Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Quản lý hoạt động dạy học môn Giáo dục quốc phòng an ninh tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.31 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC

NGUYỄN VĂN HÙNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG – AN NINH
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 62.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRƯƠNG ĐÌNH MẬU

1


Hà Nội - 2017

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan
Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, trích
dẫn, kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn Quản lý hoạt động dạy
học môn giáo dục quốc phòng - an ninh tại Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, tháng 6 năm 2017


Học viên

Nguyễn Văn Hùng


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo TS. Trương
Đình Mậu– Học viện Quản lý giáo dục đã tận tình giúp đỡ và chỉ
dẫn cho tôi những kiến thức cơ bản cũng như phương pháp luận
trong suốt thời gian nghiên cứu, hoàn thành luận văn này.
Tôi Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ về mọi mặt của Ban
Giám đốc, Phòng Quản lý sau đại học - Học viện Quản lý giáo dục
cùng quý Thầy, Cô đã tham gia giảng dạy trong suốt quá trình học
tập.
Xin chân thành cám ơn Quý Thầy Cô giáo trong Khoa Quản lý
giáo dục – Học viện Quản lý giáo dục đã quan tâm, động viên và
tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận văn.
Cảm ơn tất cả bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã động
viên, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã nỗ lực, cố gắng nhiều song luận văn chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của các thầy cô và bạn bè đồng nghiệp.
Xin trân trọng cám ơn!
Hà Nội, tháng 7 năm 2016
Học viên

Nguyễn Văn Hùng



MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ANND

An ninh nhân dân

CBGV

Cán bộ giảng viên

CBQL

Cán bộ quản lý

CSVC

Cơ sở vật chất

DH
ĐH

Dạy học
Đại học

ĐT

Đào tạo


GD

Giáo dục

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

GDQP

Giáo dục quốc phòng

GDQP-AN

Giáo dục quốc phòng - an ninh

GV

Giảng viên

HĐDH

Hoạt động dạy học

NCKH

Nghiên cứu khoa học

QL


Quản lý

QLGD

Quản lý giáo dục

SV
TKB

Sinh viên

VKTBPT

Thời khóa biểu
Vũ khí trang bị phương tiện


DANH MỤC HÌNH ẢNH

DANH MỤC BẢNG


8
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục quốc phòng - an ninh (GDQP-AN) cho học sinh - sinh viên
trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay là một trong những nhiệm vụ quan
trọng. Đây là một hoạt động cần thiết trong hệ thống giáo dục đào tạo để thế hệ
trẻ không chỉ nhận thức được trách nhiệm công dân của mình trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà còn rèn luyện, nâng cao phẩm chất và năng lực

của mỗi cá nhân. Vì vậy, quán triệt Chỉ thị 62-CT/TW khóa VII, ngày 08 tháng
11 năm 1995 của Bộ Chính trị và Nghị định 15/2001/NĐ-CP, ngày 01 tháng 05
năm 2001 của Chính phủ, công tác giáo dục quốc phòng - an ninh được triển
khai sâu rộng, duy trì có nền nếp và chất lượng từng bước được nâng lên ở hầu
hết các trường trong cả nước.
Nghị quyết số 37/ 2004/QH11 của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 6 từ
ngày 25/10/2004 đến ngày 03/12/2004, về giáo dục đã nêu: “Tập trung xây
dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đồng bộ về
cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ đào tạo; đặc biệt coi trọng việc nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp”.
Đại hội Đảng lần thứ XI đã xác định “Tăng cường và củng cố nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ổn định chính trị - xã hội, mở rộng quan
hệ đối ngoại, giữ vững môi trường hòa bình và ổn định, tạo những điều kiện
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Tuy nhiên, công tác dạy học GDQP - AN ở các trường đại học khá đặc
thù, vừa phải thực hiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, vừa phải
tuân thủ các quy định của Bộ Quốc phòng. Hoạt động quản lý công tác GDQP AN ở các trường đại học khá phức tạp và còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp
ứng kịp yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân. Vì vậy, cần phải nhanh chóng tìm ra các biện pháp để đổi mới cách quản lý,
xác định lại mục tiêu, yêu cầu và nội dung, phương pháp, phương thực kiểm tra
đánh giá, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động Giáo dục quốc
phòng - An ninh của nhà trường để từ đó có thể nâng cao chất lượng, hiệu quả


9
của hoạt động này để đáp ứng các yêu cầu về xây dựng và bảo vệ đất nước trong
giai đoạn hiện nay.
Đối với Khoa GDQP việc nâng cao chất lượng quản lý hoạt động dạy học
là nhiệm vụ quan trọng nhất. Cũng là nhiệm vụ cơ bản đầu tiên đây chính là điều
kiện quyết định để tồn tại và phát triển. Thực chất của công tác quản lý GDQP AN là quản lý hoạt động dạy học và quản lý con người, công việc này được tiến

hành thường xuyên, liên tục qua từng giờ dạy học, qua các học kỳ và từng năm
học, đây là điều kiện tất yếu để đáp ứng yêu cầu của mục tiêu giáo dục là: “Nâng
cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”.
Chất lượng dạy học và chất lượng đào tạo đã có nhiều tiến bộ trên một số
mặt. Phong trào học tập sôi nổi, từng bước được nâng lên. Tuy nhiên chất lượng
đào tạo nói chung và chất lượng dạy học nói riêng còn nhiều yếu kém, bất cập.
Đáng quan tâm là chất lượng hiệu quả dạy học còn thấp, chưa đáp ứng được
những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trình
độ kiến thức, kỹ năng thực hiện, phương pháp tư duy khoa học của đa số học
sinh, sinh viên còn yếu, đội ngũ quản lý giáo dục năng lực còn hạn chế, không
theo kịp với sự đa dạng và phức tạp của các hoạt động giáo dục trong quá trình
đổi mới quản lý giáo dục. Bên cạnh đó, công tác dạy học môn Giáo dục quốc
phòng - an ninh ở các trường Đại học khá đặc thù và đội ngũ giảng viên đa số là
các sỹ quan biệt phái.
Với lý do trên, tôi chọn đề tài “Quản lý hoạt động dạy học môn Giáo dục
quốc phòng- an ninh tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội” làm đề tài
nghiên cứu với mong muốn góp phần đẩy mạnh hoạt động Giáo dục quốc phòng
- an ninh tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý dạy học môn GDQP AN, đề xuất một số biện pháp quản lý dạy học GDQP - AN ở Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.


10
1.3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
1.3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động dạy học môn GDQP - AN ở Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
1.3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động dạy học môn

GDQP - AN ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
1.4. Giả thuyết khoa học
Quản lý dạy học môn GDQP - AN ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Hà Nội có những ưu điểm, nhưng vẫn còn một số tồn tại, bất cập do những yếu
tố ảnh hưởng xác định. Dựa vào lý luận và thực trạng quản lý môn học này, có
thể đề xuất và triển khai các biện pháp quản lý phù hợp với yêu cầu thực tiễn,
đặc biệt tác động đồng bộ đến các khâu của quá trình dạy học thì việc dạy học
môn GDQP - AN ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội sẽ đạt hiệu quả
cao, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn học này.
1.5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lý luận của quản lý hoạt động dạy học môn GDQP - AN;
- Làm rõ thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn GDQP - AN ở trường
Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội;
- Đề xuất và làm rõ tính cần thiết, khả thi một số biện pháp quản lý hoạt
động dạy học môn GDQP - AN ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
1.6. Giới hạn nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn
GDQP - AN ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
Khảo sát thực trạng hoạt động dạy học môn GDQP - AN ở trường
Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, từ 2015 - 2017.


11
1.7. Phương pháp nghiên cứu
1.7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Sưu tầm, nghiên cứu, hệ thống hoá lý luận trong các văn bản, tài liệu khoa
học có nội dung liên quan đến đề tài.
1.7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phân tích, đúc kết các tài liệu thống kê;
- Sử dụng các phiếu hỏi đối với các đối tượng khác nhau;

- Quan sát các hoạt động dạy học và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn;
- Tiến hành phỏng vấn và dùng phiếu hỏi để thu thập các ý kiến của các
chuyên gia (các nhà quản lý, các chuyên viên, các giảng viên lâu năm).
1.7.3. Phương pháp thống kê toán học
Áp dụng xử lý các kết quả điều tra được.
1.8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học môn giáo dục
quốc phòng - an ninh tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học giáo dục quốc phòng an ninh ở tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn giáo dục quốc
phòng - an ninh ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội trong giai đoạn
hiện nay.


12
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH TẠI TRƯỜNG
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN HÀ NỘI
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Bác Hồ nói: “Ngày xưa, các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Câu nói trên được Bác nói vào sáng
ngày 19/9/1954 tại cửa Đền Giếng trong khu di tích Đền Hùng thuộc núi Nghĩa
Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ trước cán bộ Đại đoàn Quân
tiên phong.
Tiếp tục kế thừa, phát huy giá trị truyền thống của dân tộc trong các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã
sớm có những chủ trương, giải pháp mang tính chiến lược về vấn đề QP, AN và

GDQP – AN. Trên phương diện quản lý Nhà nước về GDQP, từ năm 1961 thực
hiệnNghị định số 219/CP của Hội đồng Chính phủ, “Huấn luyện quân sự” được
đặt thành một môn học chính trong nhà trường phổ thông. Năm 1966, Bộ Đại
học - Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ GDĐT) ban hành chương trình huấn
luyện quân sự thống nhất trong các trường ĐH, CĐ và THCN. Điều 17 Luật
Nghĩa vụ quân sự trước đây và Luật sửa đổi và bổ sung Luật Nghĩa vụ quân sự
quy định“Việc huấn luyện quân sự phổ thông cho HS các trường phổ thông
trung học, trường dạy nghề, trường THCN, trường CĐ và ĐH thuộc chương
trình chính khóa. Môn học “Huấn luyện quân sự phổ thông” được Luật định là
môn học chính khóa trong các nhà trường”. Nội dung chương trình chủ yếu
hướng vào huấn luyện kiến thức quân sự phổ thông và kỹ năng quân sự cơ bản
[5].
Huấn luyện quân sự phổ thông trong các nhà trường đã giúp cho thanh
niên trước khi nhập ngũ có kiến thức quân sự phổ thông, rút ngắn được thời gian
huấn luyện chiến sỹ mới, tham gia tích cực trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và
chiến tranh bảo vệ biên giới Tổ quốc. Trong quá trình đó, chương trình Huấn
luyện quân sự phổ thông đã được nhiều lần sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu,


13
nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong mỗi giai đoạn
cách mạng. Chiến tranh kết thúc, đất nước bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong thời bình. Chương trình Huấn luyện quân sự phổ thông tiếp tục
được sửa đổi, bổ sung. Ngoài việc nâng cao dân trí về QP, huấn luyện quân sự
phổ thông góp phần giáo dục ý thức trách nhiệm của HS, SV đối với Tổ quốc,
giáo dục lòng tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc, xây dựng ý thức tổ
chức kỷ luật, nếp sống tập thể, cùng với các hoạt động khác đẩy lùi tiêu cực và
tệ nạn xã hội.
Giáo dục quốc phòng – an ninh (GDQP-AN) là một bộ phận quan trọng
trong chiến lược giáo dục cho học sinh, sinh viên nói riêng và cho thế hệ trẻ nói

chung nhằm xây dựng con người toàn diện cho các thế hệ tương lai của đất nước
để sẵn sàng xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.
Mục tiêu GDQP – AN đối với HS, SV là: “Góp phần giáo dục toàn diện
cho HS, SV về lòng yêu nước, yêu CNXH, niềm tự hào và sự trân trọng đối với
truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, của lực lượng vũ trang
nhân dân Việt Nam; có ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực
thù địch; có kỹ năng quân sự cần thiết để tham gia vào sự nghiệp xây dựng,
củng cố nền QPTD, ANND, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN”[5].
Trong những năm gần đây, trước sự biến động phức tạp của tình hình
quốc tế và khu vực, trước yêu cầu đổi mới của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Đảng
và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác GDQP – AN toàn dân. Hội đồng
GDQP – AN Trung ương và địa phương (Trung ương, tỉnh, huyện) đã được
thành lập, chỉ đạo thống nhất GDQP – AN trong cả nước. Những chủ trương,
giải pháp, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý GDQP – AN đã tạo thành cơ
sở pháp lý cho công tác GDQP – AN ở trong mỗi nhà trường cũng như trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Quá trình hình thành, phát triển của các chủ trương,
chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật về QP và GDQP – AN cũng là quá
trình hoàn thiện học thuyết chiến tranh nhân dân, QPTD, ANND theo tư tưởng
Hồ Chí Minh. Trước tình hình mới của thời đại, vấn đề QP – AN quốc gia đang


14
được đặt ra như một vấn đề thời sự nóng hổi của nhiều quốc gia trên thế giới,
khu vực và trong nước.
Trong những năm qua đã có những bài báo khoa học và một số công trình
nghiên cứu về công tác GDQP – AN tiêu biểu như:
- Tác giả Nguyễn Đức Đăng nghiên cứu đề tài. “Quản lý công tác GDQP
– AN cho sinh viên hệ chính quy tại trường ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN”. Đề tài
của tác giả đã đánh giá thực trạng quản lý công tác GDQP – AN cho SV hệ
chính quy trường ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN [8].

- Tác giả: Vũ Thanh Tùng có bài viết. “Quản lý hoạt động dạy học môn
GDQP – AN ở các trường đại học”. Bài viết của tác giả đã nêu lên thực trạng
quản lý hoạt động dạy học hiện nay của môn học GDQP – AN ở các trường đại
học và đưa ra một số giải pháp quản lý dạy học của môn học GDQP – AN ở các
trường đại học hiện nay [26].
- Tác giả: Lê Minh Vụ nghiên cứu đề tài “Đổi mới Giáo dục quốc phòng
trong hệ thống giáo dục quốc gia”. Đề tài của tác giả đã tập trung nghiên cứu
những bất cập và tồn tại của việc giảng dạy môn GDQP và đưa ra các biện pháp
nhằm đổi mới GDQP để nâng cao chất lượng đào tạo của môn học [27].
Các bài viết và đề tài nghiên cứu của các tác giả nêu trên đều đánh giá
một cách tổng quan thực trạng của công tác quản lý dạy học đối với môn học
GDQP – AN hiện nay. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đưa ra một số biện pháp
tăng cường công tác quản lý dạy học môn GDQP – AN. Trong các biện pháp của
các tác giả đưa ra có những biện pháp khó triển khai và tổ chức thực hiện ở tất
cả các cơ sở thực hiện nhiệm vụ GD QP-AN vì mỗi cơ sở những nét đặc thù
riêng.
Nghiên cứu đề tài này nhằm đánh giá một cách cập nhật và đầy đủ hơn về
thực trạng quản lý dạy học môn giáo dục quốc phòng ở các trung tâm GDQP AN và nội dung, nhiệm vụ đào tạo của nó nhằm đưa ra những giải pháp mang
tính đồng bộ để nâng cao chất lượng dạy và học môn học GDQP - AN hiện nay
nói chung, ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội nói riêng.


15
Quán triệt và thực hiện các chỉ thị, nghị định của Đảng và Chính phủ về
công tác GDQP-AN, những năm qua Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân Hà Nội (KTQD) đã lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị
nâng cao nhận thức, đề cao trách nhiệm, thực hiện ngày càng hiệu quả công tác
bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và GDQP-AN cho
sinh viên. Để thực hiện nhiệm vụ này, Khoa Giáo dục Quốc phòng vừa tích cực,
chủ động tham mưu cho Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường về tổ chức thực

hiện công tác quốc phòng, quân sự địa phương nói chung, vừa phối hợp với các
cơ quan, đơn vị tổ chức bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho cán bộ, đảng viên và
giáo dục QP-AN cho sinh viên nói riêng.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý trường học
1.2.1.1. Quản lý
Cho đến nay có nhiều định nghĩa về quản lý [18]:
- Quản lý là “Biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm, và sau
đó hiểu được rằng, họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”
(F.Taylor).
- Quản lý là “Việc thực hiện các mục đích của tổ chức một cách hiệu quả
và đạt hiệu suất tốt, thông qua việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát
các nguồn lực của tổ chức” (Daft, 2000).
- Quản lý là “quá trình tập hợp và sử dụng các nhóm nguồn lực theo định
hướng mục tiêu để thực hiện các nhiệm vụ trong bối cảnh tổ chức” (Hitt, 2007).
- Quản lý là việc hiện thực hóa các mục tiêu của tổ chức theo cách có hiệu
quả và hiệu suất cao, thông qua việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm
soát các nguồn lực của tổ chức” ( Richard Winter, 2007).
Định nghĩa này bao quát được nội dung các định nghĩa khác về quản lý,
nó chỉ rõ được quy trình hành động trong quản lý - quy trình quản lý.


16
Một số quan niệm khác như xem quản lý là hoạt động nhằm phối hợp nỗ
lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành
tựu của xã hội; quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để
tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động. Hay quản lý
được hiểu là “quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận động các
hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra”.
Quản lý đặc trưng cho quá trình điều khiển và dẫn hướng tất cả các bộ

phận của một tổ chức, thường là tổ chức kinh tế, thông qua việc thành lập và
thay đổi các nguồn tài nguyên (nhân lực, tài chính, vật tư, trí thức và giá trị vô
hình).
Từ đó có thể đưa ra khái niệm: “Quản lý là sự tác động có tổ chức,
có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm
sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các thời cơ của tổ chức để đạt mục tiêu
đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến động”.
Quản lý chính là sự kết hợp được mọi nỗ lực chung của mọi người trong
tổ chức và sử dụng tốt nhất các nguồn lực của tổ chức để đạt tới mục tiêu chung
của tổ chức và mục tiêu riêng của mỗi người một cách khôn khéo và có hiệu quả
nhất.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
P.V. Khuđôminxky cho rằng: “Quản lý giáo dục (QLGD) là tác động có
hệ thống, có kế hoạch, có ý thức, có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp
khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ Giáo dục và Đào tạo đến
trường học) nhằm đảm bảo việc giáo dục Cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ,
đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ trên cơ sở nhận thức và sử
dụng các quy luật về giáo dục, của sự phát triển cũng như các quy luật khách
quan của quá trình dạy học và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm lý của
trẻ em” [13].


17
Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt động dạy học.
Có tổ chức được các hoạt động dạy học, thực hiện các tính chất của nhà trường
phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể
hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng
yêu cầu của nhân dân, đất nước” [9].
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “QLGD là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho

hệ thống vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện
được tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là
quá trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến,
tiến lên trạng thái mới về chất” [23].
Quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức
và hướng đích của chủ thể quản lý ở mọi cấp khác nhau, đến tất cả các mắt xích
của toàn bộ hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự hình thành nhân cách cho thế
hệ trẻ trên cơ sở quy luật của quá trình giáo dục về sự phát triển thể lực, trí lực
và tâm lực của sinh viên.
1.2.1.3. Quản lý trường học
Trường học là tổ chức giáo dục cơ sở mang tính nhà nước và xã hội, trực
tiếp làm công tác giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, trực tiếp tham gia vào quá trình
thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước.
Nhà trường là tế bào chủ chốt của bất kỳ hệ thống quản lý giáo dục nào
từ trung ương đến địa phương. Vì vậy, trường học nói chung là khách thể cơ bản
của các cấp quản lý, vì xét đến cùng việc quản lý trong các hệ thống giáo dục ở
tất cả các cấp đều nhằm mục đích là tạo điều kiện thuận lợi, tối ưu cho việc đạt
mục tiêu chất lượng và hiệu quả của các trường học.
Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục
của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành
theo nguyên lý giáo dục để tiến tới đạt mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối
với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [9].


18
Theo Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là hoạt động của các cơ quan
quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của GV, học sinh và các lực
lượng giáo dục khác cũng như huy động tối ưu các nguồn lực giáo dục để nâng
cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường” [29].

Từ đó, chúng ta có thể thấy rằng: Quản lý nhà trường thực chất là hệ thống
các tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên tất cả các
nguồn lực nhằm đẩy mạnh hoạt động của nhà trường theo nguyên lý giáo dục,
trong đó hoạt động trọng tâm là hoạt động dạy học.
Quản lý nhà trường bao gồm nhiều nội dung: Quản lý GV, quản lý học sinh,
quản lý cơ sở vật chất và thiết bị dạy học, quản lý tài chính, quản lý hoạt động
dạy học và giáo dục SV... Trong đó, quản lý hoạt động dạy học là một trong
những nội dung quan trọng nhất của công tác quản lý nhà trường.
1.2.2. Hoạt động dạy học, quản lý hoạt động dạy học
1.2.2.1. Hoạt động dạy học
Trong lịch sử phát triển của giáo dục và nhà trường, dạy học tồn tại
như là một hiện tượng xã hội đặc biệt, một quá trình hoạt động phối hợp giữa
người dạy và người học. Nhờ đó, mỗi cá nhân có thể làm phong phú vốn học
vấn của mình bằng kho tàng trí tuệ của nhân loại thông qua quá trình dạy học
(QTDH).
QTDH môn bao gồm hai hoạt động thống nhất biện chứng: hoạt động
giảng dạy của người dạy và hoạt động học tập của người học. Trong đó, dưới sự
lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của người dạy, người học tự giác,tích cực tự tổ
chức, tự điều khiển hoạt động học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ
dạy học.
Trong QTDH môn, hoạt động giảng dạy của giáo viên/giảng viên có vai
trò chủ đạo, hoạt động học của học sinh/sinh viên có vai trò tự giác, chủ động,
tích cực. Hoạt động giảng dạy của giáo viên/giảng viên và hoạt động học tập của
học sinh/sinh viên có liên hệ tác động lẫn nhau. Nếu thiếu một trong hai hoạt
động đó, việc dạy học không diễn ra. Hai hoạt động này song song tồn tại và


19
phát triển trong cùng một quá trình thống nhất. Quá trình này là một bộ phận
hữu cơ của quá trình giáo dục tổng thể. Trong đó:

- Vai trò của nhà sư phạm là định hướng, thực hiện việc truyền thụ tri
thức, kỹ năng và kỹ xảo đến người học một cách hợp lý, khoa học, do đó luôn
có vai trò và tác dụng chủ đạo.
- Người học tiếp thu một cách có ý thức, độc lập và sáng tạo hệ thống
kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo, hình thành năng lực và thái độ đúng đắn. Người
học là chủ thể sáng tạo của việc học, của việc hình thành nhân cách của bản
thân.
Như vậy, hoạt động dạy - học bao gồm hai hoạt động quan hệ mật thiết
với nhau; đó là hoạt động dạy của thầy với vai trò chỉ đạo, tổ chức và điều
khiển việc lĩnh hội, chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ và hoạt
động học của trò nhằm tổ chức các điều kịên đảm bảo cho lĩnh hội tri thức, kỹ
năng và thái độ và chuyển chúng thành kinh nghiệm của cá nhân.
Trong hoạt động dạy, công việc của thầy là tổ chức, điều khiển những
hoạt động chiếm lĩnh tri thức của học sinh/sinh viên. Hoạt động dạy học môn
đòi hỏi ngày càng phải đáp ứng yêu cầu của thực tiễn với phương pháp dạy học
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, bồi
dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập
và ý chí vươn lên.
Hoạt động học được thể hiện ở việc học sinh/sinh viên tiếp nhận nhiệm vụ
và kế hoạch do GV đề ra, có kỹ năng thực hiện các thao tác học tập nhằm giải
quyết các nhiệm vụ do GV yêu cầu, tự điều chỉnh hoạt động học tập dưới sự kiểm
tra của GV và tự kiểm tra của bản thân, tự tổ chức, tự điều khiển, tự đánh giá hoạt
động dạy học để đạt kết quả tốt. Nội dung của hoạt động học nhằm bồi bổ tri
thức, nâng cao kỹ năng và luyện rèn thái độ (phẩm chất).
Hoạt động dạy học thường diễn ra trong một thời gian, vì thế gọi là quá trình
dạy học.
Quá trình dạy học:”là quá trình hoạt động của hai chủ thể, trong đó dưới
sự tổ chức, hướng dẫn và điều khiển của giáo viên, học sinh nhận thức lại nền



20
văn minh nhân loại và rèn luyện hình thành kỹ năng hoạt động, tạo lập thái độ
sống tốt đẹp”.
- QTDH môn là một quá trình toàn vẹn, tích hợp của các thành tố: mục
đích và nhiệm vụ dạy học, nội dung dạy học, các phương pháp và phương tiện
dạy học, thầy giáo với hoạt động dạy và sinh viên với hoạt động học, kết quả
dạy học. Các thành tố của nó luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, quy
định lẫn nhau để tạo nên sự thống nhất biện chứng giữa:
+ Dạy và học
+ Truyền đạt và điều khiển trong dạy
+ Lĩnh hội và tự điều khiển trong học
+ Khái niệm khoa học là điểm xuất phát của dạy, lại là điểm kết thúc
của học.
- QTDH môn là hoạt động cộng tác giữa các chủ thể: giáo viên/giảng viên
- học sinh/sinh viên, giáo viên/giảng viên - nhóm học sinh/sinh viên.
- QTDH môn là quá trình nhận thức của học sinh/sinh viên dưới sự tổ
chức, điều khiển của giáo viên/giảng viên. Với tác động sư phạm của mình, thầy
tổ chức, điều khiển hoạt động học tập của trò. Một kết luận có giá trị thực tiễn
rút ra từ sự phân tích trên đối với người quản lý nhà trường là: hành động quản
lý (điều khiển hoạt động dạy học) của CBQL chủ yếu tập trung vào hoạt động
dạy của thầy và trực tiếp với thầy, gián tiếp với trò, thông qua hoạt động dạy của
thầy quản lý hoạt động học của trò và các điều kiện vật chất kỹ thuật.
1.2.2.2. Quản lý hoạt động dạy học
a. Quản lý hoạt động dạy học: là hệ thống các tác động có định hướng, có kế
hoạch của chủ thể quản lý lên tất cả các nguồn lực nhằm đẩy mạnh hoạt động
dạy của GV và hoạt động học của sinh viên để đạt mục tiêu dạy học đã định.
Quản lý hoạt động dạy học là quản lý quá trình dạy của GV và quá trình
học của học sinh. Đây là hai quán trình thống nhất, gắn bó hữu cơ.
Quá trình dạy và học là hệ thống những hành động liên tiếp của GV với học
sinh (được GV hướng dẫn), nhằm làm cho học sinh tự giác nắm vững hệ thống

kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và trong quá trình đó nắm vững năng lực nhận thức,


21
nắm được các yếu tố của văn hóa lao động trí óc và chân tay, hình thành những
cơ sở thế giới quan và nhân sinh quan đúng đắn.
Nếu xét dạy và học như một hệ thống thì quan hệ giữa hoạt động dạy và
hoạt động học là quan hệ điều khiển. Do đó, quản lý hoạt động dạy học của chủ
yếu tập trung trực tiếp vào quản lý hoạt động dạy của thầy, thông qua hoạt động
dạy của thầy quản lý hoạt động học của trò để đạt được các mục tiêu dạy học.
b. Nội dung quản lý hoạt động dạy học:
- Tiếp cận theo các chức năng quản lý, thì nội dung quản lý hoạt động dạy
học là:
* Quản lý công tác kế hoạch dạy học;
* Quản lý công tác tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học;
* Quản lý công tác chỉ đạo thực hiện kế hoạch dạy học;
* Quản lý công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động dạy học.
- Tiếp cận theo các thành tố của QTDH, thì nội dung quản lý HĐDH là:
* Quản lý mục tiêu, chương trình, kế hoạch dạy học;
* Quản lý nội dung, phương pháp dạy học và đánh giá kết quả;
* Quản lý các điều kiện đảm bảo cho HĐDH.
1.2.2.3. Biện pháp quản lý hoạt động dạy học
Biện pháp là cách hành động lựa chọn sao cho phù hợp với mục đích [31].
Trong quản lý, biện pháp quản lý là tổ hợp nhiều cách thức tiến hành của
chủ thể quản lý nhằm tác động đến đối tượng quản lý để giải quyết các vấn đề
trong công tác quản lý, làm cho hệ quản lý vận hành dạt mục tiêu mà chủ thể
quản lý đã đề ra và phù hợp với quy luật khách quan. Như vậy, biện pháp quản
lý là việc người quản lý sử dụng các chức năng quản lý, các công cụ quản lý, các
phương pháp quản lý, các nguyên tắc quản lý một cách phù hợp cho từng tình
huống vào đối tượng, đơn vị của mình quản lý để đưa đối tượng hoặc đơn vị đó

đi đúng mục tiêu và đạt được mục tiêu mà người quản lý xây dựng, đưa chất
lượng quản lý lên một vị trí mới, tình trạng mới tốt hơn hiện tại. Do vậy, người
quản lý phải có kiến thức sâu rộng, có kinh nghiệm để gắn kết các biện pháp với
nhau, giải quyết các mâu thuẫn giữa các biện pháp, biết tiên liệu trước các hoàn


22
cảnh, tình huống quản lý, trên tình thần tình huống nào có giải pháp nấy thì
người quản lý mới có được quyết định chính xác trong việc lựa chọn biện pháp
quản lý hữu hiệu.
Quản lý hoạt động dạy học về bản chất là quá trình người quản lý tác
động vào các thành tố cấu trúc của hoạt động dạy học nhằm phát huy tối đa vai
trò, vị trí của các thành tố nhằm thực hiện được các nhiệm vụ dạy học. Đồng
thời việc quản lý phải tuân thủ các qui luật của quá trình dạy học, giáo dục diễn
ra trong môi trường sư phạm, lấy hoạt động và quan hệ dạy - học của thầy và trò
làm đối tượng quản lý.
Quản lý hoạt động dạy của giảng viên trong trường Đại học bao gồm
những nội dung chủ yếu sau:
-

Quản lý việc xây dựng kế hoạch dạy học của giảng viên;
Quản lý việc chuẩn bị bài giảng;
Quản lý việc tổ chức hoạt động dạy học trên lớp của giảng viên;
Quản lý quá trình hợp tác với người học nhằm thực hiện mục tiêu dạy

học và đổi mới phương pháp giảng dạy;
- Quản lý các biện pháp nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, phương
pháp giảng dạy của giảng viên;
- Quản lý việc thực hiện đánh giá đối với giảng viên.
Quản lý hoạt động học của sinh viên trong trường đại học, cao đẳng

thường bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
-

Quản lý việc giáo dục thái độ học tập của sinh viên;
Quản lý việc thực hiện nội quy, quy chế học tập của sinh viên;
Quản lý hoạt động tự học của sinh viên;
Quản lý kết quả học tập của sinh viên;
Quản lý công tác đánh giá (khen thưởng và kỷ luật) sinh viên.

Môi trường dạy học trong nhà trường phải là nơi giảng viên được phát
huy hết khả năng của mình trong giảng dạy và nghiên cứu, được làm việc trong
một bầu không khí thoải mái, thân thiện; sinh viên được tôn trọng, khuyến
khích, động viên trong học tập, được phát huy hết khả năng tư duy sáng tạo của
mình.
Để đảm bảo quản lý được sự tương tác giữa các yếu tố này đòi hỏi người
quản lý phải vận dụng có hiệu quả các quy định, chế định về giáo dục đào tạo,


23
thực hiện có hiệu quả các chức năng quản lý và tận dụng các điều kiện trong và
ngoài nhà trường để đảm bảo cho hoạt động dạy học được vận hành đúng cơ
chế. Theo đó giảng viên phải là người hỗ trợ, hướng dẫn quá trình học tập của
sinh viên. Sinh viên trở thành người chủ động, là thợ chính trong hoạt động học
tập của mình dưới sự hướng dẫn, hỗ trợ của giảng viên. Môi trường dạy học phải
phát huy được những ảnh hưởng tích cực, thuận lợi cho hoạt động dạy học.
1.2.2.4. Tình hình an ninh thế giới, khu vực, trong nước và nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Kinh tế thế giới vẫn gặp khó khăn, khủng hoảng kinh tế chưa được khắc
phục nhưng sẽ từng bước phục hồi, cách mạng khoa học - công nghệ phát triển
mạnh tạo ra cơ hội và thách thức mới trong phát triển kinh tế.

Mỹ chuyển trọng tâm chiến lược sang châu Á - Thái Bình Dương nhằm
củng cố vị thế siêu cường số 1 và lợi ích chiến lược, thực thi phương thức lật đổ
các chính quyền cản trở lợi ích của Mỹ bằng “cách mạng màu, cách mạng đường
phố”, bạo loạn kết hợp với bao vây cấm vận kinh tế, gây sức ép chính trị, ngoại
giao; tạo ra lực lượng đối lập bên trong, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ, kích động
gây bạo loạn tạo cớ can thiệp.
Trung Quốc thực hiện chủ trương “Chấn hưng dân tộc Trung Hoa”, trỗi
dậy mạnh mẽ, chủ động can dự vào các vấn đề chính trị, kinh tế, ngoại giao, an
ninh thế giới; tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ lợi ích cốt lõi, giành chủ
quyền biển, đảo ở biển Hoa Đông và Biển Đông v.v.. nhằm trở thành cường
quốc hàng đầu ở châu Á và thế giới, cạnh tranh vai trò lãnh đạo của Mỹ; chủ
động sử dụng con bài đầu tư, viện trợ kinh tế, lôi kéo, chi phối một số nước, chia
rẽ ASEAN, Việt Nam, Lào, Campuchia.
Bất ổn chính trị, xung đột cục bộ trên thế giới và khu vực có những diễn
biến khôn lường, có chiều hướng gia tăng; cạnh tranh giữa Mỹ và các cường
quốc làm cho tình hình thế giới diễn biến phức tạp; các thế lực thù địch đẩy
mạnh “diễn biến hòa bình”, kích động thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,


24
“bạo loạn” lật đổ chế độ; tranh chấp Biển Đông diễn biến phức tạp đe dọa chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia…
Sự nghiệp đổi mới của nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý
nghĩa lịch sử, giữ vững sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội; thu nhập và đời
sống của nhân dân được cải thiện v.v… Tuy nhiên còn nhiều tồn tại yếu kém và
phát sinh những nhân tố mới ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc:
Một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống; phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, tham nhũng,
quan liêu làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Quản lý nhà nước trên

nhiều lĩnh vực còn yếu kém, nhiều vụ việc xảy ra do yếu kém trong quản lý nhà
nước gây ra băn khoăn, lo lắng trong nhân dân.
Kinh tế tuy ổn định và tăng trưởng nhưng chưa bền vững; năng suất, chất
lượng hiệu quả, khả năng cạnh tranh thấp; đầu tư dàn trải, lãng phí còn lớn; tỷ lệ
thất nghiệp, nghèo đói còn cao. Tình hình tranh chấp, khiếu kiện của nhân dân,
nhất là khiếu kiện về đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng còn diễn biến phức tạp
và chưa được giải quyết thoả đáng, gây bức xúc trong xã hội, các thế lực thù
địch lợi dụng, kích động, chia rẽ sự đoàn kết nhân dân với Đảng, Nhà nước…
Từ năm 1991, theo quyết định 2732/QĐ của Bộ trưởng Bộ giáo dục và
đào tạo, bậc ĐH, CĐ, THCN, dạy nghề, trung học phổ thông thuộc hệ thống
giáo dục quốc dân, các trường chính trị, hành chính và đoàn thể. Nghị định số
116/2007/NĐ-CP ngày 10/07/2007 của Chính phủ đã bổ sung nội dung giáo dục
an ninh trong chương trình thành GDQP-AN.
Năm 2012 Bộ GD&ĐT ban hành thông tư Số: 31/2012/TT- BGDĐT ngày
12 tháng 9 năm 2012 Ban hành chương trình giáo dục quốc phòng - an ninh qui
định đào tạo môn học GDQP - AN theo tín chỉ.
Để thực hiện nhiệm vụ GDQP - AN cho các trường trong hệ thống giáo
dục quốc dân thì Bộ GD và ĐT đã phối hợp với Bộ quốc phòng tiến hành tổ
chức hệ thống cơ sở GDQP - AN với hệ thống các trung tâm GDQP, các khoa
quân sự và tổ GDQP ở các trường ĐH, CĐ, THCN, dạy nghề, trung học phổ


25
thông. Hiện nay trên cả nước theo quy hoạch của Bộ GD và ĐT đến năm 2020
sẽ hình thành 20 Trung tâm (hiện nay có 14 trung tâm) và các khoa GDQP trực
thuộc các trường ĐH trong cả nước.
1.2.2.5. Một số khái niệm liên quan đến giáo dục quốc phòng - an ninh
- Quốc phòng: Là công việc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể các
hoạt động đối nội, đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học
...của Nhà nước để phòng thủ quốc gia.

- Quốc phòng toàn dân: Là nền quốc phòng mang tính chất “của dân, do
dân, vì dân”; phát triển theo hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường
và ngày càng hiện đại.
- An ninh quốc gia: Là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội
của một quốc gia.
- An ninh nhân dân: Là sự nghiệp của toàn dân, do dân tiến hành; lực
lượng ANND làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước.
- Giáo dục quốc phòng – an ninh: Hoạt động có kế hoạch, có nội dung
chương trình phương pháp và hình thức phù hợp với từng đối tượng, nhằm
truyền thụ cho họ những tri thức, bồi dưỡng kinh nghiệm, kỹ năng quân sự và
những vấn đề về QP-AN cần thiết để họ sẵn sàng làm tốt nghĩa vụ QP-AN bảo
vệ Tổ quốc theo chức trách.
1.2.2.6. Tầm quan trọng quản lý hoạt động dạy học môn GDQP - AN ở các
trường CĐ, ĐH
Giáo dục quốc phòng là nội dung của nền giáo dục quốc dân, là môn học
chính khoá trong chương trình giáo dục và đào tạo từ Trung học phổ thông đến
Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng, Đại học. Môn học này có vai trò quan
trọng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
Qua học phần giáo dục quốc phòng giúp sinh viên có những hành động
đúng đắn, tránh được các tệ nạn xã hội. Đồng thời giúp sinh viên định hướng


×