần) sang hành chính phục vụ, làm dịch vụ cho xã hội; từ quản lý tập trung sang cơ
chế thị trường làm cho hoạt động quản lý nhà nước đa dạng về nội dung và phong phú,
uyển chuyển về hình thức, biện pháp; đồng thời đối tượng quản lý xã hội của nó xã xã
hội dân chủ cũng muôn hình, muôn vẻ không chỉ trong phạm vi nội bộ công dân nước
ta mà còn liên quan đến những yếu tố nước ngoài.
Thứ năm, hoạt động quản lý nhà nước được thực hiện chủ yếu tại văn phòng của
công sở nhà nước và phương tiện truyền đạt quyết định cũng như các thủ tục pháp lý
phấn lớn là văn bản (công văn, giấy tờ). Vì thế nó gắn chặt với công tác văn thư.
1.1.2.3 Ý nghĩa của thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính đảm bảo cho các quy phạm vật chất quy định trong các quyết
định hành chính được thi hành thuận lợi. Nếu bỏ qua các thủ tục hành chính thì trong
nhiều trường hợp sẽ làm cho văn bản hành chính bị vô hiệu hóa sẽ xảy ra quan liêu,
cửa quyền, tùy tiện.
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 15
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Thủ tục hành chính bảo đảm cho việc thi hành các quyết định được thống nhất
và có thể kiểm tra được tính hợp lý cũng như các hậu quả do việc thực hiện các quyết
định hành chính tạo ra.
Thủ tục hành chính khi được xây dựng và vận dụng một cách hợp lý sẽ tạo khả
năng sáng tạo trong việc thực hiện các quyết định quản lý đã được thông qua, đem lại
hiệu quả thiết thực cho hoạt động quản lý nhà nước. Thủ tục hành chính liên quan đến
nghĩa vụ và quyền lợi của công dân. Do vậy khi được xây dựng hợp lý và vận dụng tốt
vào đời sống nó sẽ tạo ra mối quan hệ tốt giữa nhà nước với nhân dân.
Thủ tục hành chính cũng là một biện pháp của pháp luật về hành chính nên việc
xây dựng và thực hiện tốt các thủ tục hành chính sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình
xây dựng và phát triển lập pháp. Đặt biệt khi nhà nước ta tiếp tục công cuộc cải cách
nền hành chính nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam thì thủ tục hành
chính càng đóng vai trò quan trọng.
Thủ tục hành chính xét trên một phương diện nhất định là sự biểu hiện trình độ
văn hóa của tổ chức. Đây là văn hóa giao tiếp trong bộ mày nhà nước, văn hóa điều
hành, nó thể hiện mức độ văn minh của một nền hành chính phát triển.
1.2 Khái quát về cải cách thủ tục hành chính
1.2.1 Sự cần thiết phải cải cách thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính là cơ sở và điều kiện cần thiết để cơ quan nhà nước giải quyết
công việc cần thiết của nhân dân, cơ quan nhà nước và tổ chức theo pháp luật nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan có công việc cần giải
quyết.Tuy nhiên, thủ tục hành chính của nước ta còn tồn tại nhiều nhược điểm. Cụ thể:
- Đòi hỏi quá nhiều giấy tờ gây phiền hà cho nhân dân nhất là đối với những
người ít hiểu biết các quy định về lề lối làm việc của các cơ quan nhà nước
- Nhiều cửa, nhiều cấp trung gian không cần thiết, rườm rà, không rõ ràng về
trách nhiệm.
- Trí tuệ, không phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mở cửa, còn theo thói quen,
kinh nghiệm còn dựa trên các cơ sở thực tế không còn phù hợp.
Thiếu thống nhất, thường bị thay đổi một cách tùy tiện.
Thiếu công khai
Hệ quả chung khi áp dụng hệ thống thủ tục hành chính đó là việc gây phiền hà,
kém hiệu quả trong việc thực hiện công việc chung của các cơ quan, gây trở ngại cho
việc giao lưu và hợp tác giữa nước ta với nước ngoài, gây ra tệ cửa quyền, bệnh giấy
tờ trong guồng máy hành chính, dể phát sinh tệ tham nhũng, làm giảm lòng tin của
nhân dân vào cơ quan nhà nước.
-
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 16
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Do vậy yêu cầu cải cách hành chính đang là yêu cầu bức xúc của nhân dân, của
các tổ chức và các nhà đầu tư nước ngoài, là khâu đột phá của quá trình cải cách hành
chính nhà nước.
1.2.2 Ý nghĩa của việc cải cách thủ tục hành chính
Việc cải cách thủ tục hành chính sẽ góp phần tinh giảm thủ tục hành chính, loại
bỏ những khâu xin phép, xét duyệt không cần thiết, giảm phiền hà, tạo thuận tiện, ít
tốn kém cho nhân dân và các nhà kinh doanh, đồng thời đảm bảo sự quản lý theo pháp
luật của các cơ quan hành chính, góp phần tích cực ngăn chặn và bài trừ cửa quyền,
sách nhiễu và hành vi vi phạm pháp luật.
1.2.3 Mục tiêu và yêu cầu của cải cách thủ tục hành chính
Phải đạt được sự chuyển biến căn bản trong quan hệ và giải quyết công việc của
nhân dân và tổ chức.
Phát hiện và xóa bỏ những thủ tục hành chính thiếu đồng bộ, rườm ra, phức tạp.
Tổ chức xây dựng và thực hiện được các thủ tục giải quyết công việc đơn giản
thông nhất, công khai.
Tạo điều kiện thuận lợi cho công dân và tổ chức có yêu cầu giải quyêt công việc,
ngăn chặn tệ cửa quyền sách nhiễu.
Trong thời kỳ đầu của công cuộc cải cách hành chính nhà nước Chính phủ đã
quyết định phải tiến hành ngay các công việc sau:
Tổ chức việc rà soát lại các thủ tục hành chính và các khoản phí, lệ phí đang
áp dụng từ trung ương đến cơ sở, phân tích đánh giá và phân thành các loại
như loại cần bãi bỏ, loại cần sửa đổi, loại cần được hợp pháp hóa.
Xây dựng quy chế công vụ và quy chế phối hợp giữa các cơ quan công
chức có trách nhiệm để thực hiện nguyên tắc “một cửa một dấu”
Mở rộng thông tin về các vấn đề hoạt động của nhà nước có liên quan dến
dân để dân biết, đảm bảo quyền được thông tin của dân, chú trong thông tin về thủ
tục hành chính theo nguyên tắc thông tin rộng rải, công khai.
Xây dựng một cơ chế tiếp nhận ý kiến của nhân dân.
1.3 Khái quát về cơ chế “một cửa” và cơ chế “một cửa liên thông” trong việc giải
quyết công việc cho công dân, tổ chức
1.3.1 Bối cảnh ra đời của cơ chế “một cửa”
Cơ chế “một cửa” về thực hiện thủ tục hành chính trong việc giải quyết công
việc của công dân, tổ chức được đề ra đầu tiên trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp của nước
ngoài tại Quyết định số 366/HĐBT ngày 7/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) ban hành chế độ thẩm định các dự án có vốn đầu tư trực tiếp của nước
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 17
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
ngoài. Cơ chế “một cửa” và “một cửa tại chỗ” đã trở thành nguyên tắc trong hoạt động
của các Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất từ đó đến nay.
Thực hiện Nghị quyết số 38/CP ngày 04/5/1994 của Chính phủ về cải cách một
bước thủ tục hành chính trong giải quyết công việc của công dân và tổ chức, từ năm
1995 nhiều địa phương đã chủ động thí điểm thực hiện áp dụng cơ chế giải quyết công
việc theo mô hình “một cửa” hoặc “một cửa, một dấu”.
Đi đầu trong lĩnh vực này là thành phố Hồ Chí Minh. Uỷ ban nhân dân thành
phố đã xây dựng đề án kèm theo Công văn số 2853/UB-NCVX ngày 27/9/1995 về
việc xin thí điểm việc tổ chức hoạt động của UBND cấp quận, huyện tại một khu hành
chính theo mô hình “một cửa, một dấu” đối với UBND quận 1, quận 5 và huyện Củ
Chi. Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho thực hiện (Thông báo số
6194/CCHC ngày 30/10/1995 của Văn phòng Chính phủ). Ngày 18 tháng 10/1996
Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh đã có Chỉ thị số 04/CT-TU về việc thực hiện cải
cách hành chính theo mô hình “một cửa, một dấu”. Tháng 11/1996 sau khi sơ kết đánh
giá việc thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa, một dấu”, UBND thành
phố Hồ Chí Minh đã có Chỉ thị số 36/CT-UB-NC ngày 11/11/1996 về việc tiếp tục
thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa, một dấu”; đặc biệt lưu ý tất cả các
quận, huyện chuẩn bị tốt mọi điều kiện, xây dựng đề án để đồng loạt thực hiện cơ chế
này trong toàn thành phố. Ngày 13/2/1997, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
đã có báo cáo số 490/UB-NC gửi Thủ tướng Chính phủ về việc báo cáo phương án mở
rộng thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa, một dấu” đối với cấp quận,
huyện thuộc thành phố kèm theo tờ trình số 4102/UB-NC ngày 22/11/1996 của Uỷ ban
nhân dân thành phố và đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý mở rộng diện thí điểm
cải cách hành chính theo mô hình “một cửa, một dấu” ở các quận, huyện còn lại và thí
điểm cơ chế “một cửa” ở Văn phòng UBND thành phố và một số sở, ban ngành thuộc
UBND thành phố.
Tiếp theo thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996 và 1997 có thêm 4 tỉnh thành phố
là; Hà Nội, Hải Phòng, Bình Dương và Hoà Bình thực hiện thí điểm cơ chế “một cửa”;
năm 1998 thêm 5 tỉnh là: Quảng Ninh, Trà Vinh, Tây Ninh, Đồng Nai, Cần Thơ; đến
năm 1999 có thêm 4 tỉnh: Thừa Thiên Huế, Đồng Tháp, Quảng Bình, Bà Rịa - Vũng
Tàu; năm 2003 thêm các tỉnh: Thái Nguyên, Quảng Trị, Thanh Hoá v.v… Tính đến
tháng 5/2003 đã có 35 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thí điểm thực hiện cơ
chế “một cửa” tại 196 đơn vị cấp sở, 160 đơn vị cấp huyện.
Được sự nhất trí của Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo cải cách hành chính
của Chính phủ đã chỉ đạo Ban Thư ký tổ chức khảo sát và kiểm tra việc thực hiện thí
điểm cơ chế “một cửa” tại một số tỉnh, thành phố để đề xuất phương án nhân rộng.
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 18
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Tháng 6/2003, Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nội vụ
và Bộ Tài chính tổ chức hội nghị tổng kết thí điểm mô hình “một cửa” và sơ kết tình
hình thí điểm thực hiện Nghị định số 10 của Chính phủ, Quyết định số 192 của Thủ
tướng Chính phủ. Qua tổng kết việc thí điểm mô hình một cửa đã rút ra kết quả quan
trọng trên một số mặt chủ yếu sau đây:
- Đổi mới cách thức, quy trình giải quyết các thủ tục hành chính tạo chuyển
biến cơ bản trong quan hệ giữa các cơ quan hành chính với công dân và tổ chức, giảm
phiền hà và chi phí cho công dân, tổ chức, được nhân dân đồng tình ủng hộ.
- Điều chỉnh một bước về tổ chức bộ máy và đổi mới, cải tiến chế độ làm việc
và quan hệ công tác trong cơ quan hành chính nhà nước.
- Nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ hành chính cũng như tinh thần, thái độ phục vụ
nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức.
- Hiện đại hoá một bước công sở hành chính.
Căn cứ vào kết luận của Hội nghị tổng kết, Bộ Nội vụ đã xây dựng quy chế thực
hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và đã được Thủ
tướng phê duyệt tại Quyết định 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 về việc ban hành
quy chế thực hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương4.
Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, cơ chế “một cửa” được thực hiện đối với
tất cả cấp tỉnh và cấp huyện từ 01/01/2004, đối với cấp xã từ ngày 01/01/2005. Có thể
nói Quyết định 181/2003/QĐ-TTg ra đời đã đưa ra một khuôn khổ pháp lý, tạo ra sự
thống nhất trong các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương khi áp dụng cơ chế
“một cửa”.
Nói về cải cách thủ tục hành chính thì người ta nghĩ ngay đến việc thực hiện cơ
chế một cửa, một việc làm được xem là mang đến diện mạo mới cho nền hành chính.
Mục đích của cơ chế một cửa là tạo bước chuyển căn bản trong quan hệ và thủ tục giải
quyết công việc giữa cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức và công dân. Từ năm
2003, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ban hành quy chế
thực hiện cơ chế một cửa tại cơ quan hành chính địa phương. Quy chế áp dụng thực
hiện đối với cơ quan hành chính cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã nhưng chỉ giới hạn ở
một số lĩnh vực nhất định. Qua 4 năm thực hiện cơ chế một cửa với những thành quả
đạt được, năm 2007 Thủ tướng Chính phủ đã thay thế Quyết định số 181/2003/QĐTTg bằng Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ban hành quy chế thực hiện cơ chế một
cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương5. Ngoài thực
hiện cơ chế một cửa, quy chế còn quy định thêm việc thực hiện cơ chế một cửa liên
4
5
Sau đây gọi là Quyết định số181/2003/QĐ-TTg
Sau đây gọi là Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 19
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
thông trong giải quyết thủ tục hành chính có liên quan đến thẩm quyền của nhiều cơ
quan. Mở rộng thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại các cơ quan ngành
dọc đóng ở địa phương; mở rộng lĩnh vực giải quyết theo cơ chế một cửa gồm tất cả
các công việc thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính có liên quan trực tiếp tới tổ
chức, cá nhân. Ngoài ra, quy chế còn quy định thẩm quyền của chủ tịch UBND tỉnh,
thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, chủ tịch UBND cấp huyện, cấp xã trong việc triển khai
thực hiện quy chế.
Nếu cơ chế “một cửa” tạo nên đột phá đầu tiên trong cải cách thủ tục hành chính
trong những năm qua thì bước đột phá tiếp theo là cơ chế “một cửa liên thông” vừa
triển khai thí điểm đã được nhân dân rất đồng tình. Cơ chế “một cửa liên thông” đặt ra
yêu cầu các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm liên kết, phối hợp trong quy trình xử lý
hồ sơ, không để tổ chức, công dân cầm hồ sơ đi từ “một cửa” này đến “một cửa” khác.
Người dân có nhu cầu chỉ phải nộp hồ sơ và nhận lại kết quả tại bộ phận “một cửa”
của UBND xã, phường, thị trấn.
1.3.2 Mục đích và ý nghĩa của cơ chế “một cửa”
1.3.2.1 Mục đích
Thực hiện cơ chế “một cửa” theo Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg của Thủ tường
Chính phủ nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập, để đạt được bước chuyển cơ bản
trong quan hệ và thủ tục giải quyết giữa cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức,
công dân, hạn chế tới mức thấp nhất những phiền hà cho tổ chức, công dân khi có
quan hệ với cơ quan nhà nước. Chống các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, cửa quyền,
của cán bộ, công chức, xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, từng bước
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước.
1.3.2.2 Ý nghĩa
Cơ chế này sẽ tạo cho cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có được sự
nhận thức thống nhất, không bị lúng túng trong việc tìm ra mô hình tổ chức cung cấp
dịch vụ hành chính cho tổ chức và công dân.
Thông qua cơ chế một cửa hoạt động của bộ máy nhà nước trở nên rõ ràng minh
bạch, có trách nhiệm và dự đoán được theo đúng nghĩa là bộ máy nhà nước sinh ra để
phục vụ nhân dân và sự rõ ràng, minh bạch trong hoạt động trong bộ máy là cơ sở để
người dân có thể kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động.
Nếu quy chế này được thực hiện nghiêm chỉnh thì bộ máy hành chính ở địa
phương sẽ được tinh giảm đáng kể, giảm được các tầng nấc trung gian, chế độ tập thể
và trách nhiệm cá nhân của cán bộ, công chức tiếp nhận và trả hồ sơ hành chính ở địa
phương sẽ được phân định một cách rõ ràng.
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 20
Việc thực hiện cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Giảm bớt hiện tượng nhũng nhiễu, phiền hà người dân thông qua việc tách riêng
khâu nhận hồ sơ và khâu thụ lý hồ sơ. Người thụ lý hồ sơ không tiếp xúc với dân, như
vậy quan hệ giữa người nộp và người thụ lý hồ sơ độc lập nhau.
Tiết kiệm chi phí và công sức của công dân, tổ chức và các cơ quan nhà nước
thông qua việc giảm các đầu mối giao tiếp của cơ chế “nhiều cửa” thành đầu mối duy
nhất.
Như vậy, có thể nói với những ý nghĩa to lớn mà cơ chế một cửa mang lại có thể
khẳng định được rằng cơ chế một cửa là cơ chế có tính chất ưu việt rõ rệt và là hướng
cải cách thủ tục hành chính đúng đắn.
1.3.3 Các nguyên tắc thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông
Việc áp dụng cơ chế một cửa phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Thủ tục hành chính đơn giản, rõ ràng, đúng pháp luật.
- Công khai các thủ tục hành chính, phí, lệ phí, và thời gian giải quyết công việc
của tổ chức, công dân.
- Nhận yêu cầu và trả kết quả tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.
- Việc phối hợp giữa các bộ phận có liên quan trong bộ máy công quyền nhằm
giải quyết công việc của tổ chức, công dân là trách nhiệm của cơ quan hành
chính nhà nước.
- Bảo đảm giải quyết công việc nhanh chóng, thuận tiện, đúng thời gian cho tổ
chức, công dân.
1.3.4 Các lĩnh vực, công việc giải quyết theo cơ chế một cửa
Quyết định số 181/2003/ QĐ- TTg ngày 04/9/2003 của Thủ tưởng Chính phủ về
việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa tại cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương quy định như sau:
Cơ chế một cửa được áp dụng trong các cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, cụ thể là :UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ( các Sở, Ban, ngành,
văn phòng HĐND và UBND); UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
UBND xã, phường, thị trấn.
Tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương : phê duyện các dự án đầu tư trong
nước và nước ngoài, xét duyệt cấp vốn xây dựng cơ bản, cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh cho doanh nghiệp, cấp giấy phép xây dựng, cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở và quyền xử dụng dất,cho thuê đất, giải quyết chính sách xã hội.
Tại quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh : cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh cho các hộ kinh doanh cá thể, cấp giấy phép xây dựng, cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở, và quyền sử dụng đất, đăng ký hộ khẩu, công chứng và chính
sách xã hội.
SVTH: Lê Thị Hồng Đang
TRANG 21