Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Bài THỰC TRẠNG VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.95 KB, 31 trang )

BẢNG XÂY DỰNG KẾ HOẠCH
Nội dung

Thời hạn
hoàn thành

Dự kiến kết quả Người thực hiện

Đánh giá

Xây dựng đề cương
khái quát

16/08/2016

Đề cương khái
quát

Cả nhóm

Đúng tiến độ

Xây dựng đề cương
chi tiết

23/08/2016

Đề cương chi
tiết

Cả nhóm



Đúng tiến độ

Sưu tầm tài liệu

30/08/2016

Thu được tài
liệu

Dung

Thông tin còn
chưa đầy đủ

Viết tường thuật tài
liệu

06/09/2016

Tường thuật chi Dung
tiết

Đúng tiến độ

Khảo sát thuộc địa

20/09/2016

Khảo sát 4 quận Cả nhóm

nội thành Hà
Nội

Đúng tiến độ

Xây dựng bảng hỏi

06/09/2016

Bảng hỏi 12 câu Dung

Đúng tiến độ

Điều tra bằng bảng
hỏi

Từ 07/0920/09/2016

Được 200 câu
trả lời

Cả nhóm

Được 113 câu trả
lời, ít hơn dự
kiến

Xử lý số liệu

30/09/2016


Tổng hợp và
phân tích số
liệu, vẽ biểu đồ

Phương

Hoàn thành

Viết chương 1 của
báo cáo KH

10/10/2016

Hoàn thiện

Dung

Đúng tiến độ

Viết chương 2 của
báo cáo KH

20/10/2016

Hoàn thiện

Dung

Đúng tiến độ


Viết chương 3 của
báo cáo KH

30/10/2016

Hoàn thiện

Phương

Đúng tiến độ

Hoàn thành báo cáo

01/11/2016

Hoàn thiện

Dung

Đúng tiến độ

1


In ấn, đóng quyển

05/11/2016

Hoàn thiện


Phương

Đúng tiến độ

Nghiệm thu đề tài

10/11/2016

Hoàn thiện

Dung

Đúng tiến độ

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỰC PHẨM BẨN TRONG ĐỜI SỐNG CON
NGƯỜI……………………………………………………………………………3
1.1 Thực phẩm ……………………………………………………………………3
1.2 An toàn thực phẩm…………...………………………………………………..4
1.3 Vai trò của an toàn thực phẩm đối với sức khỏe con người…………………...4
1.4 Tầm quan trọng của an toàn thực phẩm trong đời sống con người……………5
1.5 Vấn đề an toàn thực phẩm trong đời sống con người…………………………6
1.5.1 Chính sách của Nhà nước về an toàn thực phẩm……………………………6
1.5.2 Nguyên tắc quản lý an toàn thực phẩm……………………………………...7
1.5.3 Những hành vi bị cấm……………………………………………………….7
1.5.4 Xử lí vi phạm Pháp luật về an toàn thực phẩm……………………………...8
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY……………………………………….5

2.1Tổng quan về vấn đề thực phẩm trên địa bàn Hà Nội………5
2.2 Nguồn gốc thực phẩm bẩn
2.3 Sự hiện diện của thực phẩm bẩn trong đời sống của người dân thành phố Hà
Nội hiện nay
2.4 Nguyên nhân của sự tràn lan thực phẩm bẩn trên địa bàn thành phố Hà Nội…
2.4.1 Chủ quan
2


2.4.1.1 Hiểu biết của người dân về thực phẩm bẩn
2.4.1.2 Ý thức của người tiêu dùng Hà Nội
2.4.2 Khách quan
2.4.2.1 Cơ chế quản lý của các cơ quan chức năng
2.4.2.2 Ý thức và đạo đức của những người cung cấp thực phẩm
2.5 Hậu quả, tác động đối với con người.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CẢI THIỆN TÌNH TRẠNG THỰC PHẨM MẤT VỆ
SINH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY……………………17
3.1 Nâng cao nhận thức của người dân……………………………….…………..17
3.1.1 Phổ cập kiến thức về thực phẩm và thực phẩm bẩn.
3.1.2 Tuyên truyền nâng cao ý thức tiêu dùng của người dân Hà Nội
3.2 Từ góc độ quản lý nhà nước, trách nhiệm của các cơ quan chức năng
3.2.1 Các biện pháp thắt chặt cơ chế quản lý của cơ quan chức năng
3.2.2 Hoàn thiện các quy định chặt chẽ về an toàn thực phẩm và chế tài xử lý
những cá nhân, tổ chức cung cấp thực phẩm không đảm bảo vệ sinh
Kết luận……………………………………………………………………………
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………………………..

3



LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài: Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là một trong
những vấn đề quốc tế dân sinh vô cùng quan trọng, không chỉ với sức khỏe, phát
triển nòi giống mà còn liên quan đến phát triển kinh tế, văn hóa và an ninh của mỗi
địa phương, mỗi quốc gia. Vấn đề bảo vệ và vệ sinh an toàn thực phẩm đang được
rất nhiều nước kể cả những nước đã và đang phát triển quan tâm, đặc biệt là các
nước khu vực châu Á, nơi đang tập trung sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xã hội.
Sự tập trung ngày càng cao các khu vực dân cư tại các đô thị, thành phố công
nghiệp đang được hiện đại hóa cũng như sự mở rộng giao lưu quốc tế, đã đòi hỏi
từng nước không những phải tăng số lượng lương thực thực phẩm sản xuất mà còn
phải đảm bảo chất lượng an toàn và có giá trị dinh dưỡng cao đối với thực phẩm
tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
Mục đích nghiên cứu thực trạng này nhằm phân tích nguyên nhân, hậu quả
và tìm ra các giải pháp nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người dân,
trước mắt là trên địa bàn Hà Nội, nơi tập trung đông dân cư sinh sống, là nơi mà
mọi nguồn hàng, nguồn thực phẩm đều đổ về để tiêu thụ với số lượng lớn và không
ngừng gia tăng.
Mục tiêu cụ thể: Đối tượng khách thể nghiên cứu (Đối tượng: Thực trạng vệ
sinh an toàn thực phẩm. Khách thể: Người dân sinh sống, làm ăn trên địa bàn Hà
Nội). Phạm vi nghiên cứu (Phạm vi không gian: Hà Nội. Phạm vi thời gian: từ năm
2010 – nay).

4


Phương pháp nghiên cứu sử dụng phương pháp thu thập thông tin, phương
pháp điều tra bảng hỏi, phương pháp khảo sát thực địa.
Bố cục đề tài: ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo gồm 3
chương.


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ THỰC PHẨM TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
1.1. Thực phẩm.
Thực phẩm hay còn được gọi là thức ăn là bất kỳ vật phẩm nào, bao gồm
chủ yếu các chất: chất bột (cacbohydrat), chất béo (lipit), chất đạm (protein),
hoặc nước, mà con người hay động vật có thể ăn hay uống được, với mục đích cơ
bản là thu nạp các chất dinh dưỡng nhằm nuôi dưỡng cơ thể hay vì sở thích.
5


Quan trọng nhất khái niệm thực phẩm lại tùy thuộc vào mỗi vùng miền mỗi
con người. Có những thứ nới này được coi là thực phẩm nhưng nơi khác thì không.
Ví dụ: ở phương Tây họ không xem lục phủ ngũ tạng là thực phẩm nhưng người
phương Đông lại xem dó là nguồn thực phẩm tuyệt vời.......
Các thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật, động vật, vi sinh vật hay các sản
phẩm chế biến từ phương pháp lên men như rượu, bia. Mặc dù trong lịch sử thì
nhiều nền văn minh đã tìm kiếm thực phẩm thông qua việc săn bắn và hái lượm,
nhưng ngày nay chủ yếu là thông qua gieo trồng, chăn nuôi, đánh bắt và các
phương pháp khác.
Phần lớn các nền văn hóa đều có nghệ thuật ẩm thực. Văn hóa ẩm thực là
một tập hợp cụ thể của các truyền thống, thói quen, sở thích, cách thức chọn lựa
thực phẩm và tập quán trong nấu ăn. Việc nghiên cứu các khía cạnh của ẩm thực
gọi là khoa học về nghệ thuật ẩm thực. Nhiều nền văn hóa đã đa dạng hóa các
chủng loại thực phẩm của mình bằng các phương pháp chế biến, nấu nướng và sản
xuất. Bên cạnh đó, việc buôn bán các loại lương thực, thực phẩm cũng tạo điều
kiện để các nền văn hóa đa dạng hóa hơn nữa các chủng loại thực phẩm của mình.
Cách phân loại thực phẩm cũng như khái niệm của nó hết sức đa dạng và
không có tiêu chuẩn nào để đánh giá.Nhiều nơi phân loại thực phẩm theo nguồn
gốc của chúng như thực phẩm có nguồn gốc động vật, thực phẩm có nguồn gốc
thực vật. Đối với thực phẩm có nguồn gốc động vật lại được chia thành trên cạn,

dưới nước và trên trời. Thực phẩm có nguồn gốc thực vật thì được chia thành rau,
củ, quả, hạt, gia vị.Nhiều nơi lại phân loại theo mức độ quan trọng của chúng trong
các bữa ăn hàng ngày như thực phẩm chính, thực phẩm phụ. Thức ăn chính chủ
yếu là tinh bột như lúa, ngô, sắn, bột mỳ, khoai tây…Thức ăn phụ là các loại trái
cây, bánh kẹo, nước ngọt,…Ngoài ra còn có cách phân loại là thực phẩm tươi sống
và thực phẩm chế biến sẵn, hay chia theo thực phẩm chay và thực phẩm mặn…

1.2. An toàn thực phẩm.
An toàn thực phẩm hay vệ sinh an toàn thực phẩm hiểu theo nghĩa hẹp là
một môn khoa học dùng để mô tả việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực
phẩm bằng những phương pháp phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực phẩm
gây ra. Vệ sinh an toàn thực phẩm cũng bao gồm một số thói quen, thao tác trong
khâu chế biến cần được thực hiện để tránh các nguy cơ sức khỏe tiềm năng nghiêm
trọng. Hiểu theo nghĩa rộng, vệ sinh an toàn thực phẩm là toàn bộ những vấn đề
6


cần xử lý liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm nhằm đảm bảo
cho sức khỏe của người tiêu dùng. Đây là một vấn đề và nguy cơ rất lớn mà các
nước đang phát triển đã và đang phải đối mặt như Việt Nam, Trung Quốc....
Thực phẩm có thể truyền bệnh từ người sang người cũng như là một môi
trường phát triển cho các vi khuẩn có thể gây ra ngộ độc thực phẩm. Cuộc tranh
luận về an toàn thực phẩm biến đổi gen bao gồm các vấn đề như tác động của thực
phẩm biến đổi gen đối với sức khỏe của các thế hệ xa hơn và ô nhiễm môi trường,
di truyền mà có thể phá hủy đa dạng sinh học tự nhiên. Ở các nước phát triển có
những tiêu chuẩn rất phức tạp và nghiêm ngặt cho việc chế biến, bảo quản và tiêu
thụ thực phẩm, trong khi ở các nước đang phát triển và kém phát triển thì tiêu
chuẩn này quá thấp và việc quản lý vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm tỏ ra quá
lỏng lẽo, yếu kém và xã hội những nước này thường ngày phải đối mặt với nguy cơ
ngộ độc thực phẩm, tử vong hàng ngày hàng giờ.

1.3. Vai trò của an toàn thực phẩm đối với sức khỏe con người
Mối nguy hại về an toàn thực phẩm (Food safety hazards) là tác nhân sinh
học, hóa học hoặc vật lý trong thực phẩm hoặc tình trạng của thực phẩm có khả
năng gây ra ảnh hưởng xấu đối với sức khỏe. Chú ý không nhầm thuật ngữ “Mối
nguy hại” với thuật ngữ “Rủi ro” mà trong ngữ cảnh an toàn thực phẩm “rủi ro” có
ý chỉ sự kết hợp giữa xác suất của ảnh hưởng bất lợi về sức khỏe như bị bệnh và
mức độ nghiêm trọng của ảnh hưởng đó (như chết, vào bệnh viện, không làm việc
được,…) khi chịu tác động bởi 1 mối nguy hại nhất định. Mối nguy hại về an toàn
thực phẩm bao gồm cả các chất gây dị ứng. Đối với thức ăn và thành phần thức ăn
gia súc, mối nguy hại về an toàn thực phẩm liên quan đến những rủi ro có thể có
trong và hoặc trên thức ăn và thành phần thức ăn gia súc có thể truyền sang thực
phẩm thông qua việc tiêu thụ thức ăn gia súc đó, do đó có khả năng gây ra ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe con người. Trong trường hợp các hoạt động không liên
quan trực tiếp đến thức ăn gia súc và thực phẩm (ví dụ như sản xuất vật liệu bao
gói, đại lý làm sạch,..) thì các mối nguy hại về an toàn thực phẩm liên quan là
những mối nguy hại có thể truyền trực tiếp hoặc gián tiếp vào thực phẩm do mục
đích sử dụng dự kiến của sản phẩm và/hoặc dịch vụ được cung cấp và do đó có khả
7


năng gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Vậy nên an toàn thực phẩm đóng
vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe cho con người
1.4. Tầm quan trọng của an toàn thực phẩm trong đời sống con người.
Vệ sinh an toàn thực phẩm trong đời sống con người là vô cùng quan trọng.
Trước hết, thực phẩm là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho sự phát triển của cơ
thể, đảm bảo sức khỏe con người nhưng song cũng là nguồn có thể gây bệnh nếu
không đảm bảo vệ sinh thực phẩm. Không có thực phẩm nào được coi là quý báu
dinh dưỡng nếu nó không bình yên cho cơ thể. Cho nên thực phẩm có tầm quan
trọng rất lớn đối với cơ thể chúng ta.
Về lâu dài, thực phẩm chẳng những có ảnh hưởng lớn đối với sức khỏe mỗi

loài người mà còn tác động vĩnh viễn đến nòi giống của dân tộc. Sử dụng các thực
phẩm không đảm bảo chất lượng có thể bị ngộ độc cấp tính với các triệu chứng dễ
nhận thấy, nhưng sự gian nguy lâu dài là sự thu thập dần các chất độc hại ở một vài
cơ quan trong cơ thể sau một thời điểm mới phát bệnh hoặc có thể gây các khuyết
tật, dị dạng cho thế hệ tương lai. Những ảnh hưởng tới sức khỏe đó dựa vào các tác
nhân gây bệnh. Những trẻ suy dinh dưỡng, phụ lão, người ốm càng nhạy cảm với
các bệnh do thực phẩm không đảm bảo vệ sinh nên càng có nguy cơ suy dinh
dưỡng và bệnh nhiều hơn.
Hơn thế nữa, an toàn thực phẩm còn ảnh hưởng tới kinh tế. Đối với nước ta
cũng như nhiều nước đang sản xuất, lương thực thực phẩm là một loại sản phẩm
chiến lược, ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa chính trị rất quan trọng. Để cạnh
tranh trên thị trường quốc tế, thực phẩm chẳng những cần được sản xuất, chế biến,
bảo quản phòng tránh ô nhiễm các loại vi sinh vật mà còn không được chứa các
chất hóa học tổng hợp hay thiên nhiên vượt quá mức quy định cho phép của Nhà
nước hoặc của quốc tế, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.
Những thiệt hại khi thực phẩm không an toàn sẽ trở nên nhiều hậu quả khác
nhau, từ bệnh cấp tĩnh, mãn tính đến tử vong. Thiệt hại chính do các bệnh gây ra từ
thực phẩm đối với cá nhân là chi phí khám bệnh, hồi phục sức khỏe, chi phí do
8


phải chăm sóc người đau yếu, sự mất lương lậu do phải nghỉ làm… Đối với nhà
sản xuất, đó là những chi phí phải thu hồi, cất giữ sản phẩm, hủy hoặc loại bỏ sản
phẩm, chi phí nộp phạt theo chế tài của Nhà nước, những thiệt hại do mất lợi nhuận
quảng cáo,… và tổn thất nặng nề nhất là mất lòng tin của người tiêu dùng. Ngoài ra
còn có các thiệt hại khác như phải điều tra, khảo sát, phân tích, thẩm tra độc hại,
giải quyết hậu quả,…
Vì thế, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để đề phòng các bệnh gây ra từ
thực phẩm có ý nghĩa thực tế rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế, môi trường
sống của các nước đã và đang phát triển, cũng như nước ta. Mục tiêu hàng đầu của

vệ sinh an toàn thực phẩm là đảm bảo cho người ăn tránh bị ngộ độc do ăn phải
thức ăn bị ô nhiễm hoặc có chất độc, thực phẩm phải đảm bảo lành và sạch.
1.5. Vấn đề an toàn thực phẩm trong đời sống con người.
1.5.1. Chính sách của Nhà nước về an toàn thực phẩm.
Tại điều 4, Luật An toàn thực phẩm đã quy định các chính sách về an toàn
thực phẩm. Theo đó đã đề cập đến một số nội dung đáng chú ý bao gồm: Xây dựng
chiến lược, quy hoạch tổng thể về bảo đảm an toàn thực phẩm, quy hoạch vùng sản
xuất thực phẩm an toàn theo chuỗi cung cấp thực phẩm được xác định là nhiệm vụ
trọng tâm ưu tiên.
Sử dụng nguồn lực nhà nước và các nguồn lực khác đầu tư nghiên cứu khoa
học và ứng dụng công nghệ phục vụ việc phân tích nguy cơ đối với an toàn thực
phẩm; xây dựng mới, nâng cấp một số phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn khu vực,
quốc tế; nâng cao năng lực các phòng thí nghiệm phân tích hiện có; hỗ trợ đầu tư
xây dựng các vùng sản xuất nguyên liệu thực phẩm an toàn, chợ đầu mối nông sản
thực phẩm, cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm quy mô công nghiệp.
Khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm đổi mới công nghệ,
mở rộng quy mô sản xuất; sản xuất thực phẩm chất lượng cao, bảo đảm an toàn; bổ
sung vi chất dinh dưỡng thiết yếu trong thực phẩm; xây dựng thương hiệu và phát
triển hệ thống cung cấp thực phẩm an toàn.
Thiết lập khuôn khổ pháp lý và tổ chức thực hiện lộ trình bắt buộc áp dụng
hệ thống Thực hành sản xuất tốt (GMP), Thực hành nông nghiệp tốt (GAP), Thực
hành vệ sinh tốt (GHP), Phân tích nguy cơ và kiểm soát điểm tới hạn (HACCP) và
9


các hệ thống quản lý an toàn thực phẩm tiên tiến khác trong quá trình sản xuất,
kinh doanh thực phẩm.
Mở rộng hợp tác quốc tế, đẩy mạnh ký kết điều ước, thoả thuận quốc tế về
công nhận, thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực thực phẩm. Khen thưởng kịp thời tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm an toàn.

Khuyến khích, tạo điều kiện cho hội, hiệp hội, tổ chức, cá nhân trong nước,
tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư, tham gia vào các hoạt động xây dựng tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, kiểm nghiệm an toàn thực phẩm.
Tăng đầu tư, đa dạng các hình thức, phương thức tuyên truyền, giáo dục
nâng cao nhận thức người dân về tiêu dùng thực phẩm an toàn, ý thức trách nhiệm
và đạo đức kinh doanh của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm đối
với cộng đồng.
1.5.2. Nguyên tắc quản lý an toàn thực phẩm.
Bảo đảm an toàn thực phẩm là trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh thực phẩm.
Sản xuất, kinh doanh thực phẩm là hoạt động có điều kiện, tổ chức – cá nhân
sản xuất kinh doanh thực phẩm phải chịu trách nhiệm về an toàn thực phẩm do
mình sản xuất và kinh doanh.
Quản lý an toàn thực phẩm phải trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng,
quy định do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quần ban hành và tiêu chuẩn do tổ
chức, cá nhân sản xuất công bố áp dụng.
Quản lý an toàn thực phẩm phải được thực hiện trong suốt quá trình sản
xuất, kinh doanh thực phẩm trên cơ sở phân tích nguy cơ đối với an toàn thực
phẩm.
Quản lý an toàn thực phẩm phải đảm bảo phân công, phân cấp rõ ràng và
phối hợp liên ngành.
Quản lý an toàn thực phẩm phải đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
1.5.3. Những hành vi bị cấm.
Sử dụng nguyên liệu không thuộc loại dùng cho thực phẩm để chế biến thực
phẩm.
Sử dụng nguyên liệu thực phẩm đã quá thời hạn sử dụng, không rõ nguồn
gốc, xuất xứ hoặc không bảo đảm an toàn để sản xuất, chế biến thực phẩm.
10



Sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm đã quá thời hạn
sử dụng, ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc trong danh mục được phép sử
dụng nhưng vượt quá giới hạn cho phép; sử dụng hóa chất không rõ nguồn gốc,
hóa chất bị cấm sử dụng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
Sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc chết không rõ nguyên nhân,
bị tiêu hủy để sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
Sản xuất, kinh doanh:Thực phẩm vi phạm quy định của pháp luật về nhãn
hàng hóa.Thực phẩm không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Thực
phẩm bị biến chất. Thực phẩm có chứa chất độc hại hoặc nhiễm chất độc, tác nhân
gây ô nhiễm vượt quá giới hạn cho phép.Thực phẩm có bao gói, đồ chứa đựng
không bảo đảm an toàn hoặc bị vỡ, rách, biến dạng trong quá trình vận chuyển gây
ô nhiễm thực phẩm.Thịt hoặc sản phẩm được chế biến từ thịt chưa qua kiểm tra thú
y hoặc đã qua kiểm tra nhưng không đạt yêu cầu. Thực phẩm không được phép sản
xuất, kinh doanh để phòng, chống dịch bệnh. Thực phẩm chưa được đăng ký bản
công bố hợp quy tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp thực phẩm
đó thuộc diện phải được đăng ký bản công bố hợp quy. Thực phẩm không rõ nguồn
gốc, xuất xứ hoặc quá thời hạn sử dụng.
Sử dụng phương tiện gây ô nhiễm thực phẩm, phương tiện đã vận chuyển
chất độc hại chưa được tẩy rửa sạch để vận chuyển nguyên liệu thực phẩm, thực
phẩm.
Cung cấp sai hoặc giả mạo kết quả kiểm nghiệm thực phẩm.
Che dấu, làm sai lệch, xóa bỏ hiện trường, bằng chứng về sự cố an toàn thực
phẩm hoặc các hành vi cố ý khác cản trở việc phát hiện, khắc phục sự cố về an
toàn thực phẩm.
Người mắc bệnh truyền nhiễm tham gia sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
Sản xuất, kinh doanh thực phẩm tại cơ sở không có giấy chứng nhận cơ sở
đủ điều kiện an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật.
Quảng cáo thực phẩm sai sự thật, gây nhầm lẫn đối với người tiêu dùng.
Đăng tải, công bố thông tin sai lệch về an toàn thực phẩm gây bức xúc cho
xã hội hoặc thiệt hại cho sản xuất, kinh doanh.

Sử dụng trái phép lòng đường, vỉa hè, hành lang, sân chung, lối đi chung,
diện tích phụ chung để chế biến, sản xuất, kinh doanh thức ăn đường phố.
1.5.4. Xử lí vi phạm Pháp luật về an toàn thực phẩm.
Điều 6, xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm. Trong đó Luật quy
định mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm vừa
11


theo hành vi, vừa theo giá trị hàng hóa thực phẩm vi phạm. Cụ thể: “Mức phạt tiền
đối với vi phạm hành chính .... được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính; trường hợp áp dụng mức phạt cao nhất theo quy định của
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà vẫn còn thấp hơn 07 lần giá trị thực
phẩm vi phạm thì mức phạt được áp dụng không quá 07 lần giá trị thực phẩm vi
phạm”.
Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm vi phạm pháp luật về an
toàn thực phẩm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường và
khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật.
Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm quy định của Luật này hoặc các
quy định khác của pháp luật về an toàn thực phẩm thì tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại
thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Mức phạt tiền đối với vi phạm hành chính quy định tại khoản 1 Điều này
được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; trường
hợp áp dụng mức phạt cao nhất theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính mà vẫn còn thấp hơn 07 lần giá trị thực phẩm vi phạm thì mức phạt được áp
dụng không quá 07 lần giá trị thực phẩm vi phạm; tiền thu được do vi phạm mà có
bị tịch thu theo quy định của pháp luật.
Chính phủ quy định cụ thể về hành vi, hình thức và mức xử phạt các hành vi
vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm quy định tại Điều này.


12


Chương 2
THỰC TRẠNG VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
2.1 Tổng quan về vấn đề thực phẩm trên địa bàn Hà Nội.
Thành phố Hà Nội là nơi tập trung đông dân cư. Vì vậy nhu cầu về thực
phẩm rất lớn, đa dạng về cả chất lượng và số lượng. Do nhu cầu về số lượng cũng
như nhu cầu về chất lượng cao cho nên tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm trên thị
trường Hà Nội ngày càng gặp nhiều khó khăn.

13


Một thực tế cho thấy, một vài năm gần đây trên thị trường Hà Nội ngày càng
xuất hiện nhiều các trường hợp ngộ độc do thức ăn, nguyên nhân chủ yếu là do
thực phẩm không đảm bảo chất lượng vệ sinh.
Bảng 1: Tình hình ngộ độc thức ăn trên địa bàn Hà Nội năm 2012-2015

Năm
2012
2013
2014
2015
Tổng cộng

Số vụ
3

9
27
4
43

Số mắc
19
89
231
49
388
Nguồn: Trung tâm Y tế dự phòng.

Từ bảng số liệu ta thấy, trong 3 năm (2012-2014) trên thị trường Hà Nội số
vụ ngộ độc thực phẩm tăng nhanh (năm 2014 so với năm 2012 gấp 9 lần), số người
mắc cũng tăng nhanh (năm 2014 so với năm 2012 gấp 12 lần). Nhưng đến năm
2015, do sự chỉ đạo sát sao hơn của Đảng, Nhà nước, tình trạng ngộ độc thực phẩm
trên địa bàn đã được khắc phục. Cả năm 2015 có 4 vụ với 49 người bị mắc.
Trong 4 tháng liền từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2015. Hà Nội tổ chức kiểm
tra rà soát trên địa bàn ba đợt về chuyên đề thức ăn đường phố thì có 89/93 cơ sở
sản xuất bánh phở đạt tiêu chuẩn xét nghiệm lý hóa và vi sinh (chiếm 95,7%). Có
1633/2093 cửa hàng bánh phở đã lấy nguồn gốc bánh phở có địa chỉ tin cậy (chiếm
78%). Kiểm tra 116 cơ sở sản xuất bia hơi thì có 66 đơn vị đạt về vệ sinh cơ sở
(chiếm tỷ lệ 56,8%), trong 220 mẫu bia hơi đạt về vi sinh vật 124 mẫu (chiếm
56,4%) và đạt về lý hóa là 82,2%. Cũng trong đợt kiểm tra này, các quận, huyện
kiểm tra được 499 bếp ăn tập thể thì tỷ lệ đạt về vệ sinh cơ sở là 78%, xét nghiệm
tinh bột đạt 67,5%, nước sôi đạt 67,5%, dấm đạt 100%, xét nghiệm về vi sinh vật
thực phẩm đạt 68%, dụng cụ đạt 58%, vệ sinh bàn tay đạt 60%.
14



Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu chúng tôi, 100% những người dân Hà
Nội được nhóm phỏng vấn và điều tra bảng hỏi đều không tin tưởng vào hàng tiêu
dùng trên địa bàn thành phố. Đối với họ, không có cơ sở cung cấp thực phẩm nào
là họ tin tưởng tuyệt đối vào sự và sạch sẽ, mà chỉ ước chừng vào mức hơn kém
nhau về độ an toàn giữa các cơ sở để chọn thực phẩm.
2.2 Nguồn gốc thực phẩm bẩn.
Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có rất nhiều loại thực phẩm được dùng hóa
chất để bảo quản. Việc dùng hóa chất để bảo quản và kích thích các dạng thực
phẩm là rất nguy hiểm, vì đây là một trong những nguyên nhân gây ra bệnh ung
thư nếu thường xuyên ăn phải những thực phẩm có những chất độc hại do hóa chất
bảo quản và tăng trưởng có trong các loại thực phẩm. Mặt khác, nguồn cung ứng
thực phẩm cho Hà Nội chủ yếu ở các nơi khác chở đến, đa số các nguồn thực phẩm
này đều là nguồn thực phẩm trôi nổi, không được kiểm soát.
Một điều rất dễ nhận thấy là ở trên các đường phố Hà Nội có quá nhiều các
quán ăn nhỏ ở trên đường hay ở lề đường (hay còn gọi là thức ăn đường phố) . Sự
đô thị hóa và phát triển dân số của thủ đô Hà Nội ngày càng gia tăng mạnh mẽ và
thức ăn đường phố như một hiện tượng phổ biến ở Hà Nội (thức ăn đường phố là
một khâu quan trọng của mạng lưới cung cấp thực phẩm của đô thị). Trong khi
thức ăn đường phố ở thủ đô Hà Nội được đánh giá cao nhờ hương vị đặc biệt và có
sự tiện lợi (rẻ tiền, đa dạng và là nguồn thu nhập đáng kể cho nhiều người có thu
nhập thấp) thì đối nghịch với những lợi ích tiềm tàng đó thì thức ăn đường phố là
một mối nguy lớn cho sức khỏe cộng đồng vì thức ăn đường phố được chế biến bởi
những người thường có văn hóa thấp, thiếu kiến thức về xử lý an toàn. Đây chính
là nguyên nhân gây nên sự mất vệ sinh của thức ăn đường phố.

15


Thủ đô Hà Nội thường xuyên đón nhiều khách du lịch, đặc biệt là du khách

quốc tế, do vậy, vấn đề cần thiết đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm lại càng quan
trọng hơn.
2.3 Sự hiện diện của thực phẩm bẩn trong đời sống của người dân thành phố Hà
Nội hiện nay.
Tình hình an toàn thực phẩm diễn biến ngày một phức tạp. Khoảng 2 đến 3
năm về trước khi nói đến an toàn thực phẩm thì chỉ nhắc đến quá trình chế biến
mất vệ sinh nhưng trong thời gian gần đây mức độ bẩn tăng cấp vượt bậc. Ngày
trước chỉ cần nghe đến việc người ta chế biến thực phẩm trên nền nhà, rửa thực
phẩm bằng nước sông thì đã vô cùng bức xúc nhưng sau này chuyện đó dường như
quá tầm thường. Việt Nam là một đất nước nông nghiệp lúa gạo là lương thực
chính nhưng người ta sẵn sàng làm giả gạo bằng khoai lang trộn với cao su bán cho
đồng bào mình nhằm thu lợi, một nguồn lợi “kếch xù”. Trong bữa cơm của mỗi gia
đình không có dĩa thức ăn nào đảm bảo trong đấy không chứa chất độc hại. Bạn sẽ
chọn món ăn gì cho gia đình mình khi: Người ta sẵn sàng dùng hóa chất biến thịt
heo hôi thối thành miếng thịt bò tươi mơn mởn, cá ướp formon (chất dùng để ướp
xác người) dùng để bảo quản cá đi xa nhưng vẫn tươi tao táo, lợn thì trước khi làm
thịt được tiêm thuốc an thần và hậu quả là người dân ăn phải sẽ có nguy cơ bị mục
xương, gây ảnh hưởng đến hệ tim mạch và hệ thần kinh một cách nghiêm trọng.
Về mặt hàng rau – củ quả cũng không hề “kém cạnh”, nếu chăm chỉ đọc báo mỗi
ngày, chúng ta sẽ biết được hầu hết các loại trái cây đều được tiêm thuốc hóa học.
Người nội trợ đối diện các loại trái cây cảm thấy vô cùng ưng ý và bắt mắt nhưng
ai lại biết bên trong ấy là những chất độc – tuy không ảnh hưởng sức khỏe tức thời,
nhưng nó sẽ làm cho thế hệ chúng ta chết dần chết mòn.
2.4 Nguyên nhân của sự tràn lan thực phẩm bẩn trên địa bàn thành phố Hà Nội.
16


2.4.1 Chủ quan.
2.4.1.1. Hiểu biết của người dân về thực phẩm bẩn.
Tựu chung, nhận thức của người tiêu dùng chính là vấn đề then chốt. Hàng

ngày trên các nhật báo Tuổi trẻ, Thanh niên, báo Lao động… đều đăng tải rất nhiều
thông tin về việc phát hiện dư lượng thuốc trừ sâu trên rau quả, chất tạo nạc, chất
cấm dùng cho gia súc hay như gần đây nhất là việc các cơ quan chức năng phát
hiện ra nhiều tấn thịt thối không rõ nguồn gốc đang lưu hành trên thị trường…
Thông tin tràn lan khắp các mặt báo, trên các trang mạng internet, người dân
truyền tai nhau, nhưng lượng thực phẩm bẩn vẫn được tiêu thụ ồ ạt. Căn nguyên
của vấn đề này một phần bởi tâm lý sính hàng giá rẻ của người tiêu dùng đã ngăn
chặn hành động của nhận thức. Một khi người tiêu dùng còn chuộng sản phẩm rẻ
tiền, bắt mắt thì các cơ sở sản xuất còn tìm cách biến hàng hóa kém chất lượng
thành hàng chất lượng giá rẻ để cạnh tranh. Ngược lại, nếu người tiêu dùng kiên
quyết nói không với thực phẩm trôi nổi, mập mờ xuất xứ, từ bỏ tâm lý thích sản
phẩm giá rẻ và tập dần thói quen chọn hàng co thương hiệu, chất lượng với mức
giá hợp lý thì các cơ sở sản xuất thực phẩm gian dối sẽ không còn chỗ để tồn tại.
Phần đông người dân Hà Nội khi được hỏi đều trả lời rằng mình không biết
cách và không thể nào phân biệt nổi thực phẩm bẩn và thực phẩm sạch, vì chúng
quá giống nhau, có chăng thì chỉ là nhờ vào cảm tính. Thực phẩm bẩn đội lốt thực
phẩm sạch, chỉ có đến khi ăn vào bụng, có triệu chứng, hoặc đi khám bệnh viện
được chẩn đoán thì mới biết là do ăn nhầm thực phẩm bẩn.

17


3.2

Chưa được tuyên truyền
Đã được tuyên truyền

8.2

Biểu đồ thể hiện tỉ lệ người dân đã được tuyên truyền nhận thức để phân biệt thực phẩm an

toàn và không an toàn

Trong khi một số người tiêu dùng vẫn còn hoang mang với những thông tin
trên thì đại bộ phận người tiêu dùng thông minh từ lâu đã định hướng cho mình
việc nhận thức đi đôi với hành động bằng việc chọn lựa thực phẩm an toàn cho cả
gia đình, mua thực phẩm tại các siêu thị có uy tín, xuất xứ hàng hóa rõ ràng thay vì
các chợ nổi, chợ cóc. Một khi nhận thức của người tiêu dùng về các sản phẩm vệ
sinh an toàn thực phẩm ngày càng được nâng lên thì việc bài trừ các sản phẩm độc
hại không còn là vấn đề khó. Song song đó, vẫn rất cần sự chung tay từ các phía:
cơ quan chức năng, nhà cung cấp, nhà bán lẻ bằng nhiều biện pháp phối hợp để
mang đến cho thị trường những sản phẩm rõ ràng nguồn gốc, chất lượng, đảm bảo
sức khỏe người tiêu dùng.
2.4.1.2. Ý thức của người tiêu dùng Hà Nội
18


Lâu nay, tâm lý chung của người tiêu dùng khi mua phải sản phẩm kém chất
lượng, thiếu vệ sinh an toàn thực phẩm, hầu hết là ngại phản ánh, chấp nhận chịu
mất một khoản tiền và tự dặn mình lần sau không mua ở cửa hàng bán lẻ đó nữa,
để rồi lần tới lại mắc phải một cơ sở chế biến thực phẩm bẩn khác, còn người tiêu
dùng khác vì không biết nên vẫn tiếp tục tiêu dùng ở cửa hàng bán lẻ đó. Điều này
sẽ trở thành một vòng luẩn quẩn không có hồi kết. Bộ phận người tiêu dùng còn lại
thì “bó tay chịu trói”, vẫn nhắm mắt cho qua, sử dụng những sản phẩm không rõ
nguồn gốc, mua các thực phẩm tươi sống bày bán mất vệ sinh ở chợ cóc, chợ trời
vì tâm lý bàng quan: “ăn cũng chết mà không ăn thì cũng chết” và chỉ cần nấu chín
lên thì không có con vi trùng nào có thể sống nổi. Những suy nghĩ đó đã và đang
“tiếp tay” cho thực phẩm bẩn tràn lan vào địa bàn thành phố Hà Nội mà không có
điểm dừng, cho dù chúng ta có biết để tránh được những cơ sở, doanh nghiệp sản
xuất hàng kém chất lượng, những địa điểm cung cấp thực phẩm bẩn mà không
tuyên truyền, phản ánh thì càng ngày sẽ càng có nhiều người mắc cái bệnh nghiêm

trọng do thực phẩm bẩn gây ra, gây nguy hiểm đến tính mạng, và có thể trong đó
có cả những người thân xung quanh chúng ta.
2.4.2 Khách quan.
2.4.2.1. Cơ chế quản lý của các cơ quan chức năng.
Thực phẩm bẩn thì đang khiến cho người dân hoang mang lo lắng cho sức
khỏe của bản thân và gia đình, còn trong khi đó, các cơ quan chức năng lại đang tỏ
ra yếu kém trong việc bảo vệ người tiêu dùng, dẫn đến xảy ra tình trạng tràn lan
thực phẩm bẩn.
Giới chuyên gia trong ngành không ít lần đã nêu lên thực tế rằng, nếu vẫn
còn tình trạng chồng chéo “Ba bộ cùng quản một chiếc bánh” thì chắc chắn vấn đề
mất an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn chưa được giải quyết rốt ráo. Một chiếc bánh
19


mà vỏ một bộ quản, nhân bánh lại do bộ khác quản, rồi đến khi đóng gói tiêu thụ
lại là một bộ khác quản lý. Bởi thế cho nên, đến khi phát hiện ra những vấn đề vi
phạm về an toàn thực phẩm, lại chẳng có ai đứng ra chịu trách nhiệm. Bộ nào cũng
cho rằng đó không phải lỗi của mình. Cuối cùng chỉ người tiêu dùng chịu thiệt.
Theo TS Lê Đức Thịnh – Cục phó Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông
thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tăng chế tài xử phạt trong cuộc
chiến chống thực phẩm bẩn là rất cần thiết. “Đã đến lúc, những hành vi gian dối,
cố tình sản xuất ra các thực phẩm không an toàn làm phương hại đến sức khỏe,
thậm chí cả tính mạng của người tiêu dùng cần phải được pháp luật xử lý nghiêm
minh” – TS Thịnh nhấn mạnh.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, nếu vẫn còn kiểu quản lý chồng chéo như
hiện nay thì kể cả tăng chế tài xử phạt cũng không thể bịt được những kẽ hở do
chính sự quản lý lộn xộn của cơ quan chức năng tạo ra. Bởi vậy, nhiều ý kiến cho
rằng, đã đến lúc chấm dứt tình trạng cả 3 bộ (Y tế, Công thương, Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn) cùng quản lý vấn đề an toàn thực phẩm.
Cần thống nhất một đầu mối chủ trì điều hành và chịu trách nhiệm trước

Chính phủ. Nếu không, vấn nạn thực phẩm bẩn sẽ không thể được “điều trị” dứt
điểm. Nói như Bí thư Thành ủy TP.HCM Đinh La Thăng: “Một trong những
nguyên nhân hàng đầu làm tình trạng mất an toàn thực phẩm xảy ra tràn lan là vì
không xác định được trách nhiệm, không ai bị kỷ luật”.

2.4.2.2. Ý thức và đạo đức của những người cung cấp thực phẩm.
Những năm gần đây, các cơ quan quản lý, ban ngành chức năng, mặc dù rất
cố gắng với nhiều giải pháp, nhưng tình trạng mất an toàn vệ sinh thực phẩm ở
nước ta vẫn tăng cao cả về số lượng và mức độ.
20


Hàng loạt vụ việc gây bất bình trong dư luận như: nguyên liệu làm mứt Tết
có dòi, mỡ thối được dùng làm bánh trung thu, cháo dinh dưỡng sử dụng Natri
Benzoat, hạt dưa dùng phẩm chứa aRhodamin B – một chất có thể gây ung thư để
nhuộm màu, chế biến mỡ động vật kém chất lượng, nước khoáng đóng chai, nước
tinh khiết đóng bình nhiễm khuẩn, nước sinh hoạt nhiễm Amoni vượt quá mức quy
định cho phép, các loại sữa nghèo đạm, rau củ quả không an toàn…
Tình trạng nhập khẩu phụ phẩm thịt không đảm bảo an toàn, buôn bán nội
tạng động vật không rõ nguồn gốc qua biên giới năm 2009 đã tăng gấp 3 lần so với
năm 2008.
Quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng không được đảm bảo khi
một số doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận mà quên đi nghĩa vụ đảm bảo chất lượng
vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặc dù các doanh nghiệp có thương hiệu, uy tín trong
việc sản xuất chế biến thực phẩm luôn đặt trách nhiệm và quyền lợi người tiêu
dùng lên trên hết, nhưng chừng ấy cũng chưa đủ khi có rất nhiều cơ sở sản xuất
kinh doanh chỉ chạy theo lợi nhuận, thiếu đầu tư dây chuyền công nghệ.

Mấu chốt của vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm hiện nay là trách
nhiệm và đạo đức từ phía doanh nghiệp. Mặc dù có nhiều đợt thanh tra, kiểm tra,

nhưng những hành vi vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn ngày càng trầm
trọng.
2.5 Hậu quả, tác động đối với con người.
Ai trong chúng ta cũng biết, sử dụng những thực phẩm bẩn, không an toàn,
với dư lượng thuốc kích thích tăng trưởng, thuốc trừ sâu,… vượt quá chỉ số quy
định lâu ngày sẽ gây ra những di chứng, căn bệnh ảnh hưởng đến sức khỏe con
21


người, thậm chí có nguy cơ gây tử vong như vô sinh, ung thư,… khiến hàng triệu
người chết mỗi năm. Không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, việc
tràn lan thực phẩm bẩn trong cả khâu sản xuất đến tiêu thụ còn gây hệ lụy cho cả
nền kinh tế - xã hội. Hệ lụy, hàng chục ngàn tỷ đồng phải chi trả cho việc khám,
điều trị, xét nghiệm, chữa bệnh do thực phẩm bẩn gây ra. Không những thế, thực
phẩm bẩn còn là tác nhân gây giảm sức lao động, ảnh hưởng đến giống nòi của dân
tộc Việt trong tương lai.
“Tính ích kỷ, hẹp hòi” là bản tính chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân, lợi ích
trước mắt mà không nghĩ đến lợi ích lâu dài, lợi ích của cộng đồng. Đó cũng chính
là thực trạng một bộ phận người dân khi sản xuất, vì tính ích kỷ, hẹp hòi nên chỉ
chú ý đảm bảo an toàn cho thực phẩm mình dùng, còn thực phẩm kinh doanh thì sử
dụng nguyên liệu không an toàn, giá rẻ để kiếm lời nhiều và nhanh hơn. Ví dụ như
những người làm nghề nông, vì lợi nhuận nên khi trồng trọt, chăn nuôi họ thường
sử dụng các loại chất kích thích, các hóa chất độc hại thì cây trồng vật nuôi sẽ phát
triển nhanh, ít sâu bệnh, nhanh thu lợi hơn.
Xét trên góc độ thị trường, sản xuất thực phẩm bẩn không chỉ “bóp chết”
ngành sản xuất nông nghiệp trong nước, giảm cơ hội cạnh tranh giữa doanh nghiệp
trong và ngoài nước, tạo cơ hội cho người tiêu dùng hướng đến sản phẩm ngoại
nhập, ít dùng hàng Việt Nam, nhất là trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng,
mức thuế xuất nhập khẩu sẽ dần giảm xuống. Trên thực tế, đã có nhiều lời cảnh
báo về các lô hàng của Việt Nam xuất khẩu bị nhiễm kháng sinh, chứa mầm bệnh

từ các thị trường. Năm 2015, cũng đã có trên dưới 600 lô hàng thủy sản xuất khẩu
bị buộc trả về nước.
Hậu quả của việc chỉ nghĩ đến bảo vệ mình và xem thường sức khỏe, tính
mạng của người khác là tình trạng mọi người đang tìm cách giết hại lẫn nhau, vì
chúng ta không thể cả đời chỉ uống trà, ăn rau hay ăn thịt, họ uống trà sạch nhưng
22


vẫn phải ăn rau bẩn của kẻ khác, ăn rau nhà sạch nhưng vẫn ăn thịt bẩn của kẻ
khác. Chúng ta đang giết nhau trong khi cảm thấy an tâm đã bảo vệ được gia đình
mình ở một góc nhỏ hẹp hòi.

Chương 3
GIẢI PHÁP CẢI THIỆN TÌNH TRẠNG THỰC PHẨM MẤT VỆ SINH
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1Nâng cao nhận thức của người dân.
3.1.1 Phổ cập kiến thức về thực phẩm và thực phẩm bẩn.
Nâng cao số lượng, chất lượng các tài liệu và thông điệp truyền thông

23


- Hỗ trợ chuyên môn, kỹ thuật cho các ban, ngành liên quan trong việc biên tập
mới, sửa đổi, bổ sung, cập nhật thông tin, kiến thức mới về ATTP.
- Các tài liệu, thông điệp truyền thông cần tập trung vào các nội dung mang tính
hướng dẫn, định hướng thay đổi hành vi và các biện pháp thực hiện hành vi bảo
đảm ATTP, phù hợp với từng đối tượng.
- Đa dạng hóa các loại hình truyền thông: bản tin, phim tài liệu, phóng sự, các trò
chơi, xây dựng các tờ rơi, tờ gấp, poster...
- Các Bộ, ngành chỉ đạo các cấp theo ngành dọc chủ động lập kế hoạch đầu tư kinh

phí cho việc sản xuất các tài liệu truyền thông phục vụ hoạt động thông tin, giáo
dục và truyền thông thay đổi hành vi của ngành mình phụ trách.
- Xây dựng hệ thống ngân hàng dữ liệu giáo dục và truyền thông bằng cách tăng
cường liên kết với các chương trình khác để tận dụng nguồn nhân lực và kinh phí
chuyển tải các thông điệp truyền thông xuống cộng đồng.

3.1.2 Tuyên truyền nâng cao ý thức tiêu dùng của người dân Hà Nội.
Xây dựng và phát triển các kỹ năng truyền thông về ATTP
- Sử dụng cách tiếp cận phù hợp với từng đối tượng cụ thể để tuyên truyền, vận
động, chú trọng hình thức truyền thông trực tiếp, truyền thông theo nhóm nhỏ.
- Xây dựng đội ngũ cộng tác viên tuyên truyền ATTP, chú trọng phát triển đội ngũ
tuyên truyền viên, xây dựng hệ thống cán bộ chuyên trách tại các Bộ, ngành.
- Đào tạo kiến thức chuyên ngành, nội dung tuyên truyền ATTP cho người tham gia
công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục ATTP.

24


Tiếp tục triển khai mạnh mẽ và đồng bộ các hoạt động thông tin, giáo dục
và truyền thông thay đổi hành vi
- Tận dụng tối đa hệ thống thông tin, tuyên truyền sẵn có ở địa phương, bổ sung
chức năng và cán bộ chuyên trách về truyền thông, giáo dục ATTP.
- Xây dựng chuyên mục ”an toàn thực phẩm” trên truyền hình địa phương như TH
Hà Nội.
- Phân công cụ thể trách nhiệm thực hiện công tác thông tin, giáo dục và truyền
thông thay đổi hành vi cho từng Bộ, ngành. Các Bộ, ngành và đoàn thể có trách
nhiệm lập kế hoạch và triển khai các hoạt động thông tin, giáo dục và truyền thông
cho các nhóm đối tượng đặc thù của ngành mình.
- Ủy ban nhân dân các cấp tăng cường chỉ đạo, triển khai các hoạt động thông tin,
giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi, chú ý tập trung các khu vực, các địa

phương trọng điểm về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn Hà Nội.
- Tổ chức các chiến dịch truyền thông với quy mô lớn trên toàn thành phố, đưa
công tác giáo dục truyền thông về ATTP vào các ngày lễ, các sự kiện lớn về chính
trị, kinh tế, văn hóa – xã hội hàng năm.

3.2Từ góc độ quản lý nhà nước, trách nhiệm của các cơ quan chức năng.
3.2.1. Các biện pháp thắt chặt cơ chế quản lý của cơ quan chức năng:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác bảo đảm ATTP
- Khẳng định vai trò của các cấp ủy Đảng, Chính quyền trong lãnh đạo, chỉ
đạo công tác bảo đảm an toàn thực phẩm. Các cấp ủy Đảng thường xuyên theo dõi,
đôn đốc, kiểm tra, chỉ đạo đưa công tác này.
25


×