Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Sử dụng phần mềm powerpoint trong dạy học hình thành biểu tượng hình dạng không gian cho trẻ mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.26 MB, 79 trang )

1 of 128.

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là chìa khoá vàng cho mọi quốc gia, dân tộc tiến bước vào
tương lai. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến giáo dục và
coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là một trong những mục tiêu chiến lược.
Trong đó, giáo dục mầm non (GDMN) là mắt xích đầu tiên trong hệ thống
giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách
của trẻ. Nhà giáo dục Xô viết A.S.Makarenko khẳng định: “Những cơ sở căn
bản của việc giáo dục trẻ được hình thành từ trước tuổi lên 5. Những điều dạy
cho trẻ trong thời kỳ đó chiếm tới 90% tiến trình giáo dục trẻ. Về sau việc
giáo dục đào tạo con người vẫn tiếp tục nhưng lúc đó là lúc bắt đầu nếm quả,
cùng những nụ hoa thời đó được vun trồng trong 5 năm đầu tiên”. Lịch sử
giáo dục mầm non ghi nhận: GDMN là khâu đầu tiên của quá trình đào tạo
nhân cách con người mới Việt Nam, với mục tiêu là “Giúp trẻ em phát triển
về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của
nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một”. Mục tiêu này được thể hiện rất rõ
trong nội dung chương trình giáo dục mầm non ở từng độ tuổi. Trong những
nội dung đó, việc hình thành những biểu tượng toán sơ đẳng cho trẻ đã trở
thành một bộ phận vô cùng quan trọng, có một vị trí đặc biệt trong việc giáo
dục trí tuệ, phát triển nhận thức cho trẻ.
Nội dung chương trình hình thành biểu tượng toán cho trẻ mầm non
gồm có: Hình thành các biểu tượng về tập hợp, số và phép đếm; Hình thành
biểu tượng về hình dạng không gian của vật thể; Hình thành biểu tượng về
kích thước vật thể; Hình thành những biểu tượng về định hướng trong không
gian và thời gian. Như vậy, thông qua các biểu tượng toán sơ đẳng, trẻ có
thêm nhiều kiến thức và kĩ năng để nhận biết thế giới xung quanh mình đặc

1


kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


2 of 128.

biệt là về thuộc tính của các vật thể như hình dạng, số lượng, kích thước, vị trí
sắp đặt trong không gian. Trong đó, nhận biết hình dạng của vật thể hay các
dạng hình học của các vật thể trong thực tế là một nội dung quan trọng, cần
thiết để cung cấp cho trẻ. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là phải dạy học nội dung
này theo cách thức nào để trẻ có thể bằng kinh nghiệm sống của mình, tích
cực hoạt động để khám phá ra kiến thức mới dưới sự hướng dẫn của giáo viên
lại là một trăn trở không nhỏ của nhiều GV khi đứng lớp.
Chúng ta biết rằng, ngày nay, công nghệ thông tin (CNTT) đang phát
triển hết sức mạnh mẽ, nó xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đối với giáo dục và đào tạo, CNTT có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi hình
thức và phương pháp dạy học. Ứng dụng CNTT vào dạy học làm tăng hiệu
quả giờ dạy, nhờ đó mà trẻ hứng thú học hơn, kết quả tiếp thu bài tốt hơn.
Chính vì vậy, việc đưa ứng dụng CNTT như là một phương tiện trong giảng
dạy và học tập là một nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục hiện nay đồng thời
cũng là điều kiện thiết yếu để hiện đại hoá nền giáo dục nói chung và bậc học
giáo dục mầm non nói riêng. Ở bậc học này, chúng ta có thể sử dụng khá
nhiều phương tiện kĩ thuật hỗ trợ cho quá trình dạy học, đặc biệt là các phần
mềm để thiết kế các bài giảng, các giáo án điện tử. Có thể kể ra như phần
mềm Microsoft PowerPoint, Violet, Macromedia Flash...Trong đó, phần mềm
thông dụng nhất, phổ biến nhất là Microsoft PowerPoint. Tuy nhiên, việc sử
dụng của GV vẫn còn nhiều hạn chế. Có nhiều nguyên nhân: do điều kiện cơ
sở vật chất, trình độ tin học của GV và đặc biệt là nhận thức về vai trò của
việc ứng dụng CNTT còn chưa đầy đủ. Vì vậy, vẫn còn khá nhiều GV chưa
biết và không biết sử dụng phần mềm Microsoft PowerPoint như thế nào trong
soạn, giảng các nội dung dạy học các biểu tượng về hình dạng không gian.

Là một GVMN trong tương lai, tôi luôn mong muốn mỗi tiết học hình
thành biểu tượng hình dạng không gian sẽ đến với trẻ thật sinh động phong

2

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


3 of 128.

phú, thật sự lôi cuốn và kích thích tính tích cực học tập của trẻ. Cùng với
những nhận thức như trên về tầm quan trọng của ứng dụng CNTT trong dạy
học, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Sử dụng phần mềm PowerPoint trong
dạy học hình thành biểu tượng hình dạng không gian cho trẻ mầm non”.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu về phần mềm Microsoft
PowerPoint và việc sử dụng phần mềm này trong dạy học hình thành các biểu
tượng về hình dạng không gian cho trẻ mầm non, giúp GVMN có thể thiết kế
và tạo ra những giáo án, bài giảng điện tử bằng phần mềm PowerPoint qua
một số đề tài cụ thể.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.
- Nghiên cứu cách thức khai thác, sử dụng phần mềm PowerPoint vào
việc thiết kế bài giảng.
- Xây dựng quy trình và vận dụng quy trình để thiết kế bài giảng, giáo
án điện tử bằng phần mềm PowerPoint.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm tăng tính hiệu quả của việc ứng dụng
CNTT vào dạy học các biểu tượng về hình dạng không gian.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu

Việc ứng dụng phần mềm PowerPoint trong thiết kế các bài giảng điện
tử, các giáo án về nội dung hình thành biểu tượng hình dạng không gian cho
trẻ mầm non.
b. Phạm vi nghiên cứu
Phần mềm PowerPoint 2003, 2007, 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.

3

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


4 of 128.

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và tài liệu tham khảo,
nội dung chính của khoá luận bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Sử dụng phần mềm PowerPoint trong việc dạy học hình
thành biểu tượng hình dạng không gian cho trẻ mầm non

4

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag



5 of 128.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Phương pháp hình thành biểu tượng hình dạng không gian
cho trẻ mầm non
1.1.1.1. Đặc điểm nhận thức về hình dạng không gian ở trẻ mầm non
a. Trẻ 3 - 4 tuổi
Ngay từ khi học ở lớp nhà trẻ trong các tiết học hoạt động với đồ vật trẻ
đã được tiếp xúc và làm quen với các hình học nhưng mục đích chính chủ yếu
để trẻ phân biệt màu sắc, có thể giới thiệu tên gọi của các hình nhưng không
có yêu cầu trẻ phải nhớ tên mà để trẻ tự do hoạt động với các hình, tự khám
phá theo ý thích riêng của trẻ. Trẻ đã thực hiện được nhiệm vụ tìm kiếm vật
theo hình dạng.
Bước sang tuổi mẫu giáo bé (3 - 4 tuổi) khả năng tri giác của trẻ đã
phát triển hơn. Vì vậy, các biểu tượng hình dạng mà trẻ có được ngày càng đa
dạng, phong phú và chính xác hơn. Tuy vốn ngôn ngữ và kinh nghiệm sống
của trẻ còn ít nhưng trẻ đã có khả năng gọi đúng tên, phân biệt được hình
dạng khác nhau của các vật thể quen thuộc.
Ví dụ: Khăn lau của trẻ có hình vuông, bàn ăn có hình chữ nhật...
Khả năng chú ý có chủ định của trẻ mẫu giáo bé còn thấp, trẻ vẫn bị lôi
cuốn bởi các thao tác với đồ vật hơn là việc nhận biết hình dạng của các vật
thể vì trẻ không tri giác các hình học như những hình chuẩn, mà thường coi
chúng như những đồ chơi thông thường và gọi theo tên của những đồ chơi
giống nó nhưng nếu có sự hướng dẫn, chỉ bảo của người lớn trẻ sẽ không
đồng nhất tên gọi các hình học với tên đồ vật nữa mà trẻ có ý thức so sánh
hình dạng giữa các hình học và các vật.


5

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


6 of 128.

Nếu trẻ dưới 3 tuổi rất khó khăn trong việc nhận biết các hình học khi
chúng được đặt ở các vị trí khác nhau thì trẻ 3 tuổi đã bắt đầu nhận biết được
chính xác các hình học mà không phụ thuộc vào vị trí sắp đặt của chúng trong
không gian nhưng do quá trình tri giác các hình còn sơ sài, qua loa nên
thường có sự nhầm lẫn giữa các hình tương đối giống nhau.
Ví dụ: Hình vuông và hình chữ nhật, hình tròn và hình ô van...
Khả năng lựa chọn các vật theo mẫu khá chính xác nên đầu tiên cho trẻ
làm quen với mỗi loại hình là cho trẻ chọn hình theo mẫu. Sau khi đã nhận
biết được các hình học, việc khảo sát các hình học đóng một vai trò quan
trọng vì thông qua các hoạt động khảo sát đó để trẻ nhận ra điểm khác biệt
giữa các hình và đặc điểm rõ nét, đặc trưng của từng hình. Trong quá trình
khảo sát hình dạng, sự phối hợp giữa các giác quan như thị giác, xúc giác kết
hợp với lời nói giúp cho thúc đẩy sự tri giác và nhận biết hình dạng của các
vật một cách chính xác. Tuy nhiên, ở trẻ mẫu giáo bé khả năng phối hợp hoạt
động của mắt và tay còn chưa tốt, chưa biết sử dụng các đầu ngón tay để khảo
sát đường bao và thường dùng cả bàn tay để cầm, nắm vật, quan sát của mắt
thường tập trung vào các dấu hiệu như màu sắc, kích thước... nên khi hướng
dẫn trẻ giáo viên phải làm rõ từng thao tác và dùng lời nói hấp dẫn, thu hút trẻ
tập trung vào nhiệm vụ cần thực hiện. Khi trẻ đã có các biểu tượng về các
hình học cần hướng dẫn trẻ sử dụng chúng như các hình chuẩn để so sánh và
xác định hình dạng của các vật xung quanh trẻ.
b. Trẻ 4 - 5 tuổi
Bước sang độ tuổi 4 đến 5 khả năng nhận thức của trẻ phát triển hơn

nên biểu tượng về hình dạng vật thể và các hình học ngày càng chính xác và
phong phú hơn, việc phức tạp và mở rộng dần nội dung dạy trẻ chính là việc
nâng cao yêu cầu đối với hoạt động trí tuệ của trẻ. Nếu ở trẻ mẫu giáo bé mới
dừng lại ở việc nhận biết và gọi tên các hình thì ở 4 đến 5 tuổi khả năng thực

6

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


7 of 128.

hiện các thao tác tư duy phức tạp như: so sánh, phân tích, tổng hợp... nên trẻ
đã có thể phân biệt, so sánh đặc điểm của các hình và chính thông qua hoạt
động này trẻ tìm ra được những dấu hiệu đặc trưng của từng hình.
Các giác quan của trẻ phát triển hơn, các biện pháp khảo sát hình dạng
của trẻ ngày càng được hoàn thiện: Trẻ đã chủ động dùng các ngón tay để
cầm nắm, khảo sát hình, sự hoạt động của mắt đã bắt đầu tập trung quan sát
các dấu hiệu trên đặc trưng cho từng hình. Trẻ ít nhầm lẫn giữa hình tròn và
hình ô van, hình vuông và hình chữ nhật...
Trẻ không còn đồng nhất các hình học với các đồ vật giống chúng, mà
đã biết sử dụng các hình học như những hình chuẩn để so sánh, lựa chọn, xác
định hình dạng của mọi vật xung quanh, trẻ đã thực hiện đúng nhiệm vụ tìm
những vật có dạng tròn hay dạng vuông hoặc tìm những dấu hiệu chung của
các vật. Khi tìm hiểu các vật, trẻ 4 đến 5 tuổi tích cực sử dụng tay sờ nắn vật
phối hợp với mắt quan sát nhưng các ngón tay của trẻ chưa tham gia vào quá
trình sờ nắn vật, hơn nữa trẻ vẫn chưa biết nhìn lần lượt đường bao quanh vật.
Vì vậy, trẻ vẫn chưa nhận biết chính xác hình dạng của vật.
Trẻ có khả năng nhận biết được hình dạng của một số hình khối thông
dụng như: khối cầu, khối vuông, khối chữ nhật.

c. Trẻ 5 - 6 tuổi
Bước sang giai đoạn này khả năng nhận thức của trẻ đã phát triển hơn
rất nhiều, các quá trình cảm giác, tri giác, tư duy, ghi nhớ của trẻ đã bền vững
hơn, hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó nội dung nhận biết càng phức tạp thì trí tuệ
của trẻ càng phải hoạt động tích cực, hoạt động trí óc tích cực làm óc sáng
tạo, suy luận của trẻ càng phát triển, nhiều trẻ có khả năng tạo ra hình mới từ
những hình đã biết.
Ví dụ: Trẻ biết xếp các hình theo trí tưởng tượng của trẻ để tạo thành
ngôi nhà, búp bê, siêu nhân... hay vật gì đó mà trẻ thích.

7

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


8 of 128.

Trẻ hoàn toàn có khả năng thực hiện chọn vật theo lời hướng dẫn của
giáo viên dựa trên những biểu tượng đã có về hình dạng của các vật khác
nhau mà không cần sử dụng tới vật mẫu đã cho. Ta thấy được tư duy của trẻ
đã có bước phát triển hơn hẳn những lứa tuổi trước.
Trong hoạt động khảo sát hình trẻ không còn vụng về như những lứa
tuổi trước mà trẻ đã phối hợp hoạt động của tay và mắt chính xác hơn cầm
nắm vật bằng cả hai tay, sử dụng các đầu ngón tay để sờ các đường bao vật
kết hợp với chuyển động của mắt theo đường bao của vật, đó là phần chủ yếu
đặc trưng cho hình dạng của vật.
Đồng thời cùng sự phát triển của tư duy, ngôn ngữ của trẻ cũng phát
triển hơn, với sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thị giác, xúc giác và ngôn
ngữ đã tạo điều kiện giúp trẻ củng cố và nhớ lâu điều mình cảm giác được.
Lời nói còn giúp cho nhận thức của trẻ tổng quát hơn.

Trẻ có khả năng phân biệt các hình, các vật theo nhóm phù hợp theo
dấu hiệu đặc trưng.
Ví dụ: Nhóm có đường bao cong, nhóm có đường bao thẳng...
Trong ý thức của trẻ mẫu giáo lớn đã có sự tách rời các hình học khỏi
các đồ vật, trẻ không còn nhầm lẫn tên gọi của vật với tên gọi các hình mà trẻ
đã biết sử dụng các hình làm hình chuẩn để xác định hình dạng của các vật
xung quanh.
1.1.1.2. Nội dung hình thành biểu tượng hình dạng không gian cho
trẻ mầm non
a. Trẻ 3 - 4 tuổi
+ Dạy trẻ nhận biết hình tròn, hình vuông, hình tam giác và hình chữ
nhật theo mẫu và theo tên gọi.
+ Bước đầu dạy trẻ biện pháp khảo sát các hình và nắm được đặc điểm
một số đường bao hình.

8

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


9 of 128.

+ Dạy trẻ tìm trong môi trường xung quanh trẻ những đồ vật, đồ chơi
có hình dạng giống các hình trên.
b. Trẻ 4 - 5 tuổi
+ Dạy trẻ biện pháp khảo sát các hình học phẳng nhằm giúp trẻ nắm
được những dấu hiệu đặc trưng: Cấu tạo đường bao quanh hình, số lượng các
hình, các góc, các cạnh của chúng và độ dài các cạnh.
+ Dạy trẻ so sánh sự giống và khác nhau giữa hình vuông và hình chữ
nhật, hình tam giác với hình vuông hoặc hình chữ nhật dựa vào tính chất của

đường bao hình, kích thước và số lượng cạnh của mỗi hình.
+ Dạy trẻ chắp ghép các hình học phẳng.
c. Trẻ 5 - 6 tuổi
+ Dạy trẻ nhận biết và gọi tên các khối cầu, khối trụ, khối vuông, khối
chữ nhật...
+ Dạy trẻ biện pháp khảo sát các khối: khối cầu, khối trụ, khối vuông,
khối chữ nhật nhằm giúp trẻ nắm được những dấu hiệu đặc trưng của các hình
khối về cấu tạo bề mặt xung quanh khối, số lượng các mặt, các góc của chúng
và hình dạng các mặt khối.
+ Dạy trẻ nhận biết, phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa khối
cầu và khối trụ, giữa khối vuông và khối hình chữ nhật. Dựa vào đặc điểm về
hình dạng và các mặt bao quanh khối.
+ Dạy trẻ chắp ghép các hình và khối đã học.
1.1.1.3. Phương pháp hình thành biểu tượng hình dạng không gian
cho trẻ mầm non
a. Trẻ 3 đến 4 tuổi
Ngay từ nhỏ, thông qua các trò chơi trẻ đã nhận biết được hình dạng
cũng như nắm được tên gọi của một số hình hình học quen thuộc. Tuy nhiên,
do trẻ chỉ tri giác chúng như những đồ chơi thông thường nên trẻ chưa nhận

9

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


10 of 128.

biết được tính chất phong phú của chúng. Vì vậy cần hoàn thiện và làm phong
phú hơn kinh nghiệm cảm nhận hình dạng cho trẻ, ở trường mầm non hoạt
động này được tiến hành dưới hai hình thức: Dạy trẻ trên giờ học và dạy trẻ

ngoài giờ học. Trong giai đoạn mẫu giáo bé nhiệm vụ là dạy trẻ nhận biết dấu
hiệu hình dạng của bốn loại hình: Hình tròn, hình vuông, hình tam giác, hình
chữ nhật không phụ thuộc vào màu sắc kích thước của hình.
* Dạy trên giờ học
GV có thể tiến hành bài dạy theo các bước sau:
+ Cô cho trẻ quan sát hình mẫu để trẻ nắm được hình dạng của hình.
+ Cho trẻ chọn hình theo mẫu.
+ Cho trẻ gọi tên hình theo kinh nghiệm.
+ Cô nhận xét rồi đưa ra tên gọi chuẩn của hình.
+ Cho trẻ luyện tập nhận biết, gọi tên hình, chọn hình theo tên gọi.
Một số lưu ý:
* Dạy trẻ khảo sát hình
Khi trẻ đã nhận biết được hình, gọi tên hình và chọn hình theo tên gọi
để giúp trẻ nhận biết được những dấu hiệu đặc trưng của các hình cô hướng
dẫn trẻ khảo sát hình.
Ban đầu GV giơ hình cho trẻ xem, gọi tên hình và làm hành động mẫu
khảo sát đường bao quanh hình bằng đầu ngón tay trỏ của tay phải, trong quá
trình làm hành động mẫu GV cần giảng giải cho trẻ cách chuyển động tay và
mắt lần lượt theo đường bao quanh hình.
Sau đó GV cho trẻ chọn hình theo tên gọi và hướng dẫn trẻ thực hành
khảo sát và hỏi trẻ: Khi sờ xung quanh hình tròn hình vuông con cảm thấy
như thế nào? (Gợi ý: Xung quanh hình tròn có nhẵn không? Sờ có bị vướng
hay không?...)

10

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


11 of 128.


Để trẻ thấy rõ sự khác biệt đường bao của hình tròn và các hình còn lại,
GV tổ chức cho trẻ lăn hình qua đó trẻ tự nhận thấy hình tròn lăn được, các
hình khác không lăn được. Cũng có thể xếp chồng hình tròn lên hình vuông
để thấy được sự khác biệt rõ nét giữa đường bao của hai hình. Muốn nhấn
mạnh thuộc tính tròn của đường bao hình tròn cho trẻ quan sát và dùng tay sờ
quanh vật có dạng hình tròn: miệng cốc, miệng bát...
Dạy trẻ luyện tập nhận biết dấu hiệu hình dạng các hình không phụ
thuộc vào kích thước và màu sắc.
Khi trẻ đã nhận biết và phân biệt được các hình cần dạy trẻ nhận biết
được các hình không phụ thuộc vào các dấu hiệu khác: kích thước, màu sắc,
vị trí sắp đặt... để thực hiện nhiệm vụ này giáo viên cho trẻ ôn luyện dưới
những dạng bài tập hay trò chơi, các bài tập cần sắp xếp sao cho tăng dần độ
khó ban đầu sử dụng các hình học phẳng đã học sau đó mới là sự liên hệ các
hình với các vật xung quanh.
Bài tập thứ nhất: Chọn hình theo mẫu, theo tên gọi
GV đưa hình mẫu ra, yêu cầu trẻ gọi tên hình, sau đó gọi kèm cả tên
hình và màu sắc.
GV đưa hình mẫu ra, trẻ chọn hình theo mẫu của cô giơ lên và nói tên
hình, màu sắc.
GV nói tên hình, màu sắc và yêu cầu trẻ chọn được hình theo tên gọi,
màu sắc cô yêu cầu.
Ví dụ: Bước đầu chỉ yêu cầu trẻ chọn hình tròn, hình tam giác không
quan tâm tới màu sắc, sau đó mỗi yêu cầu chọn hình màu xanh, hình tam giác
màu đỏ.
GV cho trẻ xếp tất cả các hình cùng loại trong rổ ra sàn, để trẻ tự nhận
xét xem các hình đó có màu gì? Kích thước các hình thế nào với nhau?...

11


kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


12 of 128.

Ví dụ: Trong rổ của trẻ có 3 hình vuông: màu xanh to nhất, màu đỏ và
màu vàng nhỏ hơn và bằng nhau. Sau khi xếp ra trẻ nói được: hình vuông to
màu xanh, hình vuông nhỏ màu đỏ và màu vàng.
Bài tập thứ hai: Cho trẻ so sánh các hình với các đồ vật xung quanh.
Sau mỗi tiết cho trẻ làm quen với hình gì, giáo viên sẽ cho trẻ tìm ở xung
quanh lớp hoặc nghĩ xem có đồ vật gì giống với các hình vừa học, có thể cô
đưa ra các vật và để trẻ liên hệ xem vật đó giống hình gì.
Ví dụ: Cô đưa cái khăn mặt hỏi trẻ giống hình gì?...
GV cụ thể hoá các biểu tượng các hình trên từng đồ vật.
Ví dụ: Chỉ nói miệng cốc giống hình tròn không được nói cái cốc giống
hình tròn, màn hình tivi giống hình vuông chứ không được nói cái tivi giống
hình vuông,...
Đây là giai đoạn trẻ mẫu giáo bé nên khi cho trẻ liên hệ với các hình
học với các vật thì nên lựa chọn các vật có hình dạng đơn giản, ít chi tiết phụ
và giống với các hình học phẳng mà trẻ đã được học, không nên chọn các vật
có cấu tạo phức tạp trẻ khó liên hệ được.
Do trẻ mầm non hoạt động chủ đạo là hoạt động vui chơi nên việc hình
thành các biểu tượng cho trẻ không chỉ thực hiện trong các tiết học mà trong
cả các trò chơi, đó là những bài tập củng cố mang lại hiệu quả cao, cho trẻ
luyện tập với các dạng trò chơi học tập và vận động:
“Tìm đúng nhà”: các kiểu nhà hình tam giác, hình tròn, hình vuông...trò
chơi “Chiếc túi kỳ lạ”, “Tìm bạn thân”.
* Dạy ngoài giờ học
Theo chương trình giáo dục mầm non thì một tuần trẻ chỉ có một tiết
làm quen với biểu tượng toán mà tiết học chỉ kéo dài 15 đến 20 phút. Vậy nên

chỉ tiến hành hình thành biểu tượng toán cho trẻ trong các giờ học có chủ đích
trên lớp thì trẻ sẽ không thể ghi nhớ được những biểu tượng đó. Do vậy ngoài

12

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


13 of 128.

giờ lên lớp cần có những hoạt động để trẻ có thể ôn tập, củng cố những biểu
tượng đã được học.
Với mục đích đó, trong mỗi lớp cần có các bộ đồ chơi được tạo bởi các
hình học.
Ví dụ: Những bộ đồ lắp ghép, xếp hình, xây dựng...
Khi hướng dẫn trẻ chơi giáo viên cần nói đúng tên gọi của hình, hướng
trẻ tới sự tri giác các hình học để củng cố những đặc điểm của hình, qua đó
hình thành ở trẻ những biểu tượng phong phú về hình dạng.
Trong hoạt động góc: Giáo viên vừa tổ chức hoạt động động, sử dụng
các tình huống để hướng trẻ tới những kiến thức cần củng cố.
Ví dụ: Trong góc xây dựng giáo viên có thể hỏi: Viên gạch giống hình
gì mà các con đã được học? Ngôi nhà có hình gì?
Ở góc nội trợ: Miệng bát có hình gì? Bàn ăn giống hình gì?...
Góc học tập: Cho trẻ quan sát tranh được ghép từ các hình học và đàm
thoại cùng trẻ, có thể cho trẻ nặn, vẽ, tô màu cho các hình...
GV cần linh hoạt trong các tình huống có thể củng cố lại những biểu
tượng đã học cho trẻ trong các trò chơi, các hoạt động trong ngày của trẻ. Đặc
biệt cần cho trẻ hoạt động với đồ vật càng nhiều càng tốt.
b. Trẻ 4 - 5 tuổi
Dựa trên những kiến thức mà trẻ đã được học ở lớp mẫu giáo bé, trẻ đã

nhận biết, phân biệt và gọi tên được một số hình học phẳng. Nhiệm vụ ở lứa
tuổi mẫu giáo nhỡ là giúp phân biệt và tìm ra tính chất đặc trưng của các hình
học đã biết và mở rộng cho trẻ được làm quen với một số hình khối. Các hoạt
động vẫn được tiến hành dưới hai hình thức dạy trên giờ học và dạy ngoài giờ
học.

13

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


14 of 128.

* Dạy trên giờ học
Trên các tiết học trên lớp do trẻ đã nhận biết được các hình phẳng nên
sử dụng các mẫu hình đa dạng với màu sắc, kích thước, vị trí sắp đặt khác
nhau. Theo nội dung chương trình mẫu giáo lớn (4-5 tuổi) giai đoạn đầu là
giúp trẻ ôn luyện, so sánh sự giống và khác nhau giữa các hình học phẳng giai
đoạn sau mới cho trẻ làm quen với các hình khối.
a. Hình phẳng
Tiếp tục dạy trẻ ôn luyện nhận biết và gọi tên hình, khi xem mỗi hình
cần yêu cầu trẻ nhận xét cả màu sắc và kích thước của hình.
Ví dụ: Trẻ chọn hình tròn màu xanh, hình vuông màu đỏ, hình tam giác
to...
* Bài tập ôn nhận biết và gọi tên hình được tiến hành dưới nhiều dạng
và nhiều cách khác nhau:
Cách 1: Phát rổ đồ chơi có các hình học, sau đó yêu cầu trẻ xếp từng
hình trong rổ ra sàn.
Đàm thoại cùng trẻ xem những hình vừa xếp ra có những màu sắc gì?
Nhận xét về kích thước các hình bằng cách xếp chồng lên nhau. Trẻ sẽ thấy

rằng các hình giống nhau về hình dạng nhưng kích thước khác nhau, màu sắc
khác nhau, trẻ nhận biết được các hình không phụ thuộc vào màu sắc, kích
thước.
Cách 2: Cho trẻ quan sát xem trong rổ có những loại hình gì? Xếp hình
giống nhau thành từng hàng và tiếp tục hỏi trẻ tên của từng loại hình, màu
sắc, kích thước về các hình trong mỗi loại. Trong bài tập này, có thể kết hợp
với hình thành biểu tượng về tập hợp, số và phép đếm để xếp tương ứng 1-1
để so sánh số lượng các loại hình.
Sau khi cho trẻ ôn luyện nhận biết các hình, bước tiếp theo dạy trẻ so
sánh điểm giống và khác nhau giữa các hình.

14

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


15 of 128.

* Dạy trẻ phân biệt các hình qua các tính chất đặc trưng
Để so sánh đặc điểm giống và khác nhau giữa các hình cần dựa vào đặc
điểm về đường bao quanh hình, số lượng các cạnh, góc và độ dài các cạnh.
Ban đầu cho trẻ so sánh từng cặp hình, sau đó cho trẻ so sánh từng
nhóm hình, được tiến hành theo một trình tự nhất định thông qua hệ thống câu
hỏi: Đây là hình gì? Hình có màu gì? Các hình này có đặc điểm gì giống và
khác nhau?
+ Dạy trẻ phân biệt hình tròn và hình vuông, hình tam giác và hình chữ nhật.
Cho trẻ dùng tay sờ kết hợp với cùng chuyển động của mắt để khảo sát
đường bao của từng hình.
Cho trẻ lăn hình, trẻ nhận ra sự khác biệt là hình tròn có đường cong,
nhẵn nên lăn được. Còn các hình khác đường bao thẳng có các đầu nhọn nên

không lăn được.
Có thể cho trẻ luyện tập, phân loại các hình theo dấu hiệu đường bao
bằng thị giác và xúc giác.
+ Dạy trẻ phân biệt hình vuông, hình tam giác và hình chữ nhật.
Trong bài tập trước trẻ đã nhận thấy hình vuông, hình tam giác, hình
chữ nhật đều có một đặc điểm chung là không lăn được. Để trẻ nhận ra những
đặc điểm khác nhau của các hình qua hoạt động xếp hình và hoạt động khác.
Cách 1: Cho trẻ quan sát hình mẫu, sử dụng kĩ năng đếm và so sánh
chiều dài để lựa chọn số que tính, so sánh chiều dài các que tính xếp từng
hình. Trẻ sẽ nhận thấy:
+ Hình tam giác xếp bằng 3 que tính
+ Hình vuông được xếp bằng 4 que tính dài bằng nhau
+ Hình chữ nhật cũng được xếp bằng 4 que tính nhưng 2 que dài
bằng nhau và 2 que tính ngắn bằng nhau.
* Các bài tập luyện tập nhận biết, phân biệt các hình

15

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


16 of 128.

Sử dụng bước đầu là những bài tập đơn giản: Chọn hình và xếp hình
thành các nhóm theo dấu hiệu hình dạng.
Cuối các tiết học là cho trẻ chơi trò chơi:“ Chiếc túi kì lạ”, “ Về đúng
nhà”, “ Xếp hình”…
Ngoài ra, củng cố kiến thức của trẻ về các hình thông qua các hoạt
động khác nhau : vẽ, nặn, cắt dán…
a.2. Nhận biết các khối

Việc nhận biết các khối cũng được tiến hành như các giờ học nhận biết
các hình học phẳng:
+ Cho trẻ chọn khối theo mẫu
+ Cho trẻ gọi tên khối theo kinh nghiệm
+ Giáo viên chính xác lại tên gọi chuẩn cho trẻ
+ Gọi tên khối và chọn khối theo tên gọi
Trẻ dùng tay khảo sát các mặt bao xung quanh, lăn hình, đối chiếu các
hình tương tự với các khối.
VD: Đối chiếu hình chữ nhật với khối chữ nhật: hình chữ nhật có 4
cạnh, khối chữ nhật có nhiều cạnh, nhiều mặt và có mặt là hình chữ nhật.
* Dạy ngoài giờ học
Hoạt động tạo hình đem lại hiệu quả rất lớn trong việc củng cố các kiến
thức hình học cho trẻ qua các hoạt động: vẽ, nặn, cắt, xé, dán…
Cho trẻ chơi tự do cần tổ chức cho trẻ chơi “Đoán hình” từ những hình
chưa hoàn chỉnh để củng cố việc nhận biết, phân biệt hình rèn luyện ở trẻ khả
năng tự giác, phát triển khả năng tư duy của trẻ, ngoài ra trong quá trình tổ
chức hoạt động cô cho trẻ làm quen với một số hình thường gặp.
c. Trẻ 5 - 6 tuổi
Trẻ mẫu giáo lớn đã nắm được một số tính chất sơ đẳng của hình học
phẳng. Với các hình khối, trẻ đã phân biệt nhận biết được các khối như: khối

16

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


17 of 128.

cầu, khối trụ, khối chữ nhật theo khối mẫu và theo tên gọi của khối. Việc hình
thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo lớn cần hướng vào việc củng cố

ôn luyện những kiến thức, kĩ năng mà trẻ đã thu được ở những lớp dưới. Tuy
nhiên việc dạy trẻ nhận biết và so sánh các hình học cần dựa vào các dấu hiệu
cơ bản như: số lượng góc, cạnh của các hình, hình dạng và số lượng của mỗi
khối...qua đó trẻ nhận biết được các hình học trong đó như những hình chuẩn
để dựa vào đó mà so sánh các vật.
Để trẻ nhận thấy được những đặc điểm đặc trưng của hình cũng như
thấy những dấu hiệu giống và khác nhau của các khối cần tiến hành so sánh,
đối chiếu từng cặp một với hình gần giống nó.
Ví dụ: Khối cầu và khối trụ, khối vuông và khối chữ nhật...
Để đạt được mục đích hình thành ở trẻ biểu tượng về các hình học
phẳng và các khối đầy đủ và sâu sắc. Cần phải cho trẻ làm quen với các dạng
hình khác nhau của một dạng hình học hay hình khối như: hình tam giác có
các cạnh và các góc khác nhau, các khối trụ to, nhỏ khác nhau qua đó trẻ tìm
được những dấu hiệu đặc trưng giống nhau của các hình và các khối cùng
loại.
Thực hiện mục tiêu trên cần tiến hành hướng dẫn trẻ dưới hai hình
thức: dạy trên giờ học và dạy ngoài giờ học.
* Dạy trên giờ học
Trong chương trình hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo
lớn hiện nay gồm các bài:
Bài 1: Trẻ nhận biết phân loại khối cầu, khối trụ.
Bài 2: Trẻ nhận biết phân biệt khối vuông, khối chữ nhật.
Bài 3: Ôn nhận biết, phân biệt các hình khối: khối cầu, khối trụ, khối
vuông, khối chữ nhật.
Ngoài ra vẫn tiến hành luyện tập, ôn lại các hình học phẳng.

17

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag



18 of 128.

a1. Đối với các hình học phẳng.
Tiến hành luyện tập để trẻ so sánh, phân biệt, nắm sâu sắc đầy đủ dấu
hiệu đặc trưng của các hình phẳng để trẻ lấy đó làm chuẩn, đối chiếu với các
mặt của hình khối và so sánh với các vật thường gặp, cho trẻ tiến hành các bài
tập thông qua các trò chơi:
Cô đặt lên mỗi bàn một hình, chia lớp ra thành các đội, mỗi đội một
bàn, cho các đội thi tìm các vật trong thực tế có dạng giống với các hình đặt
trên bàn.
Ví dụ: Hình vuông chọn khăn tay, rổ đồ chơi...
Chia cho trẻ các rổ đồ chơi có nhiều loại hình và yêu cầu trẻ chọn ra
các hình có cạnh, kết hợp với hình thành biểu tượng tập hợp, số và phép đếm
số hình, so sánh số lượng giữa các hình.
Bước đầu hình thành khái niệm về các hình học dựa trên các dấu hiệu
về số cạnh: tam giác có 3 cạnh, tứ giác có 4 cạnh...
Các tiết ôn tập hình học phẳng không nên thành các tiết riêng nhưng
những hoạt động ôn tập này được tiến hành kết hợp trong các tiết hình thành
các biểu tượng về tập hợp số và phép đếm, biểu tượng kích thước hay biểu
tượng không gian. Ngoài ra còn tiến hành ôn tập trong các tiết tạo hình.
a2. Đối với các hình khối
* Tiến hành ôn tập nhận biết và gọi tên các khối
Ở lớp mẫu giáo nhỡ trẻ đã được làm quen với hình khối, bước sang giai
đoạn này cô vẫn tiếp tục cho trẻ nhận biết các khối theo hình mẫu, gọi tên
khối và chọn khối theo tên gọi với yêu cầu ngày càng cao hơn.
Bước đầu cho trẻ tập những bài tập đơn giản chọn khối theo tên gọi sau
đó thêm các dấu hiệu về hình dạng của các khối không phụ thuộc vào màu
sắc, kích thước chất liệu tạo nên khối.


18

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


19 of 128.

Cần củng cố biểu tượng hình dạng các khối vì đó là cơ sở để tự so sánh,
đối chiếu với các vật thường gặp trong cuộc sống hàng ngày.
* Dạy trẻ so sánh phân biệt với các khối với nhau
Bước đầu tiên cần cho trẻ so sánh phân chia các khối theo nhóm để
thuận lợi hơn khi trẻ phân biệt.
Cho trẻ khảo sát khối bằng tay, sờ trên bề mặt khối.
Lăn khối: Trẻ nhận thấy là có khối lăn được như khối cầu, khối trụ và
khối không lăn được như khối vuông, khối chữ nhật. Vậy là sẽ chia các khối
thành 2 nhóm: nhóm khối lăn được và nhóm khối không lăn được và ta sẽ tiến
hành cho trẻ phân biệt các khối trong cùng một nhóm với nhau.
- Phân biệt khối cầu và khối trụ
Cho trẻ khảo sát hai khối bằng các giác quan: thị giác, xúc giác, cầm
nắm, sờ xung quanh mặt bao hình, lăn hình rồi chỉ ra những điểm giống và
khác nhau.
Giống nhau: Cả hai khối đều lăn được
Khác nhau: Khối cầu có thể lăn được theo các hướng tuỳ ý vì bề mặt
khối cong đều. Còn khối trụ có hai mặt là mặt phẳng nên không lăn được theo
mọi hướng.
Dựa trên bề mặt khối, cô cho trẻ tiến hành đặt chồng các khối lên nhau:
Khi đặt khối trụ lên khối trụ thì đặt được.
Đặt khối cầu lên khối trụ thì cũng đặt được nhưng phải giữ thăng bằng
theo phương thẳng đứng.
Đặt khối trụ lên khối cầu hay khối cầu lên khối cầu thì không đặt được

vì khối cầu cứ lăn đi.
Để trẻ cảm nhận rõ nhất sự khác biệt giữa hai khối ta cho trẻ tiến hành
hoạt động nặn. Khi nặn khối cầu thì phải xoay tròn đất còn khi nặn khối trụ
phải lăn dọc rồi sau đó dỗ bẹt hai đầu.

19

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


20 of 128.

- Phân biệt khối vuông và khối chữ nhật.
Bước đầu vẫn tiến hành cho trẻ ôn luyện lại bằng cách cho trẻ chọn
khối theo mẫu và theo tên gọi. Để trẻ tự quan sát và cho trẻ nhận xét hình
dạng các mặt bao quanh khối, xem các mặt bao đó được tạo bởi hình học
phẳng nào. Sau đó cô có thể sử dụng trò chơi “ Thi dán hình” để trẻ chọn các
hình phù hợp dán lên mặt bao của các khối. Khi thực hiện trò chơi, trẻ phải
chọn hình, đếm số lượng hình sau đó mới dán. Qua thao tác đó trẻ nhận thấy
mặt bao của các hình được tạo bởi những hình gì và số lượng là mấy hình?
Cô hỏi và để trẻ tự trả lời, sau đó chính xác lại kết quả có thể gỡ lần
lượt lại các hình và đếm cho trẻ nhìn rõ.
Trẻ sẽ nhận thấy: khối vuông có 6 mặt, các mặt đều là hình vuông, khối
chữ nhật có 6 mặt nhưng có mặt là hình chữ nhật.
Riêng đối với khối chữ nhật còn phải chỉ cho trẻ biết có 2 loại khối chữ
nhật: khối chữ nhật có 6 mặt đều là hình chữ nhật và khối chữ nhật có 2 mặt
là hình vuông và 4 mặt là hình chữ nhật. Sử dụng các khối màu để chỉ rõ cho
trẻ quan sát.
Thông qua các hoạt động trên trẻ nhận thấy sự giống nhau và khác nhau
của 2 khối:

Giống nhau: cả 2 khối đều có 6 mặt và không lăn được.
Khác nhau: Khối vuông các mặt đều là hình vuông còn khối chữ nhật
có mặt là hình chữ nhật.
Trẻ mẫu giáo lớn đã nhận biết đầy đủ các hình học phẳng và hình khối
cơ bản mà mục đích cơ bản của việc dạy trẻ những hình và khối đó để giúp trẻ
lấy đó làm các hình chuẩn để xác định hình dạng của các vật thể xung quanh
trẻ. Vì vậy cần thường xuyên củng cố cho trẻ kĩ năng so sánh hình dạng của
các vật với các mẫu hình học và hình khối đã học và rèn luyện để phát triển
sự tri giác, phân tích hình dạng của các vật được tạo bởi sự kết hợp của một

20

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


21 of 128.

số hình học phẳng hay hình khối và kĩ năng dùng lời, mô tả hình dạng của
chúng. Ngoài ra có thể sử dụng một số tranh ảnh, hình vẽ hay cắt dán các vật
khác nhau để trẻ xác định và mô phỏng lại hình dạng của chúng, nhóm các vật
theo dấu hiệu hình dạng. Việc cho trẻ biết hình dạng chung của nhiều vật khác
nhau là rất cần thiết điều đó đòi hỏi các thao tác trí tuệ phức tạp như: so sánh,
phân tích, khả năng tách những dấu hiệu chung của những vật khác nhau khỏi
những dấu hiệu khác, khái quát hiểu từ “hình dạng” như một khái niệm
chung.
* Dạy ngoài giờ học
Trong quá trình tổ chức hoạt động góc cho trẻ thì khuyến khích trẻ sử
dụng các khối trong trò chơi, cô hướng dẫn trẻ lắp ghép các khối để tạo thành
những chiếc ô tô, ngôi nhà với những kiểu dáng đa dạng khác nhau, khi chơi
cô có thể kết hợp hỏi tên các khối để trẻ trả lời.

Hướng dẫn trẻ tạo khối bằng các cách khác nhau: nặn các khối bằng
đất, xếp các khối nhỏ thành các khối lớn cùng dạng hoặc khác dạng.
Ví dụ: Ghép 2 khối tam giác thành 1 khối vuông, ghép các khối vuông
nhỏ thành khối vuông lớn...
Hướng dẫn trẻ tìm các dạng khối trong thực tế xung quanh.
Ví dụ: Quả bóng là khối cầu, các loại vỏ hộp có hình dạng là khối
vuông hoặc khối chữ nhật.
GV cần tạo điều kiện để trẻ vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã có ở
mọi nơi, mọi lúc, trong lúc chơi, trong các hoạt động khác nhau như: tạo hình,
tìm hiểu môi trường xung quanh. Qua đó, củng cố kiến thức, kĩ năng cho trẻ
ngày càng trở nên sâu sắc, đầy đủ và bền vững hơn. Đặc biệt trẻ biết ứng dụng
những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống.

21

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


22 of 128.

1.1.2. Sử dụng CNTT trong dạy học hình thành các biểu tượng
toán cho trẻ
1.1.2.1. Vai trò của ứng dụng CNTT trong dạy học các biểu tượng
toán
Trong quá trình dạy học ngày nay, với sự phát triển và tác động mạnh
mẽ của CNTT, việc ứng dụng CNTT ngày càng trở nên quan trọng và cần
thiết, đặc biệt trong việc thiết kế các bài giảng và giáo án điện tử các hoạt
động dạy học. Cụ thể, với sự hỗ trợ của CNTT, các bài giảng điện tử có vai
trò sau :
- Truyền thụ tri thức

- Hình thành kĩ năng
- Phát triển hứng thú học tập
- Tổ chức, điều khiển quá trình dạy học
Do đó, khi dạy các môn học, đặc biệt là môn học hình thành biểu tượng
Toán cho trẻ, bài giảng điện tử có các vai trò cụ thể sau:
- Bài giảng điện tử giúp trẻ tri giác trực tiếp các đối tượng. Con đường
nhận thức này được thể hiện dưới dạng trẻ quan sát các đối tượng nghiên cứu
là trong các giờ học hay đi tham quan thực tế.
- Dưới sự tác động của bài giảng điện tử, trẻ tri giác không phải bản
thân đối tượng nghiên cứu mà tri giác những hình ảnh, biểu tượng, sơ đồ phản
ảnh một bộ phận nào đó của đối tượng. Theo cơ sở phân tích trên ta thấy rằng
bài giảng điện tử có vai trò to lớn đối với quá trình dạy học.
- Giúp trẻ dễ hiểu bài, hiểu bài sâu sắc hơn và nhớ bài lâu hơn.
- Bài giảng điện tử tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự nghiên cứu dạng
bề ngoài của đối tượng và các tính chất có thể tri giác trực tiếp của chúng.
- Bài giảng điện tử trong dạy học giúp cụ thể hóa những cái quá trừu
tượng, đơn giản hóa những máy móc và thiết bị quá phức tạp

22

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


23 of 128.

- Bài giảng điện tử giúp làm sinh động nội dung học tập, nâng cao hứng
thú học tập bộ môn.
- Bài giảng điện tử còn giúp trẻ phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt
là khả năng quan sát, tư duy (phân tích, tổng hợp các hiện tượng, rút ra những
kết luận có độ tin cậy,...), giúp trẻ hình thành cảm giác thẩm mỹ, được hấp

dẫn bởi cái đẹp, cái đơn giản, tính chính xác của thông tin chứa trong phương
tiện.
- Bài giảng điện tử giúp GV tiết kiệm được thời gian trên lớp trong mỗi
tiết học. Giúp GV điều khiển được hoạt động nhận thức của trẻ, kiểm tra và
đánh giá kết quả học tập của trẻ được thuận lợi và có hiệu suất cao thông qua
hệ thống trò chơi.
1.1.2.2. Ưu, nhược điểm của việc sử dụng CNTT trong dạy học các
biểu tượng toán
* Ưu điểm.
- HS hứng thú với bài học đặc biệt là thu hút bởi hình ảnh.
- Kênh hình kênh chữ phong phú, đa dạng về cả màu sắc và chất lượng,
không mất công trong chuẩn bị các vật mẫu hay vẽ tranh ảnh, in hình, phô tô,
ken ảnh...
- GV chủ động thời gian giảng dạy hơn là cách giảng dạy truyền thống,
bài giảng phong phú cho cả nội dung lẫn chương trình bài học, môn học, cách
tổ chức, phương pháp giảng dạy.
- Giúp HS dễ hình dung bài học có chứa nội dung lịch sử hay quá trình
diễn biến của sự vật hiện tượng trong thực tế hoặc trong tự nhiên một cách
khách quan bằng hình ảnh động hoặc bằng video clip chuẩn bị sẵn có liên
quan đến nội dung bài học.
- Giúp GV phát huy khả năng sáng tạo trong giảng dạy và trong tổ chức
các hoạt động như (bài tập trắc nghiệm, bài tập giải ô chữ....).

23

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


24 of 128.


Tạo sự liên hoàn và đồng hiện nội dung bài học trên cùng một trang
giao diện trên màn hình (slide) giúp HS có thể dễ dàng hệ thống nội dung bài
học.
* Nhược điểm:
- Nếu cách tổ chức bài học của GV không tốt sẽ làm cho HS khó khăn
trong quá trình lĩnh hội khái niệm (đối tượng).
- HS chỉ chú ý tới màu sắc hình ảnh mà không ghi nhớ nội dung bài học
nếu các hình ảnh hay các hiệu ứng nhiều quá dễ gây sự chú ý bằng thị giác
của người học.
- Nội dung bài dạy không lưu trên cùng một bảng như bảng đen phấn
trắng.
Để dạy học các nội dung, đặc biệt là các biểu tượng toán học cho trẻ,
giáo viên cần chú ý tới
1.1.2.3. Một số phần mềm dạy học được ứng dụng trong dạy học các
biểu tượng toán
Phần mềm dạy học là phần mềm được tạo lập nhằm trợ giúp trong một
chừng mực nào đó có thể thay thế một phần hay toàn bộ các hoạt động của
giáo viên. Khi có sự hỗ trợ của máy tính điện tử nói chung và sự hỗ trợ của
phần mềm dạy học nói riêng thì hiệu quả cho việc đánh giá là sự tích hợp kiến
thức đầy đủ của nhiều yếu tố.
a. Phần mềm Microsoft PowerPoint:
Năm 1984, Bob Gaskin, một nghiên cứu sinh về khoa học máy tính tại
đại học Berkeley (tiểu bang California), và các cộng sự của ông đã sáng tạo ra
phần mềm PowerPoint. Phần mềm này là một trong những phần mềm phổ
dụng nhất của Microsoft cùng với Word hay Excel...Phần mềm PowerPoint
cho phép giáo viên xây dựng các trình chiếu dưới dạng các slide. Trên các
silde này, GV sẽ thiết kế nội dung bài học, các hình ảnh, hiệu ứng sao cho phù

24


kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


25 of 128.

hợp để có thể truyền tải nội dung bài học đến cho người học. Do sự phổ dụng
và dễ thao tác của PowerPoint mà nhiều GV đã sử dụng để tạo ra các bài giáo
án, bài giảng phục vụ cho công tác dạy học. Tuy nhiên nhược điểm của phần
mềm này là không thể chạy được các ảnh động, các video; giao diện bằng
tiếng anh nên khó khăn cho nhiều GV còn hạn chế về ngoại ngữ; ít có khả
năng lập trình,...Vì vậy nhiều GV vẫn chưa thực sự chú ý tới phần mềm này.
b. Phần mềm Violet
Violet được viết tắt từ cụm từ tiếng Anh: Visual & Online Leson Editor
for Teachers (công cụ soạn thảo bài giảng trực tuyến dành cho GV).
Violet là phần mềm công cụ giúp GV có thể xây dựng được các bài
giảng trên máy tính một cách nhanh chóng và hiệu quả. So với các công cụ
khác, Violet chú trọng hơn trong việc tạo ra các bài giảng có âm thanh, hình
ảnh, chuyển động và tương tác... rất phù hợp với đối tượng người học là trẻ
nhỏ. Tương tự phần mềm PowerPoint, Violet có đầy đủ các tính năng dùng để
xây dựng nội dung bài giảng như: nhập các dữ liệu văn bản công thức, hình
vẽ, các dữ liệu Multimedia (hình ảnh âm thanh, phim hoạt hình, Flas...), sau
đó lắp ghép với nhau, sắp xếp thứ tự, căn chỉnh và và thiết lập tham số; tạo
các hiệu ứng hình ảnh, hiệu ứng chuyển động, riêng với việc xử lý các
Multimedia, Violet tỏ ra mạnh hơn các phần mềm khác; xây dựng hệ thống
bài tập trắc nghiệm khách quan, tạo bài tập ô chữ cần thiết cho hoạt động
củng cố kiến thức và nâng cao nhận thức của HS. Đặc biệt, Violet có tính
vượt trội hơn so với các phần mềm khác đó là khả năng nhúng vào một phần
mềm như PowerPoint.
Đây là một phần mềm dễ sử dụng, có đầy đủ các chức năng soạn thảo
trình chiếu; tạo ra các bài tập trắc nghiệm, bài tập giải ô chữ, lập trình mô

phỏng, và có thể đóng gói nhúng trực tiếp vào bài giảng của PowerPoint một

25

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


×