Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT về THI HÀNH án đối với các vụ án hôn NHÂN GIA ĐÌNH tại cục THI HÀNH án TỈNH BÌNH PHƯỚC TÌNH TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.63 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT

Võ ngọc cảnh

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN ĐỐI
VỚI CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN GIA ĐÌNH TẠI
CỤC THI HÀNH ÁN - TỈNH BÌNH PHƯỚC. TÌNH
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT HỌC
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Tp. Hồ chí minh - năm 2017

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT

Võ ngọc cảnh

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÔ
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT HỌC


CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH - MÃ SỐ 52380101

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN VÂN LONG
TP HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017

2


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề này, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ts. Trần vân
long, đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết chuyên đề tốt nghiệp.
Tôi chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong khoa luật, đại học kinh tế thành phố
hồ chí minh đã tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm tôi học tập.
Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho
quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quí báu để tôi bước vào đời một
cách vững chắc và tự tin. Tôi chân thành cảm ơn cục thi hành án tỉnh bình phước đã
cho phép và tạo điều kiện thuận lợi để tôi thực tập tại đây.
Cuối cùng tôi kính chúc quý thầy, cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự
nghiệp cao quý. Đồng kính chúc các cô, chú, anh, chị trong cục thi hành án tỉnh bình
phước luôn dồi dào sức khỏe, đạt được nhiều thành công tốt đẹp trong công việc.
Tp.hồ chí minh, ngày …. Tháng ….. Năm 2017
Tác giả

Võ ngọc cảnh

3


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo
đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu, phân tích một
cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của việt nam. Các kết quả này
chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Tp.hồ chí minh, ngày …. Tháng ….. Năm 2017
Tác giả luận văn

Võ ngọc cảnh

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu
Gia đình hình thành, tồn tại và phát triển qua các giai đoạn, nó mang những chức
năng tự nhiên và xã hội riêng biệt mà các thiết chế xã hội khác không có. Các chức năng
của gia đình hình thành gắn liền với sự phát triển của loài người và được chính con người
xã hội hóa chúng. Về cơ bản, gia đình có ba chức năng: sinh đẻ, giáo dục và kinh tế,
chúng là cơ sở để hình thành các quyền tự nhiên của con người về gia đình và được xã hội
hóa thành các quyền cơ bản.
Trong những năm qua, việc trong giải quyết án hôn nhân và gia đình đã giải quyết
được những mâu thuẫn bất hoà trong gia đình, đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các thành viên trong gia đình, bên cạnh những mặt đã đạt được trong quá trình giải quyết
án hôn nhân và gia đình vẫn còn những thiếu sót, như có vụ án trong quá trình giải quyết
còn để tồn đọng, dây dưa kéo dài, có vụ án còn bị sửa, huỷ gây ảnh hưởng đến quyền lợi
của các bên đương sự.
Với các đường lối chính sách hiện nay của đảng và pháp luật ta của nhà nước ta đã
nói tới vấn đề như vậy, tuy nhiên trong thực tế xã hội hiện nay các vụ án về hôn nhân và
gia đình vẫn phát sinh rất nhiều và có chiều hướng gia tăng theo thời gian , đòi hỏi cục thi

hành án phải áp dụng pháp luật để giải quyết các loại án này. Thông qua việc áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết án hôn nhân và gia đình góp phần làm ổn định quan hệ
trong hôn nhân, giữ gìn kỷ cương pháp luật, giữ ổn định chính trị, trật tự trị an toàn xã
hội, góp phần tăng cường nền pháp chế xã hội chủ nghĩa trên toàn thành phố.
Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài: “Áp dụng pháp luật về thi hành án đối với
các vụ án hôn nhân gia đình tại cục thi hành án - tỉnh Bình Phước. Tình trạng và giải
pháp”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thi hành án trong giải quyết án hôn nhân và
gia đình;
+ Đánh giá thực tiễn của việc thi hành án trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
tại cục thi hành án tỉnh bình phước;

5


+ Đề ra những giải pháp đảm bảo việc thi hành án trong giải quyết án hôn nhân và
gia đình của cục thi hành án tỉnh bình phước hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Là việc áp dụng pháp luật trong việc thi hành án và giải quyết án hôn nhân và gia
đình của cục thi hành án tỉnh bình phước.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề xem xét nghiên cứu tình hình áp dụng pháp luật trong việc thi hành án
để giải quyết án hôn nhân và gia đình của cục thi hành án tỉnh bình phước.
4. Kết cấu chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, chuyên đề được chia thành 03 chương như sau:
Chương 1: lý luận và cơ sở pháp lý về hoạt động thi hành án.
Chương 2: thực tiễn công tác thi hành án đối với các vụ án hôn nhân, gia đình tại
cục thi hành án tỉnh bình phước.

Chương 3: kết luận và kiến nghị.
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN.................................................................................................................. iii
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................................. iv
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu...................................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................................2
3.1. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................2
3.2. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................2
4. Kết cấu chuyên đề.......................................................................................................2
CHƯƠNG 1....................................................................................................................... 6
LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN.........................6
1.1. Khái niệm hoạt động thi hành án.............................................................................6
1.1.1. Khái niệm..........................................................................................................6
6


1.1.2 Đặc trưng của thi hành án dân sự.......................................................................6
1.1.3 Những nguyên tắc trong thi hành án dân sự.......................................................7
1.2 Những yêu cầu đặt ra đối với thi hành án..................................................................9
1.3 Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động thi hành án.......................................................9
1.4. Đặc trưng của công tác thi hành án đối với các vụ án hôn nhân gia đình...............12
CHƯƠNG 2..................................................................................................................... 15
THỰC TIỄN CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC....................................15
2.1. Tổng quan công tác thi hành án đối với các vụ hôn nhân và gia đình....................15
2.2. Vướng mắc trong quá trình thi hành án từ thực tiễn thi hành án............................17
2.2.1. Thi hành án đối với các yêu cầu cấp dưỡng....................................................17
2.2.2. Thi hành án đối với các yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng........................23

2.2.3. Thi hành án đối với các yêu cầu về quyền nhân thân trong các vụ án HN-GĐ25
CHƯƠNG 3..................................................................................................................... 27
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ........................................................................................27
3.1. Những hạn chế đối với thực hiện thi hành án đối với các vụ hôn nhân và gia đình27
3.3. Kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án đối với các vụ
hôn nhân và gia đình.....................................................................................................28
3.4. Kết luận.................................................................................................................. 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................32

7


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN
1.1. Khái niệm hoạt động thi hành án
1.1.1. Khái niệm
Khi các cá nhân, tổ chức phát sinh tranh chấp và yêu cầu Tòa án
giải quyết, phán quyết của Tòa án chỉ là kết quả về mặt pháp lý. Để bảo
vệ quyền lợi của mình trên thực tế, bên thắng kiện phải yêu cầu cơ
quan thi hành án tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Việc
tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án được gọi là thi hành án.
Ngày nay, pháp luật cho phép Văn phòng Thừa phát lại có thẩm
quyền thi hành án tương tự như Chi cục thi hành án. Tạo điều kiện cho
người dân được lựa chọn dịch vụ thi hành án một cách tốt nhất để đảm
bảo quyền lợi hợp pháp của mình.Thads cũng không đơn giản là hoạt động của
các cơ quan hành chính. Thi hành án là giai đoạn kế tiếp của giai đoạn xét xử là hoạt động
nối liền giữa hoạt động tư pháp và hoạt động hành chính. Với tính chất là một hoạt động
chấp hành, căn cứ để thads là các bản án, quyết định của tòa án. Trong quá trình thads, cơ
quan thads và các bên có liên quan không chỉ áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng
mà phần lớn là áp dụng các quy định pháp luật về hành chính – tư pháp. Bên cạnh những

quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình thi hành án không do luật tố tụng điều chỉnh
như: kê biên tài sản, hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án,… thì thi hành án còn có
những quan hệ pháp luật tố tụng phát sinh do luật tố tụng điều chỉnh và chi phối khác.
1.1.2 Đặc trưng của thi hành án dân sự
Thads là một dạng hoạt động mang tính chất hành chính – tư pháp của nhà nước
nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, bảo đảm hiệu lực thực tế của
bản án, quyết định của tòa án. Hoạt động này do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (bao
gồm các cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án và cơ quan trực tiếp thi hành án) thực
hiện. - hoạt động thi hành án được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp
luật quy định từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, trên một cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng,
đảm bảo sự công bằng trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong thi hành án.

8


Thi hành án chỉ nhằm thực hiện các bản án, quyết định của cơ quan tài phán. Nó có
tính chất bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan đến bản án, quyết định
của tòa án. Việc không chấp hành, chấp hành không nghiêm chỉnh bản án, quyết định của
tòa án dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định và có thể bị xử lý bằng chế tài.
Trong quá trình thi hành án, những người phải thi hành án và những người được thi
hành án vẫn có thể tự thỏa thuận với nhau để tự thi hành án phù hợp với pháp luật và đạo
đức xã hội. Cơ quan thads có trách nhiệm theo dõi, giám sát và ghi nhận việc tự thỏa
thuận thi hành của các bên đương sự. Đây là một hành lang pháp lý “mở” nhằm tiếp tục
đảm bảo nguyên tắc tự định đoạt của các đương sự trong tố tụng dân sự ở giai đoạn thi
hành án. Chính tính “mở” này tạo ra những điều kiện quan trọng cho chủ trương xã hội
hóa một số mặt của hoạt động thads, giảm thiểu can thiệp, hỗ trợ từ phía nhà nước, tăng
tính chủ động của các đương sự, phù hợp với những yêu cầu của nhà nước về nâng cao
tính tích cực của công dân.
Tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan thads được lựa chọn biện pháp thích hợp, chủ
động giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình thi hành án (cưỡng chế, kê biên tài

sản, ủy thác thi hành án) sao cho việc thi hành án đạt được mục đích và hiệu quả.
1.1.3 Những nguyên tắc trong thi hành án dân sự
Bảo đảm tính tối cao các quy định về thi hành án trong hiến pháp. Về cơ bản, hiến
pháp quy định việc chấp hành nghiêm ngặt những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của tòa án. Tất cả các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án do đó không được
trái với hiến pháp và nhằm thực hiện được mục tiêu mà hiến pháp đã đề ra. Các cơ quan
thads phải hoạt động trong khuôn khổ đó và chỉ làm những gì pháp luật cho phép, không
được tùy tiện trong thads.
Nguyên tắc đảm bảo và tôn trọng quyền con người, quyền công dân trong thi hành
án. Thads là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền con người đã được hiến pháp quy
định. Vì vậy, các cơ quan thi hành án phải đảm bảo và tôn trọng các quyền đó; ngoài ra,
quyền tự định đoạt của các đương sự cũng phải được tôn trọng. Vì vậy, chỉ trong trường
hợp cần thiết mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án, còn lại cần tôn trọng sự
tự nguyện và thỏa thuận của các bên tham gia vào quan hệ pháp luật trong thads; đảm bảo
cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
9


Nguyên tắc nhân đạo. Trong thi hành án, đòi hỏi phải đảm bảo việc bảo vệ có hiệu
quả, hài hòa các loại lợi ích khác nhau, tôn trọng nhân phẩm và danh dự của cá nhân.
Nguyên tắc nhân đạo được thể hiện rõ trong nhiều quy định của pháp luật về thads, ví dụ
như khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản để thi hành án, pháp luật chỉ cho
phép kê biên những tài sản đủ để thi hành án và thanh toán chi phí về việc thi hành án chứ
không kê biên tất cả tài sản của người đó. Đồng thời, khi kê biên tài sản, chấp hành viên
không được kê biên những thứ cần thiết tối thiểu cho cuộc sống của họ và gia đình họ;
trong trường hợp người phải thi hành án ốm nặng mà theo bản án, quyết định của tòa án
thì người đó phải tự mình thực hiện thì chánh án tòa án có quyền ra quyết định hoãn hoặc
tạm đình chỉ thi hành.
Nguyên tắc kết hợp tự nguyện với cưỡng chế. Xuất phát từ nguyên tắc thỏa thuận
và tự định đoạt của giao dịch dân sự, trong thads, đảm bảo và khuyến khích tự nguyện

thads là một yếu tố rất quan trọng để thi hành án có hiệu quả, ít tốn kém nhất. Trường hợp
sau một khoảng thời gian luật định, các cơ quan thads mới áp dụng các biện pháp cưỡng
chế như kê biên tài sản, cưỡng chế trả nhà…
Nguyên tắc phối hợp hành động giữa các cơ quan thads với các cấp chính quền,
các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong thads. Thi hành án là hoạt động mang tính
hành chính – tư pháp phức tạp mà hiệu quả của nó không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực của
các cơ quan thads chuyên trách mà còn phụ thuộc vào sự tham gia của chính quyền địa
phương, của các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và công dân.
Trong quá trình thi hành án, ngoài việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của mình, các cơ quan thads một mặt phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, mặt khác
phải phối hợp với cơ quan nhà nước và các tổ chức, đoàn thể xã hội. Sự chỉ đạo của chính
quyền địa phương đối với việc tổ chức thi hành án đang tạo điều kiện cho công tác thi
hành án có hiệu quả. Trong công tác thads, chính quyền cơ sở có nhiệm vụ giúp chấp
hành viên xác minh hoàn cảnh kinh tế của người phải thi hành án, giúp đỡ lực lượng,
phương tiện để cưỡng chế thi hành án. Lực lượng cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ giữ gìn
trật tự, ngăn chặn những hành vi cản trở, chống đối. Cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế xã
hội có nhiệm vụ thực hiện những yêu cầu của chấp hành viên liên quan đến việc thi hành

10


án. Mối quan hệ phối hợp giữa ba cơ quan: cơ quan thads, tòa án, viện kiểm sát đảm bảo
hoạt động thi hành án được tiến hành hiệu quả, đúng pháp luật.
1.2 Những yêu cầu đặt ra đối với thi hành án
Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người
được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì
thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp

dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của luật thi
hành án dân sự thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành
án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi
hành án.
Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan
hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời
gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu
thi hành án.
1.3 Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động thi hành án
Căn cứ vào nội dung, chúng ta có thể phân chia thi hành án thành năm loại hình cơ
bản gồm thi hành án hình sự, thi hành án dân sự, thi hành án kinh tế, thi hành án lao động,
thi hành án hành chính. Tuy nhiên, trong các văn bản luật có liên quan như pháp lệnh thi
hành án dân sự năm 2004, luật thi hành án dân sự năm 2008, luật tố tụng hành chính năm
2010, các khái niệm thi hành án dân sự, thi hành án kinh tế, thi hành án lao động, thi hành
án hành chính cũng không được định nghĩa cụ thể. Luật thi hành án hình sự năm 2010 chỉ
định nghĩa thi hành án hình sự theo từng hình phạt cụ thể ví dụ như: thi hành án tử hình,
thi hành án treo... Mà cũng không có định nghĩa tổng quát chung về thi hành án hình sự.
Tính tư pháp thể hiện ở chỗ: căn cứ để thi hành án là các bản án và quyết định của
tòa án và có sự tham gia của các cơ quan tư pháp vào quá trình thi hànhán. Tuy nhiên, cần
nhấn mạnh rằng tính tư pháp trong thi hành án là tư pháp hiểu theo nghĩa rộng. Trong
11


thực tiễn ở nước ta, cơ quan tư pháp thường được hiểu bao gồm tòa án nhân dân, viện
kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án. Theo tác giả điều này là không
đúng.
Nghị địnhsố: 62/2015/NĐ-CP, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của luật thi hành án dân sự.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Luật THADS (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và triển

khai các văn bản liên quan như Luật Đấu giá tài sản năm 2016 (có hiệu lực từ 01/7/2017),
Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của
các tổ chức tín dụng, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. Tiếp tục rà
soát, tổng hợp khó khăn, vướng mắc trong việc tổ chức thi hành Luật THADS (sửa đổi,
bổ sung năm 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
trong thực tiễn THADS.
Tổng cục cũng yêu cầu các đơn vị và địa phương thực hiện nghiêm Quy trình tổ
chức thi hành án trong Hệ thống THADS; rà soát, giải quyết đối với những vụ việc đấu
giá thành nhưng chưa giao được tài sản cho người trúng đấu giá. Thực hiện nghiêm quy
định về tiếp công dân và các chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ tại các buổi tiếp công dân. Tổ chức
thi hành nghiêm túc các quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo đã có
hiệu lực pháp luật.
Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, bảo đảm thực hiện
kiểm tra theo đúng quy trình; tập trung kiểm tra việc thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ về
THADS; kiểm tra việc thực hiện trình tự, thủ tục thi hành án, xác minh điều kiện thi hành
án, cưỡng chế thi hành án; công tác tổ chức cán bộ, kế hoạch tài chính; tăng cường kiểm
tra đột xuất, kịp thời phát hiện và chấn chỉnh, xử lý nghiêm đối với những sai phạm, thiếu
sót; chú trọng công tác phúc tra việc thực hiện các kết luận kiểm tra.
Cũng theo Tổng cục THADS, các cơ quan thuộc Tổng cục và địa phương cần tổ
chức quán triệt nghiêm túc việc thực hiện Nghị quyết Trung ương IV khóa XII về tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp và Chuẩn
mực đạo đức chấp hành viên.
12


Đồng thời, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong công tác, kiên quyết xử
lý nghiêm đối với những cán bộ vi phạm đạo đức, lối sống, chuyên môn, nghiệp vụ. Tổ
chức thực hiện có hiệu quả các Quy chế phối hợp liên ngành trong công tác THADS, các

Quy chế, Quy trình nội bộ. Tập trung điều hành ngân sách và thu nộp, quản lý sử dụng
phí thi hành án đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm, đúng quy định. Chủ động đề xuất, kiến nghị
cấp có thẩm quyền tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn, trên cơ sở đó đẩy nhanh tiến độ thực
hiện các đề án đã được phê duyệt về xây dựng trụ sở, kho vật chứng và đầu tư trang thiết
bị, phương tiện làm việc.
1.4. Đặc trưng của công tác thi hành án đối với các vụ án hôn nhân gia đình
Hoạt động thi hành án là một quá trình diễn ra sau khi quá trình xét xử của toà án
kết thúc. Bản án và quyết định của toà án khi xét sử đã có hiệu lực pháp luật và là một cơ
sở để tiến hành các hoạt động của hoạt động thi hành án. Người yêu cầu công tác thi hành
án có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi hành án, cung cấp
thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cho cơ
quan thi hành án dân sự. Như vậy, nếu bạn biết về công việc hay tài sản, các khoản thu
nhập của chồng bạn thì bạn nên chủ động xác minh vấn đề này và nộp kết quả xác minh
cho cơ quan thi hành án thì việc thi hành án sẽ có lợi hơn cho bạn;
Việc xác minh do cơ quan thi hành án thực hiện: Trong thời hạn 10 ngày, kể từ
ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi
hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh;
Trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì ít nhất 06
tháng một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án; trường hợp người
phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án là người đang chấp hành hình phạt tù mà
thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa
chỉ, nơi cư trú mới của người phải thi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một
lần. Sau hai lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành án thì
cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho người được thi hành án về
kết quả xác minh. Việc xác minh lại được tiến hành khi có thông tin mới về điều kiện thi
hành án của người phải thi hành án.

13



CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
2.1. Tổng quan công tác thi hành án đối với các vụ hôn nhân và gia đình
Tại Bình Phước hiện nay, số lượng các vụ án về hôn nhân và gia đình ngày càng
gia tăng theo hướng tiêu cực. Đối với loại án này mỗi vụ án có rất nhiều nội dung đa dạng
và tính phức tạp khác nhau về từng sự việc , nên việc giải quyết loại án này gặp rất nhiều
những khó khăn trong tòa á, trong nhận thức vận dụng pháp luật cũng như khó khăn từ
khách quan mang lại. Tuy vậy, quá trình giải quyết án hôn nhân và gia đình của toà án
nhân dân bình phước trong những năm qua đạt những kết quả nhất định, đạt những kết
quả cao, góp phần giải quyết các mâu thuẫn bất hoà trong hôn nhân, bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự và thống nhất các vụ việc. . Đồng thời, hoạt động thi hành
án trong giải quyết án hôn nhân và gia đình, ngoài việc đấu tranh với các hành vi trái pháp
luật nảy sinh trong lĩnh vực về hôn nhân, còn phổ biến tuyên truyền giáo dục ý thức pháp
luật cho nhân dân, từ sự hiểu biết pháp luật, nhân dân sẽ tham gia thực hiện pháp luật, bảo
vệ pháp luật, tố giác những hành vi vi phạm pháp luật trong quan hệ hôn nhân, đồng thời
qua thực tiễn thi hành án trong giải quyết án hôn nhân và gia đình sẽ phát hiện ra những
thiếu sót trong pháp luật để có những đề xuất sửa đổi các điều khoản của pháp luật cho
phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể. Thông qua việc thi hành án
trong việc giải quyết án hôn nhân và gia đình góp phần làm ổn định quan hệ trong hôn
nhân, giữ gìn kỷ cương pháp luật, giữ ổn định chính trị, trật tự trị an toàn xã hội, góp phần
tăng cường nền pháp chế xã hội chủ nghĩa trên địa bàn
Bên cạnh những mặt đã đạt được về công tác sử án trên của tỉnh, qua quá trình
kiểm tra giám đốc án và xét xử phúc thẩm của tand bình phước đã phát hiện có những
thiếu sót trong việc thi hành án trong quá trình giải quyết, nên dẫn đến một số vụ án bị
sửa, bị huỷ; và một số ít vụ án còn bị dây dưa kéo dài theo thời gian Đặc biệt, một số vụ
án do thi hành án không chuẩn xác, nên còn bị sửa, huỷ nhiều lần, kéo dài nhiều năm gây
ảnh hưởng đến đời sống, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là một trong
những nguyên nhân dẫn đến việc nhân dân khiếu kiện vượt cấp đến các cơ quan trung
ương., làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự gây mất thời gian. Trong hoạt động

14


xét xử, ngành toà án bình phước cũng đã bộc lộ một số tồn tại, như án tồn đọng còn
nhiều, vi phạm thời hạn tố tụng. Tồn tại trên là những lực cản trở trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền tại việt nam.
Về thi hành án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Trong giai đoạn này, các thẩm phán
đã hướng dẫn đương sự thực hiện đúng những nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ, tài liệu cho
việc giải quyết vụ án; chủ động xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp cần
thiết hoặc theo quy định của pháp luật; quan tâm, làm tốt công tác hòa giải nên tỷ lệ các
vụ việc được hòa giải để ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn đạt tỷ lệ cao trên 92%
tổng số vụ án đã giải quyết.
Về thi hành án trong giải quyết án HN&GĐ cấp sơ thẩm. Trong những năm qua (từ
năm 2009 đến năm 2013), các tand bình phước đã thụ lý và giải quyết một số lượng lớn
các vụ án về hn&gđ, cụ thể bằng bảng thống kê sau:
Bảng 2.1. Kết quả thụ lý và giải quyết án hôn nhân gia đình sơ thẩm 5 năm
(2009 – 2013)1
Năm

Thụ lý(vụ)

Giải quyết(vụ)

Còn lại(vụ)

2009

1148

1010


138

2010

1381

1242

139

2011

1582

1464

118

2012

089

1809

280

2013

2075


1870

205

Tổng

8275

7395

880

Như vậy, tổng số các vụ án hn&gđ mà tand ở bình phước giải quyết là rất lớn. Đây
là kết quả của việc thi hành án trong giai đoạn nhận đơn khởi kiện của các cán bộ tòa án.
Theo thống kê, trong 5 năm gần đây, số lượng án hn&gđ mà tand ở bình phước thụ lý có
chiều hướng tăng nhanh. Cụ thể năm 2009 là 1148 vụ đến năm 2013 là 2075 vụ, tăng 927
vụ. - về thi hành án trong giải quyết án hn&gđ cấp phúc thẩm. Thời gian qua, trong phạm
vi thẩm quyền của mình tand tỉnh bình phước đã xem xét theo trình tự phúc thẩm với
tổng số án thụ lý cấp sơ thẩm là 228 vụ bị kháng cáo, kháng nghị trong 5 năm gần đây. Cụ
thể bằng bảng thống kê như sau:
1 Theo thống kê của toàn án nhân dân tỉnh Bình Phước

15


Bảng 2.2. Kết quả thụ lý và giải quyết án hôn nhân gia đình phúc thẩm của toà
án tỉnh 5 năm (2009 – 2013)
Năm
2009

2010
2011
2012
2013
Tổng

Sơ thẩm ta giải
quyết phúc thẩm
55
44
45
42
35
221

Rút kháng cáo
kháng nghị(vụ)
28
19
15
13
17
92

Sửa án (vụ)

Hủy án (vụ)

24
23

30
25
15
117

3
2
0
4
3
12

Về thi hành án trong hoạt động xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm. Trong những
năm qua, từ năm 2009 - 2014 không có kháng nghị của cấp có thẩm quyền theo trình tự
tái thẩm. Đối với trình tự giám đốc thẩm tand tỉnh đã thi hành án xét xử 26 vụ án, qua đó
đã phát hiện những sai sót của cấp sơ thẩm trong quá trình thi hành án của tand cấp huyện
từ giai đoạn điều tra thu thập chứng cứ, đến việc xét xử tại phiên tòa. Để đạt được những
kết quả như đã phân tích trên, trong thời gian qua, việc thi hành án của tand ở tỉnh Bình
Phước trong giải quyết án hn&gđ đã được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định, phiên tòa đã thực sự được diễn ra dân chủ, trang nghiêm, khách quan. Bên
cạnh đó, ban cán sự đảng tand tỉnh, cấp ủy đảng của các tand cấp huyện ở tỉnh Bình
Phước cũng luôn tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hoạt động thi hành án
trong quá trình giải quyết các vụ án nói chung và án hn&gđ nói riêng nhằm đạt được kết
quả cao nhất.
2.2. Vướng mắc trong quá trình thi hành án từ thực tiễn thi hành án
2.2.1. Thi hành án đối với các yêu cầu cấp dưỡng
Bảng.2.3. Tình hình các vụ li hôn 2
Năm
2012
2013

2014

Số vụ li hôn (vụ)
1120
850
1120

Số vụ giải quyết(vụ)
932
780
932

2 Tòa án tỉnh Bình Phước

16

Đạt ( %)
92
90.7
92


Nghĩa vụ cấp dưỡng không phải lúc nào cũng phát sinh mà nó chỉ phát sinh trong
những điều kiện nhất định, chỉ khi những điều kiện đó xảy ra thì nghĩa vụ đó mới phát
sinh. Vậy nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ phát sinh trong những điều kiện sau:
* Người được cấp dưỡng và người cấp dưỡng không sống chung với nhau.
Khi người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng sống chung với nhau thì người cấp
dưỡng đã trực tiếp thực hiện hành vi chăm sóc, nuôi dưỡng người được nuôi dưỡng bằng
tài sản của mình, do đó việc cấp dưỡng không đặt ra. Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh
khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng vì hoàn cảnh không thể trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng

người kia, do đó họ phải chu cấp một khoảng tiền hoặc tài sản nhất định (như lương thực,
thực phẩm, quần áo, thuốc men…) để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người cần cấp
dưỡng, đảm bảo sự sống còn của họ. Ví dụ: trước khi li hôn, cả vợ và chồng đều có thể
hàng ngày chăm sóc con của mình, nhưng khi họ li hôn, người con khi đó chỉ có thể ở
với bố hoặc mẹ và như vậy người còn lại không thể quan tâm chăm sóc con như trước họ
chỉ có thể thể hiện sự quan tâm đó bằng cách cấp dưỡng cho con.
* Giữa người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng có quan hệ hôn nhân, huyết
thống, hoặc nuôi dưỡng.
* Điều kiện về người được cấp dưỡng là người chưa thành niên (người dưới mười
tám tuổi) người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để
tự nuôi mình, là người túng thiếu khó khăn. Không có khả năng lao động có thể là do già
yếu, mất sức lao động, bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự. ...“ không có khả năng lao
động” phải gắn liền với “ không có tài sản để tự nuôi mình”. Vấn đề quan trọng là khi
nào một người được xác định là “ không có tài sản để tự nuôi mình” để có thể được
người khác cấp dưỡng. Vấn đề này Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định rõ do vậy
cần có sự quy định cụ thể để đảm bảo tính thống nhất trong thực tiễn xét xử. Việc cấp
dưỡng nhằm cung cấp những thứ cần thiết như tiền bạc, tài sản để đáp ứng nhu cầu sống
thiết yếu của người được cấp dưỡng, nên nó chỉ nảy sinh khi người được cấp dưỡng
không có khả năng về kinh tế, không tự lo cho cuộc sống bình thường của mình. Cấp
dưỡng nhằm đảm bảo cuộc sống với mức tối thiểu của người được cấp dưỡng.
* Điều kiện về người được cấp dưỡng là người có khả năng cấp dưỡng. Nghị định
số 70/2001/NĐ - CP ngày 30/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật
17


HN&GĐ năm 2000 (Sau đây gọi là Nghị định số 70/2001/NĐ - CP) quy định: “ Người
có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là người có thu nhập thường xuyên
hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí
thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó” (Điều 16). Như vậy, đánh giá khả
năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng cấp dưỡng có thể dựa vào hai yếu tố: Thu

nhập thường xuyên và tài sản hiện có hoặc một người tuy không có thu nhập thường
xuyên nhưng lại còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phi cần thiết cho bản thân thì cũng được
coi là có khả năng để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Theo Điều 56 và Điều 92 Luật
HN&GĐ năm 2000 thì khi li hôn cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng
cho con và theo Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số
02/2000/NQ - HĐTP ngày23/01/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 (Sau đây gọi là Nghị quyết số 02/2000/NQ – HĐTP) quy
định: “Đây là nghĩa vụ của cha mẹ do đó không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả
năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng
cho con. Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp
nuôi con cấp dưỡng vì lí do nào đó thì Tòa án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu
cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con.
Từ những phân tích trên, có thể nhận thấy, khi xem xét, giải quyết sự việc Toà án
nên căn cứ vào tình hình thực tế của các bên đặc biệt quan tâm đến quyền lợi của con cái
để đưa ra các phán quyết “ thấu tình đạt lí hơn”. Biết rằng mọi phán quyết đều phải dựa
trên các quy định của pháp luật, làm đúng theo pháp luật nhưng trong một số trường hợp
có thể áp dụng linh hoạt các quy định đó, “biến hoá” các quy định đó để xet xử hợp tình
hợp lí hơn, thuyết phục được các bên qua đó đề cao truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt
NamVấn đề cấp dưỡng được quy định khá cụ thể và đầy đủ trong Luật HN&GĐ năm
2000 và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định các vấn đề liên quan đến cấp dưỡng
cho con khi vợ chồng li hôn, cấp dưỡng giữa vợ và chồng.
Tuy nhiên, cùng với sự vận động và phát triển của nền kinh tế đã tác động vào các
quan hệ xã hội nói chung và quan hệ cấp dưỡng nói riêng. Một số quy định của pháp luật
đã không còn phù hợp với thực tế, một số vấn đề còn chưa được quy định hoặc quy định
chưa đầy đủ, đòi hỏi pháp luật về cấp dưỡng cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng các
18


yêu cầu của thực tế. Cùng với đó, chúng ta cần tiến hành công tác kiểm tra, thanh tra,
giám sát về cấp dưỡng trên thực tế và nâng cao trách nhiệm, năng lực chuyên môn của

cán bộ có thẩm quyền, phải chú trọng công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
về cấp dưỡng, đặc biệt là cấp dưỡng trong trường hợp vợ chồng li hôn để mọi tầng lớp
nhân dân có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vấn đề này và ý thức được quyền lợi, trách
nhiệm của mình trong việc cấp dưỡng.
Nhằm ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra trong việc cấp dưỡng
nuôi con khi vợ chồng li hôn như: Trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ…đảm bảo mục đích
của việc cấp dưỡng nuôi con một trong những biện pháp quan trọng và cần thiết là công
tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc cấp dưỡng nuôi con. Công tác đó cần được thực hiện
một cách thường xuyên theo định kì hoặc tiến hành đột xuất khi có dư luật, hay có đơn tố
cáo của quần chúng nhân dân.Để đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn các vấn
đề liên quan đến việc cấp dưỡng nuôi con được chính xác, đúng đắn và có hiệu quả, vấn
đề đặt ra là nâng cao năng lực cán bộ có liên quan đến việc cấp dưỡng nuôi con, đề cao
trách nhiệm “ chí công vô tư” không ngại khó khăn khi xác minh sự việc. Trong quá trình
cưỡng chế thi hành án cần có sự phối hợp của các cơ quan như Viện kiểm sát, cơ quan
Công an, cơ quan thi hành án đưa ra những biện pháp thoả đáng buộc người phải thi hành
án thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ cấp dưỡng.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về cấp dưỡng nuôi con khi vợ
chồng li hôn được tiến hành và đẩy mạnh để làm cho quần chúng nhân dân hiểu rõ mục
đích và ý nghĩa về các vấn đề có liên quan đến việc cấp dưỡng nuôi con. Do đó, tạo được
sự đồng tình, ủng hộ và mọi người có thái độ đúng đắn, nhận thức đầy đủ các vấn đề về
cấp dưỡng nuôi con. Trên cơ sở đó giúp mọi người ý thức quyền lợi của mình và bảo vệ
quyền lợi chính đáng của của các bên trong quan hệ cấp dưỡng đặc biệt là quyền lợi của
người con.
2.2.2. Thi hành án đối với các yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng
Đối với các yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng toà án nhân dân tỉnh xem xét lại
phần quyết định chia tài sản của vợ chồng, việc mâu thuẫn trong gia đình hiện nay ngày
càng gia tăng, và ngày càng có nhiều cặp vợ chồng muốn ly hôn. Sau khi Toà án thụ lý

19



đơn yêu cầu ly hôn nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài,
mục đích hôn nhân không đạt được thì Toà án quyết định cho ly hôn.
Năm 2013 và Năm 2014 tiếp nhân 46 đơn kháng cáo của các vợ chồng xin li hôn.
Trong đó có 32 đơn kháng cáo yêu cầu Toà án xem xét lại phần chia tài sản của bản án sơ
thẩm. Và được phúc thẩm 46 vụ trong đó có 20 vụ
Năm 2015 Toà án nhân dân tỉnh nhận được 50 đơn kháng cáo của các vợ chồng
trong các vụ án xin ly hôn, trong đó có 38 đơn kháng cáo yêu cầu xem xét lại phần chia
tài sản . Toà án nhân dân tỉnh đã ra quyết định phúc thẩm trong 28 trường hợp. Việc chia
tài sản của vợ chồng khi ly hôn là vấn đề phức tạp, thường có nhiều tranh chấp xảy ra
giữa vợ chồng khi ly hôn và gặp nhiều vướng mắc khi xét xử những năm qua, cùng với sự
phát triển đi lên của xã hội, kéo theo những quan niệm về lối sống dẫn tới mô thuẫn trong
cuộc sống gia đình là một trong những nguyên nhân về số vụ án ly hôn trong thời gian
vưa qua tăng nhanh. Cũng tại toà án nhân dân tỉnh Bình phước trong những năm qua các
vụ án ly hôn ngày càng tăng.
Riêng quan hệ tài sản trong các án kiện ly hôn quá trình giải quyết tại toà án đang
gặp rất nhiều khó khăn trong việc phân định công bằng đâu là tài sản riêng của mỗi bên
vợ chồng những tài sản nào thuộc khối tài sản chung. Khi chia tài sản là tài sản riêng của
mỗi bên vợ chồng đã có sự trộn lẫn ẩn chứa giữa các loại tài sản chung và tài sản riêng
trong thời kì hôn nhân. Việc xác định tài sản riêng Điều 32 có ghi “ người có tài sản riêng
phải chứng minh được tài sản đó là tài sản của mình” .
2.2.3. Thi hành án đối với các yêu cầu về quyền nhân thân trong các vụ án HN-GĐ
Theo quy định hiện hành tại Bộ Luật dân sự 2015 thì quyền nhân thân trong hôn
nhân và gia đình được quy định như sau:
- Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định
cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân
thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên
gia đình.
Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và
nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình.


20


- Cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của
Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình và luật khác có liên quan.
Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình được quy định tại Điều 39 Bộ luật dân
sự 2015.
Quyền nhân thân giữa vợ và chồng là những quyền liên quan đến lợi ích tinh thần
gắn liền với nhân thân của vợ chồng trong quan hệ vợ chồng, không có nội dung kinh tế,
không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho người khác.
Quyền nhân thân giữa vợ và chồng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, quyền nhân thân giữa vợ và chồng phát sinh trên cơ sở kết hôn, gắn liền
với quan hệ vợ chồng trong suốt thời kì hôn nhân. Các quyền và nghĩa vụ này chấm dứt
khi quan hệ hôn nhân chấm dứt. Tức là, quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng trong thời kỳ
hôn nhân sẽ được bắt đầu bằng việc đăng ký kết hôn. Theo đó, vợ và chồng sẽ có thêm
các quyền về hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật. Còn sau khi quyết định, bản
án của Tòa án giải quyết ly hôn có hiệu lực hoặc khi một trong hai bên bị tuyên bố là đã
chết thì quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng chấm dứt.
Thứ hai, quyền nhân thân là quyền gắn liền với cá nhân và không thể là đối tượng
chuyển dịch cho người khác, quyền này có tính độc lập, cá biệt hoá cá nhân này với cá
nhân khác, không thể trộn lẫn. Vì vậy, quyền nhân thân của vợ chồng không thể chuyển
giao cho người khác, không thể do người khác thực hiện thay mà chỉ phụ thuộc giữa vợ
chồng.
Thứ ba, các quyền nhân thân giữa vợ và chồng được pháp luật thừa nhận và bảo
vệ. Quyền nhân thân của cá nhân được quy định cụ thể tại BLDS và được cụ thể hóa
tại Luật HNGĐ với chủ thể cụ thể là vợ chồng. Quyền nhân thân của vợ chồng được pháp
luật quy định trong các quy phạm pháp luật nên có thể thấy quyền này đã được pháp luật
thừa nhận và bảo đảm thực hiện.


21


CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Những hạn chế đối với thực hiện thi hành án đối với các vụ hôn nhân và gia
đình
Những hạn chế về thi hành án trong các trường hợp đình chỉ, tạm đình chỉ, công
nhận hòa giải thành, công nhận thuận tình ly hôn. - những hạn chế trong thi hành án đối
với những trường hợp đưa vụ án ra xét xử bằng bản án.
Thứ nhất, vi phạm các quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử thứ hai, hạn chế trong
việc thu thập chứng cứ vụ án chưa đầy đủ, còn vi phạm thủ tục tố tụng trong hoạt động
điều tra. Thứ ba, hạn chế trong điều hành phiên tòa xét xử sơ thẩm, quá trình thẩm vấn tại
phiên tòa, tranh tụng tại phiên tòa và nghị án. Từ thực trạng hoạt động thi hành án của
tand trong giải quyết án hngđ vừa phân tích trên, có thể xác định những tồn tại, hạn chế
là do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân cơ bản sau: nguyên nhân khách
quan thứ nhất, hệ thống pháp luật để giải quyết các vụ án hn&gđ chưa đầy đủ, đồng bộ,
các văn bản hướng dẫn thi hành án còn chậm và thiếu
Thứ hai, sự phối kết hợp giữa tòa án và các cơ quan liên quan trong quá trình giải
quyết án hn&gđ chưa thực sự chặt chẽ và đạt kết quả tốt.
Thứ ba, cơ sở vật chất của tòa án phục vụ cho công tác thi hành án trong giải quyết
án hn&gđ còn nhiều thiếu thốn. công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho
nhân dân chưa được chú trọng. nguyên nhân chủ quan thứ nhất, do trình độ chuyên môn
của thẩm phán, htnd, thư ký trong quá trình thi hành án để giải quyết án hn&gđ chưa đáp
ứng được yêu cầu công việc.thứ hai, những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động của
ngành tand ở tỉnh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động thi hành án trong
giải quyết án hn&gđ.
Thứ ba, việc hoạch định chính sách phát triển ngành tand, công tác quản lý, sử
dụng cán bộ chưa tốt, chưa kịp thời kiểm tra thường xuyên, uốn nắn những sai sót trong
nghiệp vụ.


22


3.3. Kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án đối với các
vụ hôn nhân và gia đình
Tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với hoạt động tand tỉnh bình phước nói
chung và việc áp dụng pháp luật trong giải quyết án hn&gđ nói riêng tăng cường đổi mới
phương thức lãnh đạo của đảng đối với hoạt động thi hành án trong giải quyết án hn&gđ
của tand ở tỉnh bình phước là cần thiết, để đảm bảo hiệu quả thi hành án trong hoạt động
xét xử nói chung và giải quyết án hn&gđ nói riêng. Sự lãnh đạo này bao trùm trên cả ba
phương diện: về chính trị, tổ chức cán bộ, khắc phục tình trạng cấp ủy đảng buông lỏng
lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động xét xử của tand các cấp.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản qppl nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong
giải quyết án hn&gđ trong cả nước cũng như ở bình phước việt nam là một đất nước có hệ
thống pháp luật thành văn. Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển thì càng có nhiều
quan hệ xã hội cần phải điều chỉnh bằng pháp luật. Thời gian vừa qua, ở việt nam đã xuất
hiện nhiều vấn đề mà pháp luật chưa dự liệu hết được những tình huống nảy sinh trong
cuộc sống, bởi vậy quá trình áp dụng trên thực tế gặp không ít khó khăn. Để hoạt động thi
hành án của tand trong giải quyết án hn&gđ được chính xác và có tính thuyết phục đòi hỏi
hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hn&gđ nói riêng ngày càng hoàn thiện hơn
nữa, không chỉ pháp luật nội dung mà cả pháp luật tố tụng. Đồng thời, trong quá trình thi
hành án người thẩm phán phải khẳng định và lựa chọn qppl phù hợp nhất cho từng trường
hợp tranh chấp cụ thể, phải phân tích sâu sắc, đánh giá đúng bản chất của vụ án hn&gđ
một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan, trung thực.
Nâng cao năng lực trình độ chuyên môn của htnd để nâng cao hiệu quả của htnd
trong quá trình tham gia xét xử tại tand trên địa bàn tỉnh bình phước cần đổi mới theo
những giải pháp sau: - cần cụ thể hóa hơn nữa các tiêu chuẩn ghi nhận trong pháp lệnh
thẩm phán và htnd như tiêu chuẩn về kiến thức pháp lý cần cụ thể là có kiến thức pháp lý
được đào tạo trong hệ thống các cơ sở đào tạo pháp luật, với các hình thức đào tạo và cấp

đào tạo khác nhau, nhưng tối thiểu cũng phải là người có trình độ trung cấp pháp lý.
Trong quá trình xét xử, nếu vụ án xảy ra ở địa bàn thuộc đơn vị hành chính nào thì chánh
án tòa án sơ thẩm khu vực nên cơ cấu vào thành phần hđxx các htnd ở địa bàn hành chính

23


đó để đảm bảo kết quả hoạt động xét xử thật phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương,
cũng như nguyện vọng của nhân dân địa phương nơi xảy ra vụ án.
Tăng cường phương tiện và điều kiện cơ sở vật chất cho các tand trên địa bàn tỉnh
và hoàn thiện chế độ chính sách đối với thẩm phán, cán bộ tòa án để đảm bảo hiệu quả
cho hoạt động thi hành án của tand trong giải quyết án hn&gđ ở tỉnh bình phước thì vấn
đề tăng cường điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc là một yêu cầu cấp thiết.
Vì vậy, cần tăng cường điều kiện về phương tiện cơ sở vật chất cho các tand trên
địa tỉnh bình phước, cụ thể như sau:
- hiện đại hóa các phương tiện làm việc và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác xét
xử, tăng cường việc cấp tài liệu, sách báo về khoa học pháp lý cho các thẩm phán và cán
bộ tòa án, trang bị cơ sở vật chất và hiện đại hóa phòng xét xử của các tand. Nghề thẩm
phán là một nghề có tính đặc thù riêng, vất vả, khó khăn, phức tạp và chịu nhiều áp lực.
Đặc biệt có khi còn nguy hiểm cho bản thân và gia đình. Do vậy, cần xây dựng cơ chế bảo
vệ đối với thẩm phán và gia đình họ, xây dựng quy định về chế độ bảo hiểm để họ được
hưởng bồi thường khi gặp rủi ro trong cuộc sống và trong sự nghiệp.
Tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp luật để nâng cao ý thức pháp luật và tăng
cường sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của tand trong giải quyết án
hn&gđ ở tỉnh bình phước muốn pháp luật thực sự đi vào cuộc sống và các quy định của
pháp luật được hiện thực hóa thì công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, giải thích pháp
luật nói chung và pháp luật về hn&gđ nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng. Trong thời gian
qua, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã được được đảng, nhà nước
quan tâm, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong việc tăng cường quản lý
xã hội bằng pháp luật. Với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, công tác tuyên truyền, phổ

biến, giáo dục pháp luật ngày càng được đẩy mạnh, góp phần xây dựng ý thức sống và
làm việc theo pháp luật của cán bộ, nhân dân.
3.4. Kết luận
Áp dụng pháp luật là một trong các hình thức thực hiện pháp luật nhưng là hình
thức thức có tính đặc thù bởi vì bao giờ chủ thể áp dụng pháp luật cũng là cá nhân, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hn&gđ của
tand là một hình thức cụ thể của hoạt động thi hành án nói chung vì các chủ thể thi hành
24


án là cá nhân được nhà nước giao quyền như thẩm phán, htnd và những người tiến hành
tố tụng trong hoạt động thi hành án giải quyết án hn&gđ. Trong những năm gần đây việc
thi hành án của tand trong giải quyết án hn&gđ ở tỉnh Bình Phước đã đạt được những kết
quả nhất định, góp phần rất quan trọng trong việc bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững
an ninh chính trị trên địa bàn tỉnh, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp phápcủa công
dân cũng như góp phần hàn gắn, củng cố mối đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Tuy nhiên,
hoạt động thi hành án của tand trong giải quyết án hn&gđ ở tỉnh Bình Phước vẫn còn tồn
tại những thiếu sót, hạn chế nhất định. Thực trạng trên đã gây ra những hậu quả nhất định
cho xã hội, đặc biệt là làm suy giảm uy tín của tand, sự tín nhiệm của nhân dân vào cơ
quan bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý. Dẫn đến tình trạng trên có rất nhiều nguyên nhân
chủ quan và khách quan khác nhau song nhìn chung đều là những bài học kinh nghiệm để
từ đó ngành tòa án Bình Phước đưa ra những giải pháp nhất định nhằm khắc phục những
tồn tại, hạn chế. Tuy nhiên, các giải pháp này phải được tiến hành đồng bộ và nghiêm túc
mới nâng cao được chất lượng thi hành án của tand trong giải quyết án hn&gđ ở tỉnh Bình
Phước, góp phần quan trọng làm lành mạnh các quan hệ xã hội, bảo vệ nền pháp chế xã
hội chủ nghĩa, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình việt nam
nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững

25



×