Tải bản đầy đủ (.doc) (229 trang)

Quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 229 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy
định.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phạm Thị Hồng Hạnh


MỤC LỤC
Trang

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, ĐỒ THỊ
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.
Những công trình nghiên cứu liên quan đến giáo dục đạo
đức và giáo dục đạo đức nghề nghiệp
1.2.
Những công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý giáo
dục đạo đức nghề nghiệp
1.3.
Đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã
công bố và những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết
Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC


NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG
NGHỆ THUẬT
2.1.
Đạo đức và đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực hoạt động
nghệ thuật
2.2.
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật
2.3.
Quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các
trường nghệ thuật
Chương 3 CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG
NGHỆ THUẬT
3.1.
Khái quát đặc điểm giáo dục, đào tạo ở các trường nghệ thuật
3.2.
Tổ chức nghiên cứu thực trạng
3.3.
Thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các
trường nghệ thuật
3.4.
Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên các trường nghệ thuật hiện nay
Chương 4 BIỆN PHÁP VÀ KIỂM NGHIỆM CÁC BIỆN PHÁP QUẢN
LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH
VIÊN CÁC TRƯỜNG NGHỆ THUẬT HIỆN NAY
4.1.
Hệ thống biện pháp quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên các trường nghệ thuật hiện nay
4.2.

Khảo nghiệm, thử nghiệm tính cần thiết, khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5
13
13
24
27
32
32
41
46
72
72
77
79
91
116
116
144
164
167
168
175



DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, ĐỒ THỊ
TT

Tên
bảng,
biểu

1

3.1.

2

3.2.

3

3.3.

4

3.4.

5

3.5.

6

3.6.


7

4.1.

8

4.2.

9

4.3.

10

4.4.

11

12
13

4.4a

4.4b
4.4c

Nội dung
Bảng tổng hợp các ý kiến đánh giá tầm quan trọng của đạo đức
nghề nghiệp

Bảng đánh giá tầm quan trọng của cán bộ và giảng viên về
quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
Bảng đánh giá của cán bộ quản lý và giảng viên về quản lý
quá trình tự tu dưỡng, tự rèn luyện đạo đức nghề nghiệp của
sinh viên các trường nghệ thuật
Bảng tổng hợp ý kiến đánh giá nội dung phối hợp hoạt
động của các chủ thể trong quá trình giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên
Bảng đánh giá của cán bộ, giảng viên về kiểm tra, đánh
giá kết quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
Bảng tổng hợp kết quả thực trạng đánh giá mức độ các
yếu tố ảnh hưởng
Bảng điểm tổng hợp ý kiến về tính cần thiết của các
biện pháp
Bảng điểm tổng hợp ý kiến về tính khả thi của các biện pháp
Bảng điểm tổng hợp ý kiến về tương quan giữa tính cần
thiết và khả thi của các biện pháp
Bảng tiêu chí và những chỉ số cụ thể đánh giá tác động
trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung
giáo dục đạo đức nghề nghiệp và tổ chức thực hiện kế
hoạch, chương trình, nội dung giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật
Bảng độ tin cậy của hệ thống bảng hỏi đo việc xây dựng kế
hoạch, chương trình, nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp
và tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình, nội dung giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật
Bảng tổng hợp kết quả xây dựng kế hoạch, chương trình,
nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các
trường nghệ thuật trước thử nghiệm
Bảng tổng hợp kết quả tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình,

nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường

Trang

79
91

98

100
106
110
145
146
147

150

151

154
156


14

15

16


17

4.4d

4.4e

4.4g

3.1

18

3.2

19

3.3

20

4.1

21

4.2

22

23


24

4.3

4.4

4.5

nghệ thuật trước thử nghiệm
Bảng tổng hợp kết quả xây dựng kế hoạch, chương trình, nội
dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường
nghệ thuật sau thử nghiệm
Bảng tổng hợp kết quả tổ chức thực hiện kế hoạch, chương
trình, nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
các trường nghệ thuật sau thử nghiệm
Bảng tổng hợp kết quả xây dựng kế hoạch, chương trình,
nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp phù hợp với sinh
viên các trường nghệ thuật sau thử nghiệm
Biểu đồ đánh giá của các lực lượng sư phạm về mức độ
cần thiết phải giáo dục chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên
Biểu đồ tổng hợp kết quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên các trường nghệ thuật
Biểu đồ mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới quản lý giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
Biểu đồ kết quả khảo nghiệm về tương quan giữa tính cần
thiết và tính khả thi của các biện pháp
Biểu đồ so sánh kết quả xây dựng kế hoạch, chương
trình, nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên các trường nghệ thuật trước thử nghiệm

Biểu đồ so sánh kết quả tổ chức thực hiện kế hoạch,
chương trình, nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên các trường nghệ thuật trước thử nghiệm
Biểu đồ so sánh kết quả xây dựng kế hoạch, chương trình,
nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp phù hợp với sinh
viên các trường nghệ thuật sau thử nghiệm
Biểu đồ mức độ phát triển xây dựng kế hoạch, chương trình,
nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp phù hợp với sinh
viên các trường nghệ thuật sau thử nghiệm

158

158

161

85
90
111
148

155

156

159

161



5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” [54, tr.310]. Sinh thời,
Người rất quan tâm đến giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ
trẻ nước nhà. Người căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách
mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã
hội vừa “hồng” vừa “chuyên” [61, tr.510]. Theo đó, Người còn chỉ rõ: “Dạy
cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là
cái gốc quan trọng. Nếu thiếu đạo đức, con người sẽ không phải là con người
bình thường và cuộc sống xã hội sẽ không phải là cuộc sống xã hội bình
thường, ổn định” [51, tr.57]. Trải qua các thời kỳ cách mạng nước ta, Đảng ta
luôn quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giáo dục,
bồi dưỡng thế hệ trẻ, đây là vấn đề mang ý nghĩa chiến lược quan trọng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định, giáo
dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược, là yêu cầu thường xuyên của sự nghiệp giáo dục, đào
tạo. Hơn nữa trong bối cảnh đất nước ta đã và đang hội nhập quốc tế toàn
diện, sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa xã hội
hiện nay, dẫn đến sự giao lưu, hợp tác giữa các dòng văn hóa, các thể chế
chính trị khác nhau, làm nảy sinh những xung đột về đạo đức, lối sống của
sinh viên nên việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền
thống của dân tộc là vấn đề cấp thiết. Do đó, Đảng ta chỉ rõ phương hướng,
nhiệm vụ của giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ là: “Đổi mới nội dung, phương thức
giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng, truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng cách
mạng, lòng yêu nước, xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng
và nghiệm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ [17, tr.162].
Các trường nghệ thuật là nơi giáo dục, đào tạo các nghệ sĩ hoạt động
trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Do tính đặc thù của hoạt động văn hóa

nghệ thuật, tính nghề nghiệp của văn nghệ sĩ, đòi hỏi trong quá trình đào tạo


6
chuyên môn cần có sự quan tâm giáo dục đạo đức nghề nghiệp một cách đúng
mức và quản lý chặt chẽ quá trình tổ chức giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên nghệ thuật. Để trở thành một nghệ sĩ đòi hỏi mỗi sinh viên đang học
tập, rèn luyện ở các trường nghệ thuật phải thường xuyên tiếp thu nội dung
chuyên ngành, tích cực luyện tập, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ nói chung, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức nói riêng để
hướng tới phát triển, hoàn thiện nhân cách theo mục tiêu, yêu cầu chuyên
ngành đào tạo. Hay nói cách khác, giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên các trường nghệ thuật là một nhiệm vụ không thể thiếu, là đòi hỏi tất yếu
của quá trình đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.
Thực tiễn cho thấy, trong quá trình xây dựng, phát triển của các trường
nghệ thuật đã đào tạo nhiều thế hệ sinh viên tốt nghiệp ra trường có chất
lượng tốt. Họ đã trở thành những nghệ sĩ có tên tuổi, được công chúng mến
mộ, có nhiều cống hiến cho nền nghệ thuật nước nhà. Họ thực sự không chỉ là
những người giỏi về chuyên môn mà còn là những cán bộ, diễn viên, nhân
viên văn hóa nghệ thuật có đạo đức cách mạng trong sáng, yêu ngành, gắn bó
với nghề, có phong cách ứng xử văn hoá thể hiện cả trong lao động nghệ thuật
cũng như trong cuộc sống thường nhật.
Tuy nhiên, giáo dục đạo đức, quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên cũng còn đang tồn tại những hạn chế, bất cập. Biểu hiện cụ
thể ở việc nhận thức của một bộ phận cán bộ, giảng viên và sinh viên có
nhận thức chưa đúng về giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên; nội
dung, chương trình; phương pháp hình thức giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên còn nhiều hạn chế bất cập. Kết quả khảo sát thực tiễn đã cho
thấy: Chương trình, nội dung đào tạo của các nhà trường theo hướng tăng
cường giáo dục định hướng giá trị đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên chưa

được thể hiện rõ nét; phương pháp giáo dục còn chung chung, thiếu tính cụ
thể với từng đối tượng sinh viên. Xu hướng nghề nghiệp của một số sinh
viên chưa rõ ràng, thiếu tính ổn định, chưa vững chắc. Tình yêu nghề


7
nghiệp của một bộ phận sinh viên chưa được định hình rõ nét. Biểu hiện lối
sống buông thả, sống gấp vẫn còn tồi tại ở một bộ phận sinh viên. Công tác
quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên chưa gắn với đặc điểm
loại hình đào tạo, chưa có kế hoạch tổng thể quản lý giáo dục đạo đức nghề
nghiệp; vấn đề chỉ đạo, đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo
dục cho sinh viên, tổ chức kiểm tra đánh giá giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên đôi lúc chưa thực hiện nghiêm túc. Vì vậy, tình hình thực tiễn
đó đang đặt ra đối với quá trình đào tạo, các trường nghệ thuật cần phải đổi
mới công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp, tăng cường hiệu quả quản lý
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật, đây là
vấn đề có tính thực tiễn tính cấp thiết nhằm góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật hiện nay.
Về phương diện lý luận, vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp, quản lý
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên nói chung đã được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm, luận giải ở nhiều góc độ khác nhau, song vẫn còn thiếu
những công trình nghiên cứu một cách hệ thống, có tính toàn diện về quản lý
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Quản lý giáo dục đạo
đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật hiện nay” để làm đề tài
luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng, đề xuất các biện pháp
quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật nhằm

góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường nghệ
thuật, hiện thực hóa mục tiêu giáo dục nhân cách toàn diện cho người học, đáp ứng
yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về giáo dục đạo đức nghề nghiệp và quản lý giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật.


8
- Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng đạo đức nghề nghiệp, giáo
dục đạo đức nghề nghiệp và quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên các trường nghệ thuật.
- Đề xuất và thử nghiệm các biện pháp quản lý giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật hiện nay.
3. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giả
thuyết khoa học
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các trường nghệ thuật.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ
thuật hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu, đề tài đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận và thực
tiễn quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ
thuật; đề xuất các biện pháp quản lý và kiểm nghiệm tính khả thi của các biện pháp.
Về địa bàn nghiên cứu, tập trung nghiên cứu vấn đề quản lý giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên ở các trường Học viện Âm nhạc quốc gia
Việt Nam, Đại học Sân khấu Điện ảnh, Đại học Văn hóa Nghệ thuật Trung
ương, Cao đẳng múa Việt Nam, Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội.
Về khách thể khảo sát, tác giả đã tiến hành khảo sát các đối tượng là

cán bộ quản lý (Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng; Trưởng, phó phòng; trưởng,
phó khoa, bộ môn,...); cán bộ, giảng viên và sinh viên của một số trường nghệ
thuật trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Các số liệu được sử dụng cho quá trình nghiên cứu được khảo sát, điều
tra, tổng hợp từ năm 2013 đến nay.
* Giả thuyết khoa học


9
Chất lượng, hiệu quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó những tác động quản lý giữ vai trò then chốt
trong tổ chức các hoạt động giáo dục ở nhà trường nghệ thuật. Nếu có quan
điểm tiếp cận tổng hợp trong quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên các trường nghệ thuật, từ khâu xây dựng kế hoạch, chương trình, nội
dung đến tổ chức đa dạng các phương pháp, hình thức, kết hợp các con đường
giáo dục, đồng thời chỉ đạo phát huy trách nhiệm tự tu dưỡng, tự rèn luyện
đạo đức nghề nghiệp của sinh viên các trường nghệ thuật thì hiệu quả quản lý
sẽ được phát huy, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên và thực hiện mục tiêu giáo dục nhân cách toàn diện cho
đội ngũ nghệ sĩ tương lai.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, quan điểm,
đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục, đào tạo.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn tiếp cận vấn đề nghiên cứu dựa trên
quan điểm hệ thống - cấu trúc: quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
các trường nghệ thuật gồm tổng thể các thành tố, các quá trình có quan hệ biện
chứng với nhau từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, chủ thể, khách thể quản lý, kết
quả quản lý. Do đó, tiếp cận hệ thống cho phép xem xét toàn diện mối quan hệ các

thành tố cấu trúc quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên.
Quan điểm tiếp cận lịch sử - lôgic: cho phép nghiên cứu kế thừa các kết quả,
thành tựu đã đạt được khi tổng quan các công trình có liên quan và trong nghiên
cứu cơ sở lý luận quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên.
Quan điểm tiếp cận thực tiễn: xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn về quản
lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật. Thấy được sự
thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên ở các trường nghệ thuật.


10
Quan điểm tiếp cận chức năng quản lý giáo dục như: kế hoạch hóa, tổ
chức, chỉ đạo và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên nghệ thuật.
Quan điểm tiếp cận tổng hợp như: kết hợp mục tiêu với nội dung quản lý
giáo dục; tiếp cận phức hợp các nhân tố của quá trình giáo dục đạo đức nghề
nghiệp để nghiên cứu các nội dung lý luận và thực tiễn của đề tài luận án.
* Phương pháp nghiên cứu
Những phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgic để tổng
quan, chọn lọc các quan điểm, lý luận, quan niệm khoa học có liên quan đến
vấn đề nghiên cứu của đề tài. Thông qua thu thập thông tin, phân tích, tổng
hợp; hệ thống hoá, khái quát hoá tài liệu để tìm hiểu, làm rõ cơ sở lý luận về
quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật.
Sử dụng phương pháp so sánh các kết quả nghiên cứu của những công
trình sách, tạp chí, luận án trong và ngoài nước liên quan đến đề tài; tổng hợp,
khái quát hóa lý luận để xây dựng hệ thống khái niệm.
Những phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát
Sử dụng phương pháp quan sát: tập trung quan sát cách thức tổ chức

giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên nghệ thuật, ở một số trường như: Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam,
Đại học Sân khấu Điện ảnh, Đại học Văn hóa Nghệ thuật Trung ương, Cao
đẳng Múa Việt Nam, Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội để nắm bắt tình hình và kết
quả đạt được của việc quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các
trường nghệ thuật. Trên cơ sở đó có thêm tư liệu phục vụ việc phân tích, tổng
hợp, nhận định đối với vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp phỏng vấn
Tọa đàm, phỏng vấn với giảng viên, cán bộ quản lý, sinh viên ở một số
trường nghệ thuật trên địa bàn thành phố Hà Nội có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu của đề tài.


11
Phương pháp điều tra
Tiến hành trưng cầu ý kiến của 180 giảng viên, 180 cán bộ quản lý giáo dục
và 300 sinh viên bằng phiếu điều tra ở Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam, Đại
học Sân khấu Điện ảnh, Đại học Văn hóa Nghệ thuật Trung ương, Cao đẳng Múa
Việt Nam, Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội trên địa bàn thành phố Hà Nội, để tìm hiểu
và khẳng định tính khách quan của một số nhận định cần thiết trong luận án.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Nghiên cứu báo cáo tổng kết năm học của một số trường về đánh giá
chất lượng giáo dục, quản lý giáo dục nói chung, quản lý giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên nghệ thuật nói riêng; nghiên cứu sổ theo dõi tình
hình rèn luyện của sinh viên ở một số lớp, một số khóa của các trường nghệ
thuật; kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức của cán bộ nhà trường, cán bộ phụ
trách chuyên ngành văn hóa nghệ thuật.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về quản lý giáo dục đạo đức ở các
trường nghệ thuật. Phân tích một số kinh nghiệm tiên tiến trong quản lý giáo

dục đạo đức nghề nghiệp ở một số trường nghệ thuật.
Phương pháp chuyên gia
Xin ý kiến chuyên gia: lấy ý kiến của một số nhà sư phạm, một số nhà
khoa học giáo dục, quản lý giáo dục, đặc biệt là các chuyên gia phụ trách về
nghệ thuật của các trường và đoàn nghệ thuật biểu diễn. Trên cơ sở đó, tác giả
hoàn thiện những nội dung nghiên cứu của luận án.
Phương pháp khảo nghiệm và thử nghiệm
Tổ chức khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp đã đề
xuất. Từ đó tiến hành thử nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng tính đúng đắn
và khả thi của các biện pháp quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên các trường nghệ thuật trên địa bàn thành phố Hà Nội. Việc khảo nghiệm,
thử nghiệm được tiến hành ở 05 trường (Học viện Âm nhạc quốc gia Việt
Nam, Đại học Sân khấu Điện ảnh, Đại học Văn hóa Nghệ thuật Trung ương,
Cao đẳng Múa Việt Nam, Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội).
Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê


12
Sử dụng phương pháp toán học để tính toán, xử lý các số liệu nhằm
phân tích, tổng hợp kết quả nghiên cứu, điều tra để bảo đảm tính khách quan
của kết quả nghiên cứu.
5. Những đóng góp mới của luận án
Đã hệ thống hóa, bổ sung và hoàn thiện một số vấn đề lý luận về đạo
đức và đạo đức nghề nghiệp; giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên;
quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật.
Đề xuất các biện pháp có tính khả thi giúp cho chủ thể quản lý các cấp
có thể vận dụng hiệu quả trong quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên các trường nghệ thuật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động quản lý giáo dục, đào tạo ở các trường nghệ thuật hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án

* Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ thêm và hệ thống
hóa những vấn đề lý luận, tổng kết kinh nghiệm trong nước và thế giới về
quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật và
vận dụng quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường
nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp những luận cứ thực tiễn
cho việc đề xuất biện pháp quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
các trường nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội và làm cơ sở để nghiên cứu những vấn
đề liên quan đến quản lý giáo dục đạo đức ở các trường nghệ thuật trong tiến trình
thực hiện đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo hiện nay.
Luận án có thể là tài liệu cho các chủ thể quản lý ở các trường nghệ
thuật, giảng viên trực tiếp giảng dạy các môn trong đào tạo chuyên ngành
nghệ thuật tham khảo để áp dụng vào quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên bảo đảm sự phù hợp với phương hướng phát triển nhà trường,
góp phần đào tạo đội ngũ những người làm công tác văn hóa nghệ thuật có
chất lượng cao trong tương lai cho đất nước.
7. Kết cấu của luận án


13
Luận án có kết cấu gồm các phần: mở đầu, 4 chương (12 tiết), kết luận
và kiến nghị, danh mục các công trình nghiên cứu đã được công bố của tác
giả có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến giáo dục đạo đức
và giáo dục đạo đức nghề nghiệp

* Trên thế giới, lịch sử nhân loại đã chứng minh, đạo đức là nhu cầu
khách quan trong đời sống xã hội, luôn đóng vai trò tích cực, thúc đẩy sự phát
triển của xã hội. Do đó, đạo đức được nghiên cứu và tiếp cận ở những khía cạnh
khác nhau, tùy theo mục tiêu nghiên cứu. Ngay từ thời phong kiến, vấn đề đạo
đức, giáo dục đạo đức đã được các nhà hiền triết quan tâm nghiên cứu ở những
phương diện khác nhau.
Ở Trung Quốc thời cổ đại, Khổng Tử là nhà triết học, nhà giáo dục nổi
tiếng, Ông cho rằng, giáo dục đạo đức là một quá trình khó khăn, lâu dài.
Giáo dục phải sát đối tượng. Đánh giá con người phải theo phẩm chất đạo
đức, nhân cách, chứ không phải từ thành phần xuất thân và số tài sản mà họ
có. Đây là những kiến giải khoa học và là tư tưởng giáo dục tiến bộ đến nay
vẫn còn nguyên giá trị [71]. Trong khi đó, Hàn Phi Tử quan niệm, bản chất
con người là vì tư lợi, cho nên, phải dùng hình phạt, ông đề cao tư tưởng
pháp trị, cổ vũ cho sự độc tài của vua. Hàn Phi Tử luôn quan tâm đến quyền
lực, đến khoảng cách địa vị giữa người cai trị và người bị cai trị; đề cao
chính sách dùng người, coi trọng tài năng và xem đây là nhân tố quyết định
sự thành bại của quản lý. Tài năng của người quản lý thể hiện ở việc biết
cách dùng sức và dùng trí của người khác. Trong lý thuyết cai trị, Hàn Phi
Tử đề cập và chú ý ba yếu tố là: Pháp - Thế - Thuật, cai trị phải biến đổi phù
hợp với thời thế, quản lý cần cả đức trị và pháp trị [71]. Tuy nhiên, do những
hạn chế lịch sử, giai cấp lúc bấy giờ nên những tư tưởng giáo dục nói chung,


14
giáo dục đạo đức, quản lý giáo dục của các ông chứa đựng những yếu tố siêu
hình, mang màu sắc tôn giáo, duy tâm thần bí, độc đoán, chuyên quyền, mất
dân chủ, tự mâu thuẫn với chính mình.
Ở phương tây, J.A.Kômenxky, Ông là nhà giáo dục nổi tiếng thế giới người
Cộng hoà Séc, trong tác phẩm “Thiên đường của những trái tim” [42],
J.A.Kômenxky cho rằng giáo dục trẻ em tốt nhất cần cải tạo môi trường giáo dục và

phải được giáo dục bằng tấm gương của mọi người xung quanh nhằm đạt được
những ấn tượng ban đầu tốt đẹp lên trẻ em. Theo J.A.Kômenxky thì nhà trường phải
thực sự là “xưởng rèn nhân cách”, quản lý quá trình giáo dục phải tuân theo quy luật
phát triển tự nhiên “như sinh hoạt của cỏ, cây, hoa, lá, của cuộc sống xem có phù hợp
không, nếu không phù hợp sẽ trái quy luật và dẫn tới đổ vỡ trong giáo dục”.
J.J. Rútxô, nhà triết học đồng thời là nhà giáo dục người Pháp đã chủ
trương đưa trẻ em về nông thôn để giáo dục, cải tạo tính nết của các em. Ông
quan niệm, nông thôn không có những tệ nạn xấu, đó là nơi có môi trường
giáo dục đạo đức tốt hơn thành thị. Mặc dù quan niệm của J.J. Rútxô có sai
lầm về phương pháp luận nhưng yếu tố hợp lý của Ông là ở chỗ coi trọng vai
trò của môi trường xã hội trong giáo dục đạo đức [71].
Quan điểm của J.A. Kômenxky và J.J. Rútxô trên đây đã chỉ cho chúng
ta rằng, không thể giáo dục đạo đức thành công, nếu không theo quy luật và
kết hợp giữa nhà trường với xã hội và các lực lượng giáo dục. Tuy nhiên, do
hạn chế của lịch sử đã làm cho những tư tưởng giáo dục, quản lý giáo dục nói
chung, giáo dục đạo đức nói riêng của các ông không được quan tâm và sử
dụng đúng mức. Mặc dù vậy, những tư tưởng đó của các ông cũng gợi nên
những vấn đề mà các nhà giáo dục cần phải chú ý trong thực hiện nhiệm vụ,
nội dung giáo dục phát triển nhân cách cho con người.
Trong dòng chảy của lịch sử tư tưởng nhân loại, khi nghiên cứu về sự
phát triển của xã hội loài người, trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá lại toàn bộ những tư


15
tưởng đạo đức đã có từ xưa đến thời C.Mác, tổng kết và đưa ra những luận
điểm khoa học của mình về đạo đức. C.Mác, Ph.Ăngghen đã chỉ ra sự tất yếu
xuất hiện của một kiểu đạo đức mới trong lịch sử, đó là đạo đức cách mạng
của giai cấp công nhân. Theo Ph.Ăngghen, đây là nền đạo đức “đang tiêu biểu
cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của tương lai, tức là đạo đức vô

sản, là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự
tồn tại lâu dài” [48, tr.136]. Luận điểm này của Ph.Ăngghen đã đặt cơ sở
phương pháp luận cho việc nghiên cứu, tiến hành hoạt động giáo dục quản lý
quá trình giáo dục đạo đức, phẩm chất nhân cách nhằm đảm bảo cho con
nguời phát triển một cách toàn diện.
Trong các tác phẩm: “Lời nói đầu phê phán triết học pháp luật của
Hêghen”, “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”,
“Chống Đuyrinh” [47]. Đứng trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định đạo đức là sản phẩm của điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Ý thức đạo đức là sản phẩm của những
hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, nó phản ánh thực tiễn đạo đức của xã hội,
“xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là
sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới nay xã
hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn
luôn là đạo đức của giai cấp” [47, tr.137]. Trong đó, nhân tố quy định đạo đức
là các quan hệ kinh tế mà lợi ích là cái chi phối trực tiếp, là cơ sở khách quan
của đạo đức. Các ông đã kiên quyết gạt bỏ những học thuyết đạo đức có tính
chất duy tâm, tôn giáo, phi lịch sử. Các khái niệm, phạm trù đạo đức được sử
dụng trong tác phẩm như: thiện, ác, lương tâm, danh dự, vị tha, vị kỷ. đã được
C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa, lọc bỏ những nội dung có tính chất duy tâm,
tôn giáo., đem lại cho chúng những nội dung mới, đặt nền tảng cho một nền
đạo đức khoa học - đạo đức cộng sản.
V.I.Lênin vừa là nhà lý luận cách mạng, vừa là nhà tổ chức, quản lý
kinh tế, quản lý xã hội - xã hội chủ nghĩa hiện thực. V.I.Lênin tiếp tục phát
triển quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về đạo đức Cộng sản và trình bày


16
một cách hệ thống những nguyên tắc của nền đạo đức mới. V.I.Lênin khẳng
định giá trị, tiêu chuẩn của đạo đức Cộng sản là phục vụ cho tiến bộ xã hội,

vì tự do, hạnh phúc của con người và đặc biệt nhấn mạnh tính giai cấp, tính
chiến đấu, vai trò to lớn của đạo đức Cộng sản: “Đối với chúng ta, đạo đức
phải phục tùng lợi ích của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản… Đạo đức đó
là những gì góp phần phá huỷ xã hội của giai cấp bóc lột và đoàn kết tất cả
những người lao động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội
mới của những người cộng sản” [45, tr.369]. Đây là những luận điểm, cơ sở
khoa học để xây dựng, phát triển đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ và quản
lý hoạt động giáo dục đạo đức cách mạng của nền giáo dục mới, nền giáo
dục xã hội chủ nghĩa.
A.X.Makarenco trong tác phẩm “Bài ca sư phạm” và các tác phẩm của
mình, A.X.Makarenco đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò của giáo dục đạo đức,
của các biện pháp giáo dục đạo đức đúng đắn. Ông nhấn mạnh sự cần thiết
của một nền giáo dục mới, đề cao uy quyền và dựa vào sự nêu gương của
người giảng viên. Nguyên tắc giáo dục tập thể và thông qua tập thể của ông
được nhiều nhà sư phạm trên toàn thế giới trong nhiều thập kỉ qua chú ý tới.
V.A.Xukhomlinxki với kinh nghiệm của một nhà giáo, một hiệu
trưởng đã viết tác phẩm lớn “Trái tim tôi hiến dâng cho trẻ”. Mặc dù trong
tác phẩm này, ông tổng kết tư tưởng sư phạm của mình đối với bậc tiểu học
nhưng trong đó nổi bật tư tưởng đối với khoa học sư phạm nói chung là giáo
dục, dạy học trước hết là sự giao tiếp tâm hồn giữa thày giáo và học sinh, vì
“Dạy trẻ, phải hiểu trẻ, thương trẻ, tôn trọng trẻ, phải trở thành trẻ em ở mức
độ nào đó”. V.A.Xukhomlinxki còn có tác phẩm “Tuổi ra đời của những
người công dân”, “Những lá thư gửi con trai”, giành cho giáo dục thiếu niên
và thanh niên học sinh trung học. Đặc biệt, trong tác phẩm “Trường trung
học Pav luts”, Ông đã tổng kết 26 năm làm hiệu trưởng của mình. Đặc biệt,
trong tác phẩm “Những cơ sở tâm lý học giáo dục”, Ông nêu rõ là phải lựa


17
chọn và thực hiện những biện pháp giáo dục phù hợp nhất với những đặc

điểm của cá nhân học sinh và với trạng thái của học sinh. Khi đó, những
biện pháp này sẽ cho hiệu quả tối đa.
Cuốn sách “Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường”
[85]. Đã tập trung giới thiệu một cách khái quát những quan điểm của các nhà
khoa học Trung Quốc về mối quan hệ và ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường
đến luân lý đạo đức, sự biến đổi hệ thống giá trị, quy tắc luân lý đạo đức trong
nền kinh tế thị trường và vấn đề xây dựng đạo đức của dân tộc Trung Hoa
trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa hiện nay.
La Quốc Kiệt (2003), (chủ biên) cuốn sách: “Tu dưỡng đạo đức, tư tưởng”, do
nhà xuất bản chính trị quốc gia ấn hành [41]. Đây là cuốn sách được dịch từ bộ giáo
trình cùng tên, được dùng chính thức, thống nhất cho mọi đối tượng sinh viên trong
các trường đại học của Trung Quốc hiện nay. Cuốn sách trình bày một cách hệ thống
những yêu cầu, chuẩn mực đạo đức và phương pháp tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, tư
tưởng của sinh viên trong thời đại mới. Như vậy, những tư tưởng của các nhà chính
trị, công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức,
quản lý giáo dục đạo đức cho con người đã thực sự gợi mở cho tác giả những vấn đề
lý luận sâu sắc, những kinh nghiệm thực tiễn, làm cơ sở để nghiên cứu, luận giải nội
dung về quan niệm đạo đức, giáo dục và quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên trong giai đoạn mới của cách mạng.
* Ở Việt Nam, vấn đề đạo đức, giáo dục và quản lý giáo dục đạo đức
cho con người, luôn được các nhà quản lý xã hội, các nhà sư phạm, nhà khoa
học trong nước quan tâm nghiên cứu.
Chu Văn An là người thầy giáo nổi tiếng của nền giáo dục Việt Nam.
Chu Văn An luôn đề cao tinh thần quản lý xã hội, đấu tranh chống các tệ nạn
xã hội (thất trảm sớ); lịch sử giáo dục Việt Nam đã ghi nhận Chu Văn An là
nhà sư phạm lỗi lạc, nhà quản lý đứng đầu Quốc Tử Giám dưới triều Trần.
Trong quá trình giáo dục, Chu Văn An không chỉ nêu gương sáng cho kẻ sĩ
học tập mà còn kêu gọi, động viên và khuyên bảo học trò về ý thức và sự trau



18
dồi đạo đức, với tự quản lý mình trong quá trình giáo dục nhân cách, tư tưởng
quản lý giáo dục nói chung, quản lý giáo dục đạo đức, phẩm chất nhân cách
nói riêng, luôn được Chu Văn An đề cập một cách toàn diện và sâu sắc, những
tư tưởng giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng của Chu Văn An cho
đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị về lý luận và thực tiễn để các thế hệ giáo
dục và được giáo dục của nước ta nghiên cứu, vận dụng cho phù hợp với thực
tiễn luôn vận động và phát triển không ngừng [28].
Lê Quý Đôn, đã nêu ý kiến tiến bộ về quản lý quá trình giáo dục nhân
cách và quản lý xã hội được thể hiện ở các mệnh đề “Tứ tôn” và “Ngũ quy”;
trong đó, Lê Quý Đôn hướng học trò với cách quản lý của riêng mình thông
qua đọc sách, nghị luận để học tập trở thành người hiền tài phục vụ cho đất
nước. Lê Quý Đôn luôn đề cao hiền tài, đề cao giáo dục và quản lý giáo dục
trong xã hội. Đây là những kiến giải quan trọng giúp cho các nhà quản lý xã
hội nói chung, quản lý giáo dục và quản lý quá trình giáo dục con người nói
riêng nghiên cứu để vận dụng cho phù hợp với tình hình [28]. Tuy nhiên, do
hạn chế về lịch sử và giai cấp, hạn chế của nhận thức thời phong kiến nên
những quan điểm, tư tưởng quản lý xã hội, tư tưởng giáo dục, quản lý giáo
dục của các ông có mặt còn thể hiện rõ sự phân tầng xã hội, tính đẳng cấp,
thiếu tính chất dân chủ, thiếu cơ sở khoa học trong cách thức tác động giáo
dục con người và quản lý quá trình giáo dục.
Cùng với tư tưởng của các nhà hoạt động chính trị, các nghị quyết của
Đảng, của ngành giáo dục bàn về giáo dục, quản lý giáo dục nói chung, quản
lý giáo dục đạo đức nói riêng, còn nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Hồ Chí Minh vừa là nhà giáo dục, vừa là nhà tổ chức thực tiễn về quản
lý giáo dục và coi giáo dục là một nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng. Bàn về
đạo đức và giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh luôn đề cao và nhấn mạnh đạo
đức trong cấu trúc nhân cách của mỗi người. Người coi trọng cả đức và tài,
trong đó đức phải là gốc, đức phải có trước tài. Người nói: “Cũng như sông
thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có



19
gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [62, tr.252-253].
Cùng với việc đặt ra yêu cầu về đạo đức của người cách mạng, Hồ Chí Minh
cũng đặc biệt coi trọng việc giáo dục và quản lý giáo dục đạo đức cho mỗi
người. Trong quá trình tổ chức giáo dục, Người rất coi trọng việc thực hiện kế
hoạch hóa hoạt động. Người căn dặn, khi lập kế hoạch giảng dạy, học tập đều
cần phải tuân theo nhu cầu của dân tộc, của Nhà nước; chớ đặt những chương
trình kế hoạch mênh mông, đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được.
Người nhấn mạnh, một chương trình nhỏ mà thực hiện được hẳn hoi, hơn là
một trăm chương trình to tát mà làm không được. Như vậy, theo Hồ Chí
Minh, tính thiết thực và công tác quản lý phải xuyên suốt trong tất cả các
khâu, các bước của quá trình giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng.
Đây thực sự là những chỉ dẫn quan trọng, giúp tác giả có thể nghiên cứu, vận
dụng trong xây dựng và thực hiện các biện pháp quản lý giáo dục đọa đức cho
sinh viên các trường nghệ thuật nhằm bảo đảm có chất lượng và phù hợp với
mỗi trường nghệ thuật hiện nay.
Tác giả Vũ Khiêu (chủ biên), cuốn sách “Đạo đức mới” [33]. Trong tác
phẩm này, tác giả đã trình bày cơ sở khoa học của đạo đức học, chỉ ra nội dung
cơ bản của đạo đức mới và phương hướng xây dựng, rèn luyện đạo đức trong
xã hội ta lúc bấy giờ, cho đến hôm nay những luận điểm giáo dục đạo đức của
ông vẫn được coi trọng và tiếp tục vận dụng, triển khai một số nội dung giáo
dục đạo đức cho học sinh trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam.
Tác giả Tương Lai với cuốn sách “Chủ động, tích cực xây dựng đạo
đức mới” [44]. Trong cuốn sách, tác giả đã trình bày quan niệm về đạo đức,
đạo đức cách mạng, vai trò của đạo đức cách mạng trong việc hình thành con
người mới xã hội chủ nghĩa, chỉ ra tiêu chuẩn của đạo đức mới, xác định
phương hướng và biện pháp xây dựng đạo đức mới xã hội chủ nghĩa.

Tác giả Nguyễn Thành Duy với công trình nghiên cứu: “Văn hoá đạo
đức, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn” [14], tác giả tập trung nghiên cứu, tìm
hiểu tác động của cơ chế thị trường đến đời sống văn hoá đạo đức và đều
thống nhất cho rằng, sự biến đổi của hệ thống giá trị đạo đức, văn hoá đạo đức


20
ở nước ta hiện nay là một tất yếu; đề cập đến thực trạng đạo đức và đưa ra
một số giải pháp khắc phục tình trạng xuống cấp về đạo đức ở một bộ phận
cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước.
Vũ Khiêu và Nguyễn Thành Duy với cuốn sách “Đạo đức và pháp luật
trong triết lý phát triển ở Việt Nam” [34], Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) cuốn
sách “Sự biến đổi thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc
xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” [64], công
trình nghiên cứu của tác giả đã tập trung tìm hiểu tác động của cơ chế thị
trường đến đời sống đạo đức ở nước ta hiện nay và đều thống nhất cho rằng,
sự biến đổi của hệ thống giá trị, thang giá trị đạo đức ở nước ta hiện nay là
một tất yếu. Tác giả của các công trình trên cho rằng, định hướng giá trị đạo
đức trong điều kiện hiện nay là cần thiết và cấp bách trong xây dựng nền đạo
đức mới ở nước ta hiện nay.
Các công trình nêu trên đã nghiên cứu một cách sâu sắc và có hệ thống,
phân tích cơ sở lý luận và định hướng cơ bản về đạo đức, giáo dục đạo đức và
vai trò, giá trị to lớn của đạo đức trong sự nghiệp cách mạng của đất nước ta.
Mặc dù nghiên cứu từ những góc độ khác nhau, song các tác giả đều thống
nhất trong cách khái quát nội dung đạo đức cách mạng và vai trò của nó trong
sự phát triển nhân cách; đề xuất các giải pháp giáo dục, nâng cao đạo đức
cách mạng cho mỗi người nói chung, cho sinh viên các trường học nói riêng
trong giai đoạn hiện nay, nhằm góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Các tác phẩm “Đạo hiếu - nhân cách của con người Việt Nam” của

Phạm Khắc Chương; “Những vấn đề giáo dục đạo đức trong điều kiện kinh tế
thị trường ở nước ta” của Nguyễn Quang Uẩn và Nguyễn Văn Phúc. Hội đồng
lý luận Trung ương đã thực hiện đề tài nghiên cứu về “Con người Việt Nam
trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Nghiên cứu này khẳng định
một tư tưởng chung là: hạt nhân cơ bản của thang giá trị, thước đo giá trị và
nhân phẩm con người Việt Nam ngày nay là các giá trị nhân văn truyền thống


21
dân tộc như lòng tự hào dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc, trung với nước, hiếu
với dân, nhân nghĩa, cần cù, thông minh, sáng tạo. Hội thảo “Giáo dục đạo
đức cho học sinh, sinh viên ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp” do
Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam tổ chức tại Đồng Nai năm 2009,
Phạm Minh Hạc cho rằng: “Yếu tố quyết định là ý thức tự giáo dục thực sự
nghiêm khắc - sự phấn đấu hướng thiện của từng cá nhân, nhất là của học sinh
các lớp cuối cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông và sinh viên,…kết hợp
chặt chẽ giáo dục đạo đức trong nhà trường với gia đình và ngoài xã hội, giáo
dục đạo đức cho tuổi trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên đã và đang trở thành
nhiệm vụ cấp bách, nhiệm vụ hàng đầu của các gia đình, nhà trường và toàn
xã hội”.
Bàn về đạo đức và giáo dục đạo đức, ngoài những cuốn sách, các công
trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã được trình bày ở trên, còn có các
luận án tiến sĩ đi sâu nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho con người, cho sinh
viên. Chẳng hạn, Nguyễn Tiến Bình “Tự giác hoá quá trình hình thành, phát
triển đạo đức cộng sản trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [7].
Trong công trình đó, tác giả đã luận chứng một cách sâu sắc vai trò ngày càng
tăng của nhân tố đạo đức trong sức mạnh chiến đấu quân đội và các đặc điểm
tác động đến sự hình thành, phát triển đạo đức cộng sản trong quân đội; tác
giả đã đề xuất các giải pháp cơ bản trong tự giác hoá quá trình hình thành,
phát triển đạo đức cộng sản trong quân đội nhân dân Việt Nam.

Tác giả Phùng Xuân Thành, với luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử
về đề tài: “Nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
giai đoạn hiện nay” [70]. Tác giả Hà Huy Thông trong đề tài luận án phó tiến
sĩ triết học “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của người cán bộ quân sự”
[74]. Tác giả đã vận dụng một cách sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng của người cán bộ quân sự và đưa ra các vấn đề có ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng để xây dựng đạo đức người cán bộ quân sự trong giai


22
đoạn mới của sự nghiệp cách mạng. Trần Ngọc Tuân với luận án tiến sĩ:
“Những giải pháp giáo dục đạo đức cho sĩ quan Biên phòng ở đơn vị cơ sở
trong tình hình hiện nay” [83], tác giả đã đi vào nghiên cứu làm rõ những vấn
đề lý luận, thực tiễn về đạo đức của những người sĩ quan bộ đội biện phòng,
từ đó luận giải những biện pháp có tính đặc thù nhằm giáo dục đạo đức cho
người sĩ quan biên phòng trong tình hình mới.
Nghiên cứu về giáo dục đạo đức nghề nghiệp, cho đến nay đã có một số
luận án tiến sĩ nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp và quản lý
giáo dục đạo đức nghề nghiệp ở những góc độ khác nhau như: Nguyễn Bá
Hùng (2010) với công trình “Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học viên sư
phạm trong nhà trường quân sự hiện nay” [32]. Qua nghiên cứu các công
trình khoa học, luận án tiến sĩ cho thấy, các tác giả đã tiếp cận vấn đề giáo dục
đạo đức và nâng cao đạo đức cho con người ở các góc độ khác nhau tùy theo
từng lĩnh vực công tác, hoạt động và đưa ra các vấn đề có ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng để xây dựng đạo đức người cán bộ nói chung, cán bộ
quân đội nói riêng, trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhưng chưa có công
trình đề cập đến quản lý quá trình giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
các trường nghệ thuật.
Trong những năm qua, đã có nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học giáo
dục quan tâm nghiên cứu về tác động của cơ chế thị trường đến sự biến đổi

giá trị và thang giá trị đạo đức ở nước ta, thông qua nghiên cứu, các nhà khoa
học chỉ rõ là muốn nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh ở các
nhà trường trong giai đoạn hiện nay, cần quan tâm hơn đến việc quản lý giáo
dục đạo đức cho sinh viên.
Cùng với các công trình khoa học, những luận án tiến sĩ bàn về đạo
đức, giáo dục đạo đức ở những góc độ khác nhau, còn có các bài tham luận
hội thảo khoa học, như tác giả Nguyễn Hữu Thụ, với bài “Giáo dục đạo đức
sinh viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt


23
Nam”, [31, tr.73]. Tác giả dựa trên kết quả nghiên cứu giáo dục đạo đức của
Hiệp Hội giáo dục học Hoa Kỳ, đã đưa ra ba quan niệm cơ bản về chuẩn mực
và các nguyên tắc đạo đức như sau: thứ nhất, đạo đức được thể hiện trong các
hoạt động…; thứ hai, đạo đức được thể hiện trong giáo dục công dân- giáo
dục các quan niệm, nguyên tắc ứng xử công dân và nguyên tắc ứng xử trong
giáo dục; thứ ba, các nguyên tắc giáo dục đạo đức và nguyên tắc ứng xử trong
hoạt động nghề nghiệp.
Bài báo khoa học “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định
hướng các giá trị đạo đức hiện nay”, của tác giả Nguyễn Thế Kiệt [40]; Trần
Xuân Trường (1999), “Đạo đức cách mạng và sự nghiệp đổi mới”, Thông tin
lý luận chính trị quân sự, Số 55 (1) [82]. Hoàng Trung (2000), “Vì sao Hồ Chí
Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề đạo đức”, Tạp chí Triết học, Số 4 (116)
[77]. Tổng thuật Hội thảo khoa học - thực tiễn (2003), “Đổi mới, nâng cao
chất lượng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên trong
giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Tư tưởng văn hoá, số 8/2003 [76]; Đào Duy
Quát (2003), trong bài viết của mình về “Giáo dục rèn luyện đạo đức, lối sống
cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách”, đăng trên Tạp
chí Thông tin công tác tư tưởng - lý luận, Số 8/2003.
Như vậy, về lý luận chỉ đạo cũng như thực tiễn nghiên cứu vấn đề đạo

đức, giáo dục đạo đức ở nhà trường đã được nhiều học giả quan tâm nghiên
cứu. Nhiều công trình khoa học, luận án tiến sĩ, các bài báo khoa học nghiên
cứu về đạo đức, giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
con người, sinh viên dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau một cách đa
dạng, phong phú và đi vào chiều sâu. Đặc biệt có các cuộc hội thảo khoa học,
các diễn đàn trao đổi về vấn đề này được diễn ra tại thủ đô Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh cũng như một số tỉnh thành khác. Tuy nhiên, chúng tôi nhận
thấy cả về lý luận và thực tiễn, vấn đề quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật trong nhiều năm qua chưa


24
nhận được sự quan tâm đầy đủ, các biện pháp quản lý chưa cập nhật, chưa
bảo đảm tính khách quan, chưa thực sự phù hợp với tình hình hiện thực khách
quan của nhà trường, của đối tượng sinh viên đang đào tạo ở mỗi trường và
do đó chưa có hiệu quả cao trong tổ chức quản lý giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên các trường nghệ thuật dựa trên những nét đặc thù của
công tác giáo dục, đào tạo.
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý giáo dục
đạo đức nghề nghiệp
Giáo dục đạo đức luôn là vấn đề thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu
của nhiều nhà khoa học, ở các thời kỳ lịch sử khác nhau cùng với những thay
đổi phát triển của xã hội, các giá trị chuẩn mực đạo đức, giáo dục đạo đức
cũng có những thay đổi.
Chính vì vậy, đã có một số công trình nghiên cứu đưa ra các mô hình
quản lý giáo dục đạo đức phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng
giai đoạn phát triển của xã hội. Công trình nghiên cứu khoa học của tác giả
Phạm Minh Hạc (2001): “Chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam
trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [22] đã phần nào cụ
thể hóa được mục tiêu giáo dục trong các nhà trường, trong đó có hệ thống

các trường đại học, cao đẳng và đã cụ thể hóa được các hoạch định chiến lược
giáo dục toàn diện cho sinh viên trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo con
người phát triển toàn diện để phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước. Xuất
phát từ đặc trưng tâm lý học, tác giả đã nêu ra các định hướng giá trị đạo đức
con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ thực
trạng đạo đức của sinh viên, học sinh hiện nay, công trình nghiên cứu này đã
nêu ra một số giải pháp ở tầm vĩ mô về giáo dục và đào tạo với các yêu cầu
đặt ra như: tiếp tục đổi mới hình thức, nội dung, hình thức giáo dục đạo đức
trong các trường học; củng cố ý tưởng giáo dục ở gia đình và cộng đồng, kết
hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường. Thành công ở công trình nghiên cứu này là
đã đưa ra một hệ thống giải pháp quản lý xã hội về giáo dục. Trong đó có giải


25
pháp “Tổ chức phong trào thi đua yêu nước và các phong trào rèn luyện đạo
đức và lối sống cho toàn dân trước hết là cán bộ đảng viên, cho thầy và trò
các trường học”.
Đề tài “Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho sinh viên Học viện
Quản lý giáo dục trong giai đoạn hiện nay” [75] của tác giả Đỗ Thị Thanh
Thủy đã điều tra thực trạng công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Học viện
Quản lý giáo dục cho thấy: Đại đa số sinh viên có nhận thức tốt về vai trò và
tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức. Tuy nhiên, vẫn còn không ít
sinh viên chưa nhận thức đúng về vai trò và tầm quan trọng của giáo dục đạo
đức. Qua điều tra khảo sát và phân tích thực trạng, kết hợp với nghiên cứu lý
luận, đề tài đã đề xuất các giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức cho sinh viên Học viện Quản lý giáo dục.
Luận án tiến sĩ: “Giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở
tại thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới giáo dục hiện nay” [5] của
Đỗ Tuyết Bảo (2001) đã đề cập đến vai trò giáo dục đạo đức với sự hình
thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ, tác động đổi mới của xã hội với giáo

dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả đưa ra các giải pháp lãnh đạo và quản lý công tác giáo dục đạo đức
trong nhà trường nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh.
Luận án tiến sĩ: “Xây dựng mô hình quản lý công tác giáo dục đạo đức cho
sinh viên các trường đại học sư phạm trong giai đoạn hiện nay” [1] của
Nguyễn Thị Hoàng Anh (2011) đã nghiên cứu lý luận, thực trạng và đề xuất
các giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm trong
các trường đại học sư nhằm đề xuất mô hình mới về quản lý công tác giáo dục
đạo đức cho sinh viên sư phạm và các giải pháp thực hiện mô hình.
Luận án tiến sĩ: “Quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
trường cao đẳng sư phạm miền Đông Nam Bộ” [67] của Nguyễn Thanh Phú
(2014) đã làm rõ thêm khái niệm đạo đức nghề nghiệp sư phạm, làm rõ ý
nghĩa của quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên các trường cao
đẳng sư phạm và vai trò của quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh


×