Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Đề tài khoa học mô hình nhân dân tự quản xây dựng nông thôn mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.92 KB, 58 trang )

TỈNH UỶ NINH BÌNH
BAN DÂN VẬN

***

BÁO CÁO KẾT QUẢ ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU CÁC MÔ HÌNH NHÂN DÂN TỰ QUẢN XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH NINH BÌNH

Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn Biên
Chức vụ: Phó Trưởng Ban Dân vận Tỉnh uỷ.
Cơ quan chủ trì đề tài: Ban Dân vận Tỉnh uỷ.

Ninh Bình, tháng 12 năm 2011


TỈNH UỶ NINH BÌNH
BAN DÂN VẬN

***

BÁO CÁO KẾT QUẢ ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU CÁC MÔ HÌNH NHÂN DÂN TỰ QUẢN XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH NINH BÌNH

CƠ QUAN QUẢN LÝ
SỞ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
GIÁM ĐỐC

CƠ QUAN THỰC HIỆN
BAN DÂN VẬN TỈNH UỶ


PHÓ TRƯỞNG BAN
kiêm
Chủ nhiệm đề tài

Đinh Quốc Luật

Nguyễn Văn Biên

Ninh Bình, tháng 12 năm 2011
2


PHẦN THỨ NHẤT
TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC TRIỂN KHAI
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
1. Tên đề tài: “Nghiên cứu các mô hình nhân dân tự quản xây dựng nông
thôn mới ở tỉnh Ninh Bình”.
2. Thời gian thực hiện: Năm 2011 (từ tháng đến tháng 12/2011).
3. Cơ quan quản lý: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Ninh Bình.
4. Kinh phí thực hiện: 60.000.000đồng (Sáu mươi triệu đồng)
- Từ ngân sách SNKH: 50.000.000đồng
- Từ nguồn tự có của cơ quan: 10.000.000đồng
5. Thuộc chương trình: Hỗ trợ cho nghiên cứu triển khai.
6. Chủ nhiệm đề tài.
- Họ và tên: Nguyễn Văn Biên
- Học vị: Cử nhân Luật, Kỹ sư điện tử, Cử nhân Chính trị.
- Chức vụ: Phó Trưởng Ban Dân vận Tỉnh uỷ.
- Điện thoại: CQ: 030.3886.011; NR: 030.3874.764; Mobile: 0912.030.112
- Địa chỉ cơ quan: Ban Dân vận Tỉnh uỷ Ninh Bình.

- Địa chỉ nhà riêng: Phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình.
7. Cơ quan chủ trì đề tài:
- Tên cơ quan: Ban Dân vận Tỉnh ủy Ninh Bình.
- Điện thoại: 030.3871.188.

Pax: 0303.876.732

- Địa chỉ: Phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình.
- Họ và tên thủ trưởng cơ quan: Nguyễn Thị Thanh, Uỷ viên dự khuyết
BCHTW, UV Ban Thường vụ, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh uỷ.
- Số tài khoản: 932.010000026.
3


- Kho bạc Nhà nước tỉnh Ninh Bình.
8. Cơ quan phối hợp nghiên cứu:
Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Hội Nông dân tỉnh, Sở Văn hóa Thể
thao và Du lịch, Liên minh các hợp tác xã tỉnh và một số xã thuộc 7 huyện, thị xã
trên địa bàn tỉnh.
II. NỘI DUNG KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI.
1. Mục tiêu của đề tài là:
- Đánh giá thực trạng công tác tự quản của nhân dân tại các thôn, xóm, bản
(gọi chung là thôn) trên cơ sở hương ước ở tỉnh Ninh Bình từ năm 2005 đến nay.
- Nghiên cứu một số mô hình nhân dân tự quản theo hương ước văn hóa tại
các vùng, miền trên địa bàn tỉnh; tổ chức hội thảo, rút kinh nghiệm và đề xuất
những giải pháp nhằm vận động nhân dân thực hiện có hiệu quả các mô hình tự
quản thông qua hương ước văn hóa trong xây dựng nông thôn mới.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu, luận giải về mục tiêu và những nội
dung nghiên cứu của đề tài.
Đề tài “Nghiên cứu các mô hình nhân dân tự quản xây dựng nông thôn mới

ở tỉnh Ninh Bình” được Ban Dân vận Tỉnh ủy Ninh Bình triển khai đồng thời với
chủ trương của Trung ương, của tỉnh Ninh Bình về Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới (Viết tắt là NTM). Xây dựng Nông thôn mới là chủ trương
lớn của đảng và nhà nước ta “về Nông nghiệp, nông thôn, nông dân” tại Hội nghị
lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương khóa X. Với mục tiêu “Không ngừng nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hòa giữa các vùng, tạo sự
chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn…xây dựng nông thôn mới
có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và gắn nông nghiệp với
phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch, xã hội nông thôn ổn
định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc….". Xây dựng NTM là một quá trình lâu dài,
đòi hỏi phải có sự chỉ đạo đồng bộ, chặt chẽ và sự vào cuộc của cả hệ thống chính
trị. Sau khi nghiên cứu 19 tiêu chí về xây dựng NTM chúng tôi nhận thấy: trong
4


xây dựng NTM cần phải phát huy hơn nữa vai trò tự quản của nhân dân, đặc
biệt là hình thức tự quản thông qua hương ước, quy ước, nếu có sự chỉ đạo, tổ
chức thực hiện khoa học, hợp lý vấn đề này chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả to lớn
trong công cuộc xây dựng NTM cũng như mọi mặt của đời sống xã hội. Căn cứ
mục đích, yêu cầu, trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu
một vấn đề có tính cơ bản, đó là: “Những giải pháp vận động nhân dân thực
hiện các mô hình tự quản trên cơ sở những nội dung của hương ước, quy ước
trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Ninh Bình”.
Với mục tiêu được xác định như trên, báo cáo của đề tài được chia làm các
phần chính như sau:
- Phần thứ nhất: Tổng quan về tổ chức triển khai nghiên cứu đề tài.
- Phần thứ hai: Kết quả nghiên cứu của đề tài, trong đó gồm các nội dung
chính sau:
+ Cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng NTM và vai trò các mô hình tự
quản trong xây dựng nông thôn mới.

+ Thực trạng về tình hình triển khai xây dựng NTM và hoạt động tự quản
trong nhân dân thông qua thực hiện hương ước ở thôn, xóm, bản…
+ Kết quả xây dựng các mô hình tự quản tại một số địa phương.
+ Những khó khăn, tồn tại và nguyên nhân.
- Phần thứ ba: Những giải pháp vận động nhân dân thực hiện các mô hình
tự quản trong quá tình xây dựng NTM.
- Phần thứ tư: Kết luận, kiến nghị và đề xuất.
3. Nội dung nghiên cứu của đề tài.
3.1. Xây dựng thuyết minh đề tài, phân công nhiệm vụ cho các thành viên.
3.2. Xây dựng đề cương tổng quát.
3.3. Tổ chức tham quan, học tập kinh nghiệm:

5


- Đã tham quan một số mô hình nhân dân tự quản: “về vệ sinh môi trường”,
“về an ninh trật tự”, “tổ dân vận tự quản” ở huyện Kiến Xương và huyện Vũ Thư,
tỉnh Thái Bình
3.4. Xây dựng mẫu phiếu điều tra.
- Loại phiếu: 02 loại: ( 01 loại phiếu dành cho cán bộ cấp thôn; 01 loại
phiếu dành cho nhân dân).
- Số lượng: 400 phiếu, trong đó
+ Phiếu dành cho cán bộ thôn: 8 thôn x 10 phiếu = 80 phiếu.
+ Phiếu dành cho nhân dân các thôn: 08 thôn x 40 phiếu = 320 phiếu.
3.5. Điều tra, khảo sát và thu thập thông tin.
- Khảo sát tại 08 thôn của 08 xã thuộc 07 huyện, thị xã. Dự kiến phân bổ số
phiếu như sau:
+ Vùng đồng bằng: Điều tra, khảo sát tại 03 thôn của 03 xã thuộc 03 huyện
Yên Khánh, Gia Viễn, Hoa Lư. Mỗi thôn có 40 phiếu dành cho nhân dân và 10
phiếu dành cho cán bộ. Tổng số: 150 phiếu.

+ Vùng có đông đồng bào theo đạo công giáo: Điều tra, khảo sát tại 02 thôn
của 02 xã, thuộc huyện Kim Sơn và 01 thôn của 01 xã, thuộc huyện Yên Mô. Mỗi
thôn 40 phiếu dành cho nhân dân và 10 phiếu dành cho cán bộ. Tổng số: 150 phiếu.
+ Vùng miền núi, có đông đồng bào dân tộc: Điều tra, khảo sát tại 01 thôn
của 01 xã của huyện Nho Quan và 01 thôn của 01 xã, thuộc TX Tam Điệp. Mỗi
thôn 40 phiếu dành cho nhân dân và 10 phiếu dành cho cán bộ thôn, bản. Tổng số:
100 phiếu.
- Người thực hiện: 05 người (Ban chủ nhiệm phân công).
- Thời gian: 03 ngày.
3.6. Xây dựng và báo cáo kết quả thực hiện 03 mô hình.
- Vùng đồng bằng: xây dựng mô hình tại xóm 10, xã Khánh Nhạc, huyện
Yên Khánh.

6


- Vùng có đông đồng bào theo đạo Công giáo: xây dựng mô hình tại xóm
Đông Cường, xã Văn Hải, huyện Kim Sơn.
- Vùng miền núi, có đông đồng bào dân tộc thiểu số: xây dựng mô hình tại
thôn Lý Nhân, xã Yên Bình, thị xã Tam Điệp.
3.7. Viết 03 báo cáo chuyên đề theo các vùng, miền trên địa bàn tỉnh.
- Chuyên đề 1: “Thực trạng và giải pháp vận động nhân dân thực hiện
hương ước trong xây dựng NTM ở vùng đồng bằng”.
- Chuyên đề 2: “Thực trạng và giải pháp vận động nhân dân thực hiện
hương ước trong xây dựng NTM ở vùng có đông đồng bào theo đạo công giáo”.
- Chuyên đề 3: “Thực trạng và giải pháp vận động nhân dân thực hiện
hương ước trong xây dựng NTM ở vùng miền núi, vùng có đông đồng bào dân
tộc thiểu số”.
3.8. Tổ chức hội thảo khoa học.
* Hội thảo nội bộ.

- Thời gian: 01 buổi.
- Thành phần: 17 người, gồm các đồng chí lãnh đạo, cán bộ Ban Dân vận
Tỉnh uỷ và các thành viên trong Ban chủ nhiệm đề tài.
* Hội thảo các sở, ngành, huyện, thị.
- Thời gian: 01 buổi.
- Thành phần: 17 người, gồm đại diện UBND tỉnh; đại diện Sở Nông nghiệp
& Phát triển nông thôn; Lãnh đạo Sở Nội vụ; Lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao & Du
lịch; Lãnh đạo Sở Tư pháp; Lãnh đạo UB Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Ban Dân vận Tỉnh
ủy; lãnh đạo ban dân vận 07 huyện, thị xã Tam Điệp.
3.9. Xây dựng báo cáo khoa học.
- Cơ sở lý luận về xây dựng, tổ chức thực hiện các mô hình tự quản của
nhân dân; chủ trương của đảng và nhà nước, của tỉnh về xây dựng NTM.

7


- Đánh giá thực trạng các mô hình nhân dân tự quản tại các thôn, xóm,
bản… trên cơ sở thực hiện hương ước tại 03 vùng, miền đặc thù của tỉnh Ninh
Bình.
- Đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp vận động nhân dân nâng cao ý thức
tự quản trong xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh.
3.10. Tổng kết, nghiệm thu cơ sở.
3.11. Nghiệm thu cấp tỉnh.
4. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng.
- Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
các quan điểm, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước về công tác dân vận
và công tác vận động nhân dân thực hiện chủ trương xây dựng NTM của đảng.
- Sử dụng phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp những văn bản, tư liệu;
tiếp cận các công trình đã được nghiên cứu của Trung ương và các tỉnh về vấn đề
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ, xây dựng và thực hiện hương ước và xây

dựng NTM.
- Tổ chức khảo sát điều tra xã hội học (bằng phiếu thăm dò, hỏi trực tiếp, lấy
ý kiến người quản lý, cán bộ có kinh nghiệm và nhân dân…).
- Phương pháp hội thảo (có tham vấn ý kiến của các chuyên gia).
Đề tài liên quan đến Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM là
một nội dung mới, đối tượng và phạm vi nghiên cứu rộng, cơ sở dữ liệu còn hạn
chế, đề tài được thực hiện trong thời gian 1 năm, kinh phí bảo đảm còn hạn hẹp.
Mặc dù vậy, Ban Chủ nhiệm đề tài đã cố gắng liên hệ mật thiết với các cấp, các
ngành và đặc biệt là tổ chức điều tra, khảo sát, chỉ đạo thực hiện mô hình điểm tại
các khu dân cư để rút kinh nghiệm. Trong quá trình triển khai không tránh khỏi
những hạn chế, khiếm khuyết, Ban chủ nhiệm đề tài mong nhận được sự đóng góp
ý kiến của các tổ chức và cá nhân để chúng tôi hoàn thành đề tài này.

8


PHẦN THỨ HAI
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CÁC MÔ HÌNH NHÂN DÂN TỰ QUẢN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH NINH BÌNH
I. NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DÂN CHỦ VÀ VAI
TRÒ TỰ QUẢN CỦA NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN
1. Cơ sở lý luận
1. 1. Một số khái niệm có liên quan khi nghiên cứu đề tài.
- Nông thôn: là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố,
thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Uỷ ban nhân dân xã (1)
- Thôn (xóm): là khu dân cư ở nông thôn, nhỏ hơn làng, gồm nhiều nhà ở
liền nhau, là một phần của làng hoặc xã.
- Quần chúng nhân dân: Là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao
gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp liên kết lại thành tập thể
dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những

vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định. (2)
- Dân chủ là gì: Là chính phủ được thành lập bởi nhân dân trong đó quyền
lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện bởi nhân dân hoặc bởi các đại
diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử tự do.
- Hương ước, quy ước: là bản ghi chép các điều lệ (những quy tắc xử sự
chung) mang tính bắt buộc phải tuân thủ, liên quan đến đời sống của cộng đồng dân
cư sinh sống trong làng. Các điều lệ này hình thành dần trong lịch sử, được điều
chỉnh và bổ sung mỗi khi cần thiết.(3)
9


- Tự quản: là việc tự trông coi, quản lí với nhau công việc của mình.
1. Thông tư 54 /2009/TT –BNNPTNT, ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
2. Từ điển bách khoa toàn thư.
3. Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT - BTP - BVHTT - BTTUBTUMTTQVN ngày
31/3/2000 hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp,
cụm dân cư.

1. 2. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ của nhân dân; về
nông nghiệp và nông thôn.
Hồ Chí Minh là người đã kế thừa tư tưởng dân chủ trong triết học phương
Tây và phương Đông đề cao vai trò của nhân dân, Người viết “Trong bầu trời
không có gì quý bằng nhân dân”1, nhân dân có vị thế rất lớn chỉ có thể so sánh với
trời, đất. Tất cả mọi việc trong đời dù khó khăn đến mấy, nhưng nếu biết dựa vào
nhân dân thì bao giờ cũng thành công:
“Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”2
Từ vị thế của nhân dân, ngay từ khi thành lập nước, Người xác định chính
thể Nhà nước ta “Việt Nam dân chủ cộng hoà” và nguồn gốc sâu xa của quyền lực

Nhà nước là “…đều ở nơi dân”3
Đối với nông dân, trong thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày 1-11946, Hồ Chí Minh viết: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh
tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, chính phủ
trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta
giầu thì nước ta giầu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”. Bởi “… Đồng bào
nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí
kiên quyết đấu tranh và hy sinh”4
Đối với nông nghiệp, nông thôn Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Muốn
phát triển tốt nông nghiệp thì phải làm tốt thủy lợi” và “Đắp đường lớn là do Trung
ương phụ trách, Bộ Giao thông chịu trách nhiệm. Nhưng địa phương có thể làm
10


những đường nhỏ. Làng này qua làng khác thì xã tự động làm, nhiều xã đã làm tốt.
Nên cho đồng bào thấy rõ lợi ích của việc làm thêm đường xá”.
1. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia HN 1996, tập 8, trang 276.
2. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia HN 2000, tập 12, trang 212.
3. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia HN 1976 , tập 9, trang 519.
4. Thư gửi hội nghị cán bộ Nông dân cứu quốc toàn quốc, tháng 11/1949.

Đây là những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ, nông
nghiệp, nông dân và nông thôn để Đảng, Nhà nước ta bổ sung, hoàn thiện chủ
trương chính sách trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá đất nước, hiện đại hóa
nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới hiện nay.
1. 3. Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về thực hiện dân
chủ; phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi ra đời cho đến nay
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách phù hợp để thực hiện và
phát huy dân chủ của nhân dân để xây dựng và phát triển đất nước, phát triển nông
thôn trong những bước ngoặt của lịch sử đất nước.

Ngày 18-2-1998 Bộ Chính trị khoá VIII đã có Chỉ thị số 30/CT-TW, Chính
phủ có Nghị định số 29/NĐ – CP và Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số 22/CT/TTg
về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Sau đó, Chỉ thị
số 46/CT –TW khoá IX của Bộ Chính trị ghi rõ: “…yêu cầu mở rộng dân chủ, phát
huy trí tuệ của cán bộ, đảng viên và nhân dân”. Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của
Đảng tiếp tục khẳng định “Hoàn thiện những thiết chế thực hiện dân chủ hoá đời
sống xã hội, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện có hiệu
quả quy chế dân chủ ở cơ sở”.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 của BCH TW Đảng (khóa VII) đã nêu rõ
nhiệm vụ xây dựng hương ước thôn, xóm: “Phát huy những truyền thống văn hoá
tốt đẹp, thuần phong mỹ tục, bài trừ hủ tục mê tín di đoan, tệ nạn xã hội, phát huy
tình làng nghĩa xóm, đảm bảo đoàn kết nông thôn, khuyến khích xây dựng và thực
hiện các hương ước và các quy ước về nếp sống văn minh ở các thôn xóm, Nhà
11


nước cần sớm nghiên cứu đề ra quy chế thích hợp với chức năng vai trò của xã hội,
của thôn, xóm, làng, bản trong tình hình mới, trong khuôn khổ pháp luật và dựa vào
những quy định này làng xã có thể xây dựng hương ước… khuyến khích việc biên
soạn hương ước để làm cơ sở tổ chức quản lý trên địa bàn cơ sở”. Tiếp đến Thủ
tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 24/CT-TTg, ngày 19/6/1998 về xây dựng và thực
hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư.
Đối với nông nghiệp và nông thôn Nghị quyết số 26- NQ/TW ngày 05-82008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) khẳng định: “Nông nghiệp,
nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển
kinh tế- xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng;
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất
nước”. Với mục tiêu: “Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân
cư nông thôn, hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn
nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các

nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông
thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền
vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế
và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh
công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc
văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống
chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai
cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân- nông dân- trí thức vững mạnh, tạo nền
tảng kinh tế- xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”; phấn đấu đến năm
2020 cả nước có 50% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới.
12


Để cụ thể hóa mục tiêu Nghị quyết số 26, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04 -6 - 2010 phê duyệt chương trình mục tiêu
Quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Nội dung của 19 tiêu chí trên 5 lĩnh vực (quy
hoạch, hạ tầng kinh tế - xã hội, kinh tế và tổ chức sản xuất, văn hóa - xã hội, môi
trường và hệ thống chính trị ) của 7 vùng kinh tế khác nhau. Xã đạt chuẩn nông
thôn mới là xã đạt được 19 tiêu chí cụ thể đó. Huyện nông thôn mới có 75% số xã
trong huyện đạt nông thôn mới. Tỉnh nông thôn mới có 80% số huyện trong tỉnh
đạt nông thôn mới.
2. Cơ sở thực tiễn
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước luôn tạo điều kiện để phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, mở rộng các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp,
thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở và hương ước ở thôn, xóm đây là
những cơ sở thực tiễn để các mô hình tự quản của nhân dân phát triển thể hiện trên
những điểm chính sau:

2.1. Hương ước góp phần tham gia quản lý xã hội, giữ gìn và phát huy
giá trị văn hóa của dân tộc.
Lệ làng xưa, hay hương ước ngày nay là hình thức tự quản của nhân dân dù
tồn tại ở thời kỳ nào, chế độ xã hội ra sao. Từ thế kỷ XV, lệ làng đã xuất hiện và
tham gia điều chỉnh ở hầu hết các mặt hoạt động của làng xã người Việt như hội hè,
đình đám, tế lễ, tuần phòng, khao vọng, giao hiếu..... Sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945, chức sắc, chức dịch trong làng xã phong kiến bị bãi bỏ, hương ước gần
như không còn tồn tại, nhưng nhiều nội dung của nó vẫn được duy trì dưới hình
thức bảo tồn nét đẹp văn hóa truyền thống, sinh hoạt cộng đồng, các phong tục, tập
quán lành mạnh của nhân dân.
Từ cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ 20, khi Nhà nước ta
thực hiện chủ trương theo Nghị quyết 10, thực hiện giao khoán ruộng đất cho các
hộ gia đình sử dụng ổn định lâu dài, thì hộ gia đình trở thành tác nhân quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Các mặt tích cực trong sinh hoạt
13


cộng đồng ở các thôn, làng được đẩy mạnh, đồng thời các yếu tố tiêu cực khác
cũng được dịp trỗi dậy, trong khi đó hệ thống pháp luật Nhà nước chưa đủ để điều
chỉnh các quan hệ vốn rất đa dạng và phong phú. Do vậy, hương ước có điều kiện
phục hồi trở lại và phát huy tác dụng ở nhiều thôn, làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ,
(Hà Bắc, Hà Tây, Thái Bình…) rồi sau phát triển sang các địa phương khác. Từ
năm 1998, sau khi có Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị và Nghị định 29 của Chính
phủ về thực hiện Quy chế dân chủ, hương ước tiếp tục phát triển mạnh trên phạm vi
toàn quốc với nhiều tên gọi khác nhau: “Quy ước làng văn hóa”, “Quy ước làng”,
“Quy ước nông thôn”, “Quy ước xây dựng nếp sống văn minh”.
2.2. Tình hình xây dựng và thực hiện hương ước ở tỉnh Ninh Bình.
Sau 10 năm triển khai xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước. Đến nay
toàn tỉnh có 1678 khu dân cư của 146 xã, phường, thị trấn đã xây dựng hương ước
(đạt 100%). Nội dung của các bản hương ước nhìn chung phù hợp với quy định của

pháp luật và thể hiện được nguyện vọng của nhân dân, gữi gìn các phong tục tập
quán tốt đẹp của dân tộc. Nhiều hương ước đã đưa ra các quy định chi tiết, cụ thể
liên quan trực tiếp quyền lợi của nhân dân như: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
đai; quyết toán thu chi ngân sách; các khoản đóng góp xây dựng hạ tầng, công trình
phúc lợi; chủ trương vay vốn phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Đặc biệt, một số thôn ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số huyện Nho Quan, thị xã Tam Điệp, vùng đồng bào theo đạo
huyện Kim Sơn đã đưa vào hương ước những quy định về bảo vệ môi trường, phát
triển rừng, chống lại các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo…
Thông qua việc thực hiện hương ước đã góp phần tích cực trong việc tham
gia phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc ở nông thôn.
Đặc biệt, khi thực hiện các quy định của hương ước, đã xuất hiện những mô hình tự
quản trên một hoặc nhiều lĩnh vực, thu hút đông đảo nhân dân trong một khu vực
dân cư, các cơ quan, doanh nghiệp tham gia. Điển hình là mô hình cưới văn minh
14


tiết kiệm trong đoàn viên thanh niên (Thanh niên nam nữ khi kết hôn đã thực hiện,
không thách cưới, không tổ chức ăn uống linh đình kéo dài tốn kém); mô hình văn
minh trong việc tang (gia đình hiếu chủ thực hiện nghiêm túc quy định không để
người quá cố trong nhà quá 24 tiếng đồng hồ, không mở loa đài quá 22 giờ đêm,
không sử dụng các hình thức khóc thuê); mô hình đóng góp xây dựng quỹ khuyến
học, khuyến tài của dòng họ; mô hình giúp giúp đỡ trẻ mồ côi, người già yếu, bệnh
tật không nơi nương tựa và những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, người lầm lỗi
hòa nhập với cộng đồng;.... Hàng năm nhân dịp tổ chức ngày hội Đại đoàn kết toàn
dân, thôn, xóm khu dân cư đều tổ chức tổng kết đánh giá, khen thưởng những hộ
gia đình tiêu biểu, đồng thời cũng nhắc nhở, phê bình các gia đình vi phạm trong
thực hiện hương ước. Thông qua đó, đã góp phần giáo dục, động viên nhân dân
đoàn kết gắn bó thành một cộng đồng chặt chẽ, đồng thời nâng cao trách nhiệm và

nghĩa vụ của mọi thành viên trong cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên việc thực hiện hương ước ở thôn, xóm còn có những tồn tại, hạn
chế đó là:
- Đa số các bản hương ước gần như sao chép rập khuôn giống nhau, chưa thể
hiện đặc trưng riêng của từng thôn, xóm; nội dung hương ước còn quá dài nhưng
các quy định lại sơ sài, lặp lại pháp luật và chủ trương, chính sách của Nhà nước
một cách khô khan, thiếu cụ thể, chưa sát với điều kiện và đặc điểm của từng làng,
câu chữ trong văn bản còn nặng tính hô hào, khẩu hiệu, khó hiểu, khó thực hiện. Cá
biệt có không ít bản hương ước có các quy định trái với quy định của pháp luật,
hoặc can thiệp quá sâu vào đời sống cá nhân,...
- Quy trình xây dựng hương ước đã được cụ thể hóa trong các văn bản Quy
phạm pháp luật của Nhà nước nhưng việc soạn thảo hương ước vẫn chậm về tiến
độ so với yêu cầu; đối tượng điều chỉnh còn lẫn lộn; chủ thể ban hành của một số
hương ước chưa đúng quy định.

15


- Thực hiện hương ước ở một số nơi còn hình thức, hàng năm chậm đánh giá
tổng kết và chưa thường xuyên sửa đổi bổ sung hương ước cho phù hợp với tình
hình.

II. ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ TRIỂN KHAI CHƯƠNG
TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH.
1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh
1. 1. Điều kiện tự nhiên.
- Tỉnh Ninh Bình có diện tích đất tự nhiên 1.400 km2, dân số có 898.459
người. Ðịa hình, chia làm 3 vùng khá rõ: Vùng núi và bán sơn địa chiếm 40%;
vùng đồng bằng và vùng ven biển chiếm 60% diện tích đất tự nhiên. Ninh Bình còn
là tỉnh có nhiều tuyến đường giao thông huyết mạch quan trọng của đất nước (Quốc

lộ 1A, đường sắt Bắc Nam, đường quốc lộ 10,…. ); có nhiều hệ thống sông ngòi
quan trọng như sông Ðáy, sông Hoàng Long, sông Vạc.
- Ninh Bình hiện nay, có 8 đơn vị hành chính cấp huyện (1 thành phố, 1 thị
xã và 6 huyện), 146 đơn vị hành chính cấp xã (125 xã, 15 phường và 6 thị trấn),
trong đó 120 xã sẽ thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM, đến
năm 2015 có 25 xã được chỉ đạo làm điểm để rút kinh nghiệm.
1. 2. Điều kiện kinh tế.
Về nông nghiệp: Năm 2010, năng suất lúa đạt 17 tạ/ha, sản lượng lương
thực cây có hạt đạt 51,4 vạn tấn. Giá trị sản phẩm trên 1 ha đất nông nghiệp đạt
76,3 triệu đồng. Chăn nuôi phát triển đa dạng và chuyển dần sang hướng sản xuất
hàng hoá. Thuỷ sản phát triển nhanh cả về nuôi trồng và đánh bắt, hình thành nên
vùng nuôi trồng thuỷ sản nước lợ ven biển Kim Sơn. Nhiều làng nghề, dịch vụ
thương mại hình thành và phát triển

16


Về công nghiệp: Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2010 đạt 3.242 tỷ đồng,
chiếm 33,6% giá trị sản xuất toàn tỉnh, nộp ngân sách Nhà nước 665 tỷ đồng, chiếm
22% thu ngân sách toàn tỉnh; kim ngạch xuất khẩu đạt 39,6 triệu USD, chiếm 49%
kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh. Các nghề thủ công truyền thống như: thêu ren ở
Văn Lâm, đá mỹ nghệ ở Ninh Vân

Hoa Lư,

dệt

chiếu

và làm hàng


cói

mỹ nghệ ở Kim

Sơn, Yên Khánh, đan mây tre ở Gia Viễn, Nho Quan, làng nghề mộc ở Phúc Lộc,
Phong,

Ninh

Thành phố Ninh Bình…tiếp tục phát triển.
Về Thương mại, dịch vụ, du lịch: là một trong 3 thành phần cơ cấu kinh tế

của tỉnh đang trên đà phát triển. Năm 2010, chiếm 35,3% tỷ trọng kinh tế toàn tỉnh.
Đặc biệt kinh tế du lịch được quan tâm và đầu tư.
1. 3. Đặc điểm về văn hoá – xã hội.
1.3.1. Về văn hóa:
- Văn hóa Ninh Bình tương đối năng động, nhưng mang đậm nét đặc trưng
của nền văn minh châu thổ sông Hồng do nằm ở vùng giao thoa giữa các khu vực:
Tây Bắc,

đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ.

- Ninh Bình là kinh đô của ba triều đại Đinh – Tiền Lê – Lý với nhiều sự
kiện lịch sử oai hùng của dân tộc mà dấu tích lịch sử còn để lại trong các đình,
chùa, đền, miếu, từng ngọn núi, con sông. Đây còn là vùng đất chiến lược để bảo
vệ Thăng Long của triều đại

Tây Sơn,


là căn cứ để nhà Trần 2 lần chiến thắng giặc

Nguyên - Mông, là đất dựng nghiệp của nhà Hậu Trần.... Ninh Bình còn là vùng đất nổi
tiếng với nhiều công trình kiến trúc văn hóa độc đáo (đền vua Đinh Tiên Hoàng,
đền vua Lê Đại Hành,

Nhà thờ Phát Diệm, chùa Bái Đính…)

như Lễ hội Hoa Lư, Lễ hội Chùa Bái Đính,

và các lễ hội văn hóa đặc sắc

lễ hội đền Nguyễn Công Trứ ,

lễ hội đền Thái

vi...
1.3.2. Về xã hội:
- Ninh Bình có 23,33 % dân số là tín đồ của 2 tôn giáo ( Phật giáo và Công
giáo); 2,1% dân số là đồng bào các dân tộc thiểu số Mường, Tày, Nùng, Thái,
Dao….. Đồng bào các dân tộc, tôn giáo sống đan xen hòa đồng trong mỗi cộng
17


đồng dân cư, đoàn kết, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành
của các cấp chính quyền, hăng hái tham gia các hoạt động xã hội, tích cực hưởng
ứng các phong trào thi đua phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, phong trào toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, đẩy mạnh các hoạt động
nhân đạo, từ thiện giúp đỡ những người neo đơn, có hoàn cảnh khó khăn, lũ lụt,
cùng góp sức xây dựng quê hương.

- Đến năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh còn 6,15% (theo tiêu chí năm 2005).
80% số hộ dân được dùng nước sạch trong sinh hoạt, 90% kênh mương được kiên
cố hoá, 95% đường thôn, ngõ xóm được bê tông, hoặc cứng hoá. Hệ thống chính trị
vững mạnh, an ninh chính trị - trật tự an toàn xã đảm bảo, xã hội đồng thuận. Đây
là những điều kiện thuận lợi để tỉnh ta phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông
thôn mới.
2. Tình hình triển khai xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.
Thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM, Tỉnh uỷ Ninh
Bình đã thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh giai đoạn 2010 – 2020; chỉ đạo thành lập
ban chỉ đạo ở 7 huyện, thị xã và ban quản lý ở 120 xã để thống nhất về mặt tổ chức
triển khai thực hiện. Đến tháng 8, toàn tỉnh đã hoàn thành công tác tập huấn nghiệp
vụ cho 1.861 cán bộ thuộc Ban Chỉ đạo cấp huyện và Ban quản lý các xã; in ấn và
cấp phát 2500 cuốn tài liệu, đồng thời tổ chức tuyên truyền trên hệ thống các
phương tiện thông tin đại chúng về mục đích, nội dung, tư tưởng chỉ đạo, cơ chế
chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng NTM. Chỉ đạo việc khảo sát, đánh
giá thực trạng nông thôn ở tất cả 120 xã theo 19 tiêu chí NTM của Trung ương. Kết
quả như sau:
- Toàn tỉnh có 35 xã khó khăn (chiếm 29,17%) đạt và cơ bản đạt dưới 7 tiêu
chí (trong đó: có 01 xã đạt và cơ bản đạt 3 tiêu chí; 05 xã đạt và cơ bản đạt 4 tiêu
chí; 06 xã đạt và cơ bản đạt 5 tiêu chí;…); có 42 xã (chiếm 35,%) đạt và cơ bản đạt
8-9 tiêu chí; có 43 xã (chiếm 35,83%) đạt và cơ bản đạt từ 10-15 tiêu chí.
18


- 4 tiêu chí cơ bản đạt theo tiêu chí quốc gia là: có trên 80% hộ dân nông
thôn mua điện trực tiếp từ ngành Điện; 100% xã có điểm Bưu điện văn hóa xã và
đường truyền Internet đến trung tâm xã; hình thức tổ chức sản xuất và an ninh, trật
tự xã hội.
- 7 tiêu chí đạt mức từ 50-80% tiêu chí Quốc gia là: có 90% kênh mương
được kiên cố hóa, hệ thống đê điều, công trình thủy lợi được quan tâm đầu tư, đáp

ứng yêu cầu phòng, chống lụt bão và sản xuất, dân sinh; nhà ở dân cư; cơ cấu lao
động; giáo dục, y tế, văn hóa và hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh.
- 8 tiêu chí đạt mức dưới 50% tiêu chí Quốc gia là quy hoạch, giao thông,
trường học, cơ sở vật chất, văn hóa, chợ nông thôn, thu nhập, hộ nghèo và môi
trường.
Từ thực trạng nông thôn hiện nay ở Ninh Bình, có thể thấy rõ để đạt được 19
tiêu chí NTM của Chính phủ cần phải có nguồn lực đầu tư của Nhà nước và đây
được coi là nhân tố đóng vai trò quyết định. Nhưng bên cạnh đó, còn rất nhiều tiêu
chí muốn thực hiện thành công Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông
thôn mới lại do ý thức, sự tự nguyện, tự giác tham gia của nhân dân quyết định.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MỘT SỐ MÔ HÌNH NHÂN DÂN TỰ
QUẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH.
Kết quả khảo sát hỏi trực tiếp xác xuất ý kiến một số quần chúng nhân dân
tại 3 vùng, miền đặc trưng của tỉnh bằng phiếu điều tra xã hội học và kết quả tổng
kết 2 năm thực hiện phong trào thi đua Dân vận khéo cho thấy, trên địa bàn tỉnh
đang có nhiều mô hình tự quản của nhân dân hoạt động hiệu quả. Cụ thể là:
1. Đánh giá chung về các mô hình tự quản của nhân dân.
Từ năm 2008 đến nay, trên địa bàn tỉnh có 1.126 mô hình đang hoạt động do
nhân dân tự tổ chức hay do cán bộ đảng, cán bộ chính quyền, cán bộ MTTQ và các
đoàn thể, các hội quần chúng tổ chức trên tất cả các lĩnh vực: phát triển kinh tế;
đảm bảo an ninh quốc phòng; xây dựng hệ thống chính trị và thực hiện an sinh xã
19


hội, từ thiện nhân đạo. Các mô hình đã đem lại hiệu quả thiết thực, tạo hướng phát
triển tích cực ở cơ sở, đồng thời tạo sự chuyển biến mới về nhận thức, trách nhiệm
của cán bộ, đảng viên và nhân dân, huy động nhiều nguồn lực và lực lượng cùng
tham gia xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, góp phần thực hiện có hiệu quả
các chủ trương của Đảng, nhiệm vụ chính trị của tỉnh, giải quyết tốt các vấn đề bức
xúc, nguyện vọng và kiến nghị chính đáng của nhân dân, tạo sự đồng thuận trong

xã hội.
1.1. Trên lĩnh vực phát triển kinh tế: hoạt động của 462 mô hình, đã khơi
dậy tinh thần lao động cần cù, sáng tạo của nhân dân, làm thay đổi nếp nghĩ, cách
làm, tập quán canh tác của nhân dân, từng bước đưa nông nghiệp phát triển theo
hướng sản xuất hàng hóa, chuyển dịch mạnh cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ với diện
tích lúa có năng suất cao, chất lượng cao được mở rộng, vụ đông dần trở thành vụ
sản xuất chính, góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế, tích cực chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thu hút đầu tư, huy động tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Những mô hình tự
quản do nhân dân tự tổ chức trong sản xuất nông nghiệp đang diễn ra khá phổ biến
như: tổ đổi công giúp việc theo mùa vụ (đổi công cấy, đổi công gặt, đổi công phun
thuốc diệt cỏ…); mô hình hợp tác xã,… Những mô hình do các đoàn thể nhân dân
hướng dẫn nhân dân thực hiện như: mô hình trồng 30 ha khoai lang Nhật Bản của
Hội Nông dân tỉnh; mô hình mượn 5,5 ha ruộng trên đất 2 lúa để làm đỗ tương vụ
đông, cho thu nhập bình quân 35 kg/sào của chị Phạm Thị Thảo, Phó chủ tịch
UBND thị trấn Yên Thịnh (Yên Mô); mô hình “nhân dân tham gia quản lý, bảo vệ
và phát triển kinh tế rừng”; mô hình trình diễn với cây trồng có giá trị kinh tế cao;
mô hình thành lập tổ tiết kiệm cho hội viên nghèo vay với số tiền trên 95 tỉ đồng); ..
Đặc biệt, trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp xuất hiện nhiều tổ, nhóm sản
xuất tự quản. Trong đó các tổ góp vốn, nhóm tự quản thực hiện liên kết một số hộ
gia đình để sản xuất sản phẩm hàng hoá. Khi nhận được đơn đạt hàng sản xuất sản
phẩm, đại diện của tổ, nhóm đứng ra nhận trách nhiệm cung ứng nguyên, vật liệu,
tiêu thụ sản phẩm cho cả tổ, nhóm. Điển hình có các nhóm thêu ren ở Văn Lâm, xã
20


Ninh Hải, huyện Hoa Lư; sản xuất các sản phẩm thủ công mây, tre đan, chiếu cói ở
huyện Kim Sơn, huyện Yên Khánh, huyện Yên Mô…
1.2. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: thông qua hoạt động của 435 mô hình
đã khơi dậy được ý thức tự lực, tự cường, tinh thần tương thân của các tầng lớp
nhân dân, từng bước xã hội hóa và nâng cao chất lượng giáo dục, chăm sóc sức

khỏe nhân dân, làm thay đổi nhận thức của nhân dân về thực hành tiết kiệm, thực
hiện nếp sống văn minh, gìn giữ nét đẹp văn hóa, xóa bỏ dần các hủ tục lạc hậu,
bảo vệ môi trường. Rất nhiều mô hình tự quản tiêu biểu như: mô hình tự quản giữ
gìn vệ sinh môi trường của xã Gia Thịnh, huyện Gia Viễn; mô hình đám cưới văn
minh, tiết kiệm “6 không” của huyện đoàn Yên Mô; mô hình vận động nhân dân
đóng góp 2,357 tỉ đồng xây dựng 21 nhà văn hóa thôn xóm của xã Khánh Cường,
huyện Yên Khánh; mô hình vận động nhân dân làm đường giao thông của phường
Phúc Thành, thành phố Ninh Bình); mô hình Khuyến học khuyến tài, xây dựng xã
hội học tập của Hội khuyến học tỉnh; mô hình văn minh du lịch của khối dân vận
xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư; mô hình huy động cộng đồng dân cư, cán bộ lực
lượng vũ trang, các đoàn thể tham gia hỗ trợ xóa nhà dột nát (đã huy động đóng
góp được gần 3,5 tỉ đồng, hỗ trợ trên 49.900 lượt ngày công giúp cho 2.996 hộ
chính sách, hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số có khó khăn về nhà ở của tỉnh); mô
hình giúp nhau cải tạo vườn tạp; mô hình giúp nhau xây bể chứa nước mưa, giếng
khoan, công trình vệ sinh;…
1.3. Trên lĩnh vực an ninh quốc phòng: 229 mô hình được triển khai với
nhiều cách làm sáng tạo, phong phú như: thành lập các tổ đội làm công tác tuyên
truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân tại các xã vùng sâu, vùng xa; phối hợp xây
dựng các cụm giáp ranh liên kết về giữ gìn an ninh trật tự; tăng cường hoạt động
kết nghĩa giữa đơn vị quân đội, công an với các đoàn thể cơ sở; thực hiện chương
trình quân dân y kết hợp...đã phát huy được trách nhiệm của nhân dân trong việc
tham gia phát hiện, đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh
trật tự, thắt chặt tình đoàn kết quân dân.
21


Tiêu biểu là các mô hình: Diễn đàn “Công an nhân dân lắng nghe ý kiến nhân
dân” của Công an tỉnh; “Vành đai địa phương, đơn vị an toàn” của kho Quân khí
phòng Kỹ thuật, BCH Quân sự tỉnh; “Cụm 3 xã giáp ranh an toàn” của xã Lai
Thành (Kim Sơn); khám bệnh, phát thuốc miễn phí của BCĐ công tác vận động

quần chúng tỉnh và Viện Quân y 5 tại 4 xã Kỳ Phú, Sơn Lai (Nho Quan) và Văn
Hải, Kim Tân (Kim Sơn); mô hình “An ninh nhân dân tự quản” của thành phố Ninh
Bình...
2. Kết quả hoạt động của một số mô hình tự quản tiêu biểu trên một số
lĩnh vực.
2.1. Mô hình Tổ liên gia đoàn kết, thôn Trinh Phú, xã Gia Thịnh, huyện
Gia Viễn:
- Quy mô: 31 hộ dân tham gia.
- Về tổ chức: thành lập Ban quản lý tổ gồm 5 người và chia tổ thành các
nhóm hộ tự quản mỗi nhóm từ 5-6 hộ gia đình.
- Nội dung: Tự quản trong xây dựng một số công trình nhỏ thuộc kết cấu hạ
tầng thôn, xóm; tự quản về thực hiện chính sách dân số, KHHGĐ; tự quản giúp
nhau xoá đói, giảm nghèo; khuyến học, khuyến tài; giữ gìn vệ sinh môi trường, an
ninh trật tự…
- Kết quả hoạt động:
+ Thôn Trinh Phú là địa bàn thuộc xã miền núi đất chật người đông, những
năm trước đây, đường giao thông của xóm 1, thôn Trinh Phú đi lại rất khó khăn,
mưa thì lầy lội, nắng thì bụi bẩn làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, sinh hoạt của người
dân. Trên địa bàn xã lại có một số điểm thăm quan, nghỉ dưỡng nên phát sinh nhiều
vấn đề phức tạp về an ninh trật tự. Từ thực tế đó, đầu năm 2006 Tổ liên gia đoàn
kết được thành lập theo nguyện vọng của đa số các hộ dân trong thôn. Tổ được
thành lập với mục đích để làm đầu mối vận động nhân dân đóng góp sức người, sức
của làm đường giao thông, giúp nhau xoá đói, giảm nghèo, bảo đảm an ninh trật tự
và tương trợ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống.
22


+ Hằng tháng, Tổ thường xuyên tổ chức sinh hoạt định kỳ xem xét, đánh giá
những việc đã làm và chưa làm được, đề ra biện pháp trong thời gian tiếp theo.
Trước mỗi buổi sinh hoạt, Ban quản lý đến từng gia đình để trao đổi, nắm tình hình

tâm tư, nguyện vọng của từng hộ. Đối với những kiến nghị thuộc thẩm quyền của
xã, Tổ sẽ kiến nghị chính quyền xã giải quyết. Những nguyện vọng mà Tổ có thể
giải quyết được thì cùng dân chủ bàn bạc, trao đổi, tìm biện pháp thực hiện.
+ Để tăng tình đoàn kết, nêu cao tinh thần tương thân tương ái, giúp nhau
cùng phát triển; chú trọng chăm lo thế hệ trẻ, động viên khuyến khích các em học
giỏi, hướng các em vào những hoạt động lành mạnh, bổ ích, tránh xa tệ nạn xã hội.
Các thành viên luôn gần gũi động viên, chia sẻ; những chuyện vui, buồn, tổ đều
đứng ra giúp lo liệu, đảm bảo văn minh, tiết kiệm. Khi các gia đình có "vấn đề",
lãnh đạo tổ đến tận nhà nắm bắt, phân giải kịp thời, vì vậy những năm qua không
có gia đình nào trong tổ xảy ra xích mích, thực hiện tốt hương ước của thôn và nội
quy của tổ.
+ Hằng năm Tổ luôn duy trì hoạt động thăm hỏi các gia đình khi có việc
hiếu, ốm đau, động viên, tặng quà con cháu khi xây dựng gia đình, lên đường làm
nghĩa vụ quân sự; tổ chức tổng vệ sinh thôn xóm vào chiều ngày 30 hàng tháng,
tuần tra an ninh ban đêm. Tổ còn vận động tổ viên đóng góp công sức làm đoạn
đường dài gần 400 m và hệ thống đèn chiếu sáng với tổng kinh phí gần 30 triệu
đồng. Kết quả đánh giá, bình xét năm 2009: có 100% số hộ trong tổ đều đạt danh
hiệu gia đình văn hoá, không có hộ sinh con thứ 3. Nhiều năm liền trong Tổ không
có tệ nạn xã hội, mất an ninh trật tự.
+ Để giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, Tổ đã vận động các hộ kinh tế khá hơn
giúp đỡ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi; các thành viên trong tổ đã thực hiện dồn
điền, đổi thửa để phát triển mô hình lúa - cá kết hợp với nuôi lợn, gà và trồng cây
ăn quả. Nhờ đó, đến nay cả 5 hộ đã thoát nghèo vững chắc, từng bước vươn lên
khá.

23


Sau 4 năm hoạt động, mô hình này đã đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

2.2. Mô hình tự quản về an ninh trật tự ở xã Lai Thành, huyện Kim Sơn.
- Tổ chức: thành lập 17 tổ tự quản của 17 thôn, xóm. Mỗi tổ từ 5 đến 7 thành
viên.
- Quy mô: Trong toàn xã
- Kết quả hoạt động:
+ Lai Thành là xã đông dân của huyện Kim Sơn. Xã nằm ở vị trí giáp ranh
với các xã Yên Lâm, huyện Yên Mô và xã Nga Điền, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh
Hóa. Nhân dân trong xã chủ yếu làm nông nghiệp, điều kiện kinh tế, văn hóa còn
nhiều khó khăn. Một bộ phận nhân dân do nhận thức về pháp luật hạn chế nên dễ bị
các phần tử xấu lôi kéo xúi dục làm những việc vi phạm pháp luật, một bộ phận
nhân dân đi làm ăn xa, đào đãi vàng khi trở về địa phương mang theo các tệ nạn ma
tuý, trộm cắp, gây rối trật tự công cộng gây mất an ninh trật tự ở cơ sở.
+ Bên cạnh đó, xã có các đường Quốc lộ 10, Đường DT - 480 chạy qua với
lưu lượng xe ngày một nhiều, hệ thống đường giao thông xuống cấp dẫn đến tình
hình trật tự ATGT diễn biến phức tạp, tai nạn giao thông có chiều hướng gia tăng
làm thiệt hại về tính mạng và tài sản của người dân.
+ Trước tình hình đó năm 2007 cấp ủy, chính quyền xã Lai Thành xác định
muốn phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trước hết phải ổn định tình hình an ninh
trật tự, xóa bỏ mê tín dị đoan, tăng cường khối đoàn kết lương - giáo. Đảng ủy xã
đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về an ninh trật tự, UBND xã xây dựng kế hoạch
thực hiện Nghị quyết bằng nhiều biện pháp cụ thể, sát thực với tình hình địa
phương. Công an xã là lực lượng nòng cốt tham mưu cho UBND xã phát động
phong trào toàn dân tham gia bảo vệ ANTQ, nội dung tập trung vào các phong trào
“Xây dựng thôn xóm bình yên, gia đình hòa thuận”, “Phòng, chống tội phạm ma
túy, đảm bảo trật tự ATGT”.

24


+ Phong trào nhanh chóng được triển khai tới tận các thôn, xóm. 100% hộ

dân đều ký cam kết thực hiện trong gia đình không có người nghiện ma túy, không
vi phạm trật tự ATGT. Ban công an xã tiến hành rà soát, phân loại các đối tượng
trên địa bàn. Các thôn, xóm, chi bộ, ngành, đoàn thể công bố quyết định của UBND
xã về những đối tượng cần quản lý, giáo dục, cảm hóa tại cộng đồng. Từ năm 2007
đến nay các tổ tự quản đã phát hiện và đề xuất với chính quyền xã đưa một số đối
tượng đi cai nghiện tập trung và cai nghiện thành công cho 6 đối tượng tại cộng
đồng; bắt, xử lý đúng qui định của pháp luật 6 đối tượng hình sự.
+ Các vụ đánh nhau, trộm cắp vặt, tranh chấp đất đai được các xã tập trung
phối hợp giải quyết dứt điểm, nhân dân yên tâm phát triển kinh tế. Năm 2009, tỷ lệ
hộ nghèo của xã giảm xuống còn 6,84%, 17/17 khu dân cư đạt danh hiệu khu dân
cư tiên tiến, 76% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá. Nhiều năm liền xã
không có đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp, các sự việc tranh chấp, tệ nạn xã hội
đã giảm hẳn, không phát sinh những điểm phức tạp ở cơ sở.
2.3. Mô hình tự quản về văn minh Du lịch ở Khu di tích lịch sử Cố Đô
Hoa Lư.
- Tổ chức: MTTQ và các đoàn thể xã Trường Yên chỉ đạo xây dựng.
- Nguyên tắc hoạt động: Tự giác chấp hành nội quy, quy định tại khu di
tích.
- Quy mô: Trong Khu di tích.
- Kết quả hoạt động:
+ Trong những năm gần đây tại khu di tích lịch sử văn hoá Cố đô Hoa Lư đội
ngũ những người tham gia làm dịch vụ tại khu di tích như: bán hàng, xe ôm, chụp
ảnh có những hành vi, cử chỉ, ứng xử làm phiền lòng du khách như: hiện tượng
chèo kéo, đeo bám du khách; thái độ thiếu lịch sự khi khách không mua hàng; một
số khu buôn bán, kinh doanh du lịch được xây cất tạm bợ; rác thải được xả ngay
trên sân, lối đi trong khu du tích… đã tác động không tốt đến hình ảnh của du lịch
Ninh Bình trong mắt du khách.
25



×