Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Thực trạng công tác đền bù thiệt hại trên địa bàn thành phố hà nội trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.37 KB, 20 trang )

Thực trạng công tác đền bù thiệt hại trên địa bàn thành phố hà nội trong thời
gian qua
1. Đánh giá sơ bộ kết quả thực hiện công tác đền bù thiệt hại,Giải phóng
mặt bằng trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Về tình hình chung, nếu như Luật đất đai 1988 chưa quy định rõ ràng việc
đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vào các mục đích phát triển đất nước thì
Luật đất đai 1993 và các Nghị định của Chính phủ đã có quy định chi tiết vấn đề
này. Đối với Hà Nội, điều này có ý nghĩa hết sức to lớn, tạo ra một hành lang
pháp lý quan trọng để vận dụng vào thực tiễn công tác quản lý nhà đất, đặc biệt là
chính sách đền bù,Giải phóng mặt bằng phù hợp, đẩy nhanh tiến độ khai thác các
dự án trên địa bàn Thành phố.
Với những nỗ lực của Thành phố cùng với sự hoàn thiện dần của những
chính sách, hàng trăm dự án đầu tư đã được triển khai các thủ tục đền bù, Giải
phóng mặt bằng như :Khu công nghiệp Bắc Thăng Long, Dự án thoát nước Hà
Nội, hàng loạt các Khu đô thị mới như Trung Yên, Định Công, Linh Đàm, Nam
Thăng Long, Mễ Đình..., Khu công nghiệp Hà Nội- Đài Tư, Đường 32, Đường
Nguyễn Chí Thanh, nút giao thông Kim Liên-Phạm Ngọc Thạch, Đường Vành
đai 3 Hà Nội, đường Láng Hoà Lạc, Trung tâm Thể thao Quốc gia phục vụ Sea
Games 2003... góp phần tạo bộ mặt đô thị, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh
tế xã hội Thủ đô.
Nhìn chung, trong thời gian qua từ khi có Luật đất đai 1993 đến nay, các
chính sách của Nhà nước và của UBND Thành phố Hà Nội đã có sự thay đổi
mạnh, cả về số lượng và chất lượng mà theo đó, quyền lợi của người bị thu hồi
đất ngày càng được quan tâm và đảm bảo. Về khiếu nại, tố cáo của công dân đối
với phương án đền bù, Giải phóng mặt bằng trong thời gian này cũng tăng cả về
số lượng và mức độ phức tạp mà mấu chốt của vấn đề là chính sách đền bù thiệt
hại về đất và tính công bằng xã hội đối trong đền bù thiệt hại. Do vậy, tại thành
1
phố Hà Nội việc đền bù thiệt hại không đơn thuần như quy định tại các văn bản
chính sách mà phải kèm thêm việc giải quyết những tồn tại lịch sử về công tác
quản lý Nhà nước về đất đai, nhà cửa,.


Chính sách đền bù thiệt hại của Nhà nước nhìn chung còn quy định cứng
nhắc theo khung giá các loại đất do Chính phủ ban hành trong khi đất ngoài thị
trường tự do lại có sự chênh lệch lớn với khung giá do Chính phủ ban hành. Do
vậy người dân không thể dùng số tiền đền bù thiệt hại để tìm mua đwocj một
mảnh đất tương đươnmg với mảnh bị thu hồi. Mặt khác họ lại so bì với người sử
dụng đất ở phía trong (giáp với khu đất của họ )nay lại tự dưng trở thành mặt tiền
các đường phố lớn, có sự chênh lệch lớn về giá trị quyền sử dụng so với trước
đây.Vấn đề này thực chất là vấn đề chênh lệch địa tô, mà Nhà nước chưa có văn
bản nào quy định về việc giải quyết vấn đề này. Hiện nay Hà Nội đang thí điểm
thực hiện việc bố trí tái định cư tại chỗ để tránh tình trạng nêu trên,nhằm đảm bảo
công bằng cho mọi người,(ở TP.HCM và Đà Nẵng vấn đề này được giải quyết
bằng cách người được ra mặt tiền thì phải đóng trêm tiền và họ thực hiện rất tốt).
Đối với đất nông nghiệp (là tư liệu sản xuất chính của nông dân), thì vấn đề
giá đất không hoàn toàn là yếu tố dẫn tới khiếu nại mà vấn đề khu dân cư nông
thôn ít được đầu tư và nông dân chủ yếu lại sinh sống bằng sane xuất nông
nghiệp, không có ngành nghề phụ khác và không được Nhà nước đầu tư trong
chuyển nghề. Do vậy, khi bị thu hồi đất với quy mô lớn, bức súc của dân là họ sẽ
sống bằng gì, con cháu của họ sẽ ra sao khi đất nông nghiệp- nguồn thu nhập
chính, nay không còn nữa. Ví dụ dự án sử dụng đất nông nghiệp với quy mô lớn
đầu tiên là dự án Khu vui chơi- giải trí- sân gôn tại xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh
(120ha, thu hồi đất năm 1995) nhân dân không đồng tình với phương án đền bù
của UBND Thành phố Hà Nội phê duyệt, đòi mức giá cao hơn, yêu cầu có chính
sách tuyển dụng lao động, tình hình an ninh, trật tự ở địa phương nhiều lúc rất
căng thẳng (rào làng, đào đường, phá hỏng máy móc....).Khi tổ chức xong công
2
tác GPMB (1999) thì chủ đầu tư không còn cơ hội để kinh doanh nữa và cùng với
cuộc khủng hoảng Châu A dự án này cho đến nay đã không được triển khai.
Thêm nữa là việc giải phóng mặt bằng khu công nghiệp Phú Thị, huyện Gia
Lâm, nhân dân muốn dùng sức ép của khiếu nại về Giải phóng mặt bằng để giải
quyết những bức súc về tố cáo của mình đối với các vi phạm của lãnh đạo chính

quyền địa phương.
Đối với đất đô thị vấn đề này được thể hiện qua dự án đường 32 đoạn qua địa
bàn huyện Từ Liêm, khi Nhà nước thu hồi đất đẻ mở rộng đường 32 (năm 1995)
nhất là việc giải toả khu tập thể Văn công Mai Dịch hay khu tái định cư Dịch
Vọng, khiếu nại của nhân dân thực sự găy gắt, tạo sự quan tâm của rất nhiều cơ
quan thông tin, báo chí. Một số tồn tại đến nay Thủ tướng Chính phủ vẫn đang chỉ
đạo khắc phục, nhưng chưa xong.
Trong thời gian tới công tác đền bù thiệt hại, Giải phóng mặt bằng của
Thành phố Hà Nội rất nặng và vẫn mang tính thời sự nóng bỏng. Dự kiến hàng
năm Thành phố phải GPMB khoảng 1000 ha đất và bố trí tái định cư khoảng
7000 hộ dân. Ngoài việc GPMB thực hiện các dự án phát triển đô thị, công
nghiệp, Thành phố cũng cần chỉnh trang lại các tuyến đường, các khu phố hiện có
tạo bộ mặt đô thị khang trang hiện đại.Do vậy việc quan tâm đến vấn đề hoàn
thiện các chính sách về đền bù thiệt hại là vô cùng cấp bách.
2.Kết quả thực hiện đền bù thiệt hại GPMB và Tái định cư ở Hà Nội từ
khi ban hành Nghị định 22/CP và Quyết định 20/QĐ-UB đến nay.
Sau hơn 5 năm thực hiện Nghị định 22/CP (1998-2003)
Từ năm 1998-2000. Số công trình GPMB là 76; Tổng diện tích đất thu hồi
là 2.817136 m
2
;Trong đó đất ở là 85.443 m
2
; Diện tích đất đã đền bù là 555.151
m
2
; Trong đó đất ở là 78.837 m
2
; Số hộ dân , cơ quan di chuyển GPMB là 2.224;
3
Số tiền đền bù hỗ trợ là hơn 169 tỷ đồng; Diện tích giao đất tái định cư là 13.298

m
2
.
Năm 2001 số lượng dự án và vốn đầu tư tăng gấp đôi so với năm 2000 (dự
án sử dụng vốn ngân sách taưng 43% ) có 333 dự án đầu tiên liên quan đến
GPMB vốn đầu tư của kế hoạch năm 2001 là trên 3000 tỉ đồng, diện tích đất thu
hồi trên 1.300 ha liên quan đến trên 20.000 hộ và tổ chức, (trong đó có trên 6000
hộ bị ảnh hưởng đến nhà ở ).
Trong tổng số 333 dự án có 257 dự án đủ điều kiện triển khai công tác
GPMB chiếm 73%, có 159 dự án đã thực hiện xong GPMB chiếm 61,5% gấp hơn
2 lần năm 2000, đã bồi thường cho hơn 8000 hộ với kinh phí trên 500 tỉ đồng, bố
trí tái định cư được trên 1.400 hộ.
Năm 2002 tổng số dự án là 417 dự án, đã hoàn thành GPMB là 194 dự án và
thu hồi 1003 ha đất, tổng diện tích đất phải thu hồi là 1600 ha, liên quan đến gần 3
vạn hộ dân, cần bố trí tái định cư là 6988 hộ, đã bố trí tái định cư được 969 hộ.
Kinh phí đền bù trên 3000 tỉ đồng (trong đó nguồn vốn địa phương là 783 tỉ
đồng).
Quý I năm 2003 tổng dự án là 308 dự án; diện tích đất thu hồi là 1920 ha, số
hộ liên quan là 35.403 hộ, trong đó số hộ cần bố trí tái định cư là 2.524 hộ; Tính
đến hết tháng 3/2003 số hộ đã điều tra khảo sát là 15.986 hộ, số dự án đã bàn giao
mặt bằng là 19, diện tích đất bàn giao là 133 ha, số hộ nhận tiền đền bù là 4022
hộ, tổng số tiền chi trả là 59.750 triệu và đã bố trí tái định cư được 114 hộ.
Hà Nội là khu vực sôi động và thể hiện một cách toàn diện nhất về chính
sách đền bù GPMB và tái định cư trên cơ sở Quyết định 20/QĐ-UB . Thực tế trải
qua một thời gian thực hiện, việc thu hồi đất, đền bù thiệt hại, chính sách hỗ trợ
đã tác động đến lợi ích của nhiều đối tượng và làm ảnh hưởng đến kinh tế xã hôị
của cộng đồng. Trong khi một bộ phận dân cư khá lên rõ rệt lại không ít số hộ dân
cư đi đến chỗ bần cùng vì không có tư liệu sản xuất, không khôi phụcdduwowcj
4
nguồn thu nhập. Do những diễn biến phức tạp trong quan hệ sở hữu tài sản tồn tại

mang tính lịch sử về quản lý đất của Thành phố Hà Nội trước đây và những thay
đổi chính sách của Nhà nước qua các thời kỳ, nên quá trình triển khai thực hiện đã
phát sinh nhiều khiếu kiện, chủ yếu tập chung vào giá đền bù thiệt hại, giao đất tái
định cư. Bởi theo Quyết định 3519/QĐ-UB thì giá đền bù thiệt hại đối với đất
nông nghiệp là rất thấp, nhưng ben cạnh đó tại thời điểm có dự án giá đất chuyển
nhượng thực tế thường gấp 10-12 lần so với khung giá quy định.
Đối với tài sản gắn liền với đất, các chính sách bồi thường về cây cối hoa
màu, được người dân đồng tình ủng hộ, một số dự án đền bù cho một số công
trình, cây cối hoa màu cao hơn cả giá thị trường nên đã hạn chế được rất nhiều
khiếu kiện. Hiện nay Nghị định 22/CP chưa có quy định cụ thể về cách tính giá trị
thiệt hại thực tế cho nhà và công trình kiến trúc, một số nơi thực hiện công tác đền
bù tài sản và hoa màu chưa phù hợp , áp đặt không được nhân dân đồng tình ủng
hộ.
Trên đây là những kết quả đáng khích lệ sau một thời gian thực hiện Nghị
định 22/CP. Tuy nhiên chính sách cũng còn nhiều điểm bất cập cần khắc phục
trong thời gian tới.
3. Thực trạng công tác đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn Thành phố Hà Nội.
Quá trình phát triển kinh tế xã hội Thủ đô trong thời gian qua đã làm tăng
nhu cầu nâng cấp, xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, nhà ở, khu đô thị mới
... đòi hỏi hàng năm Thành phố phải dành diện tích đất khá lớn. Phần lớn diện tích
đất này được thu hồi lại từ đất đang sử dụng, do vậy công tác bồi thường thiệt hại
càng quan trọng hơn khi nào khác.
Tại thời điểm trước năm 1994 về chính sách , khuôn khổ pháp lý cho công
tác đền bù thiệt hại, tái định cư thống nhất mà chính quyền và chủ đầu tư đã xây
dựng những cơ chế riêng và áp dụng cho từng dự án. Tại Hà Nội, UBND Thành
5
phố ban hành quyết định 1231/QĐ-UB . Quy định này này chỉ quy định đền bù
tiệt hại về tài sản, không quy định đền bù thiệt hại về đất và tiêu chuẩn để được
xem xét giao đất là số nhân khẩu khi phải di dời.

Thời kỳ này do thiếu nhân lực, tài chính, thiếu sự phối hợp đồng bộ nên công
tác tái định cư không được tổ chức một cách thực thụ, thiếu sự giám sát không có
cơ chế giải quyết khiếu nại. Có dự án đến nay vẫn chưa quýet toán được tiền đền
bù, gây khiếu kiện kéo dài như việc GPMB tuyến đường giao thông huyện Gia
Lâm, Đông Anh, quận Ba Đình...
Trước năm 1994, Thành phố có ít tài liệu về tái định cư trên địa bàn, tuy
nhiên qua thực tế triển khai một số dự án (đường Đại Cổ Việt, đường Giải Phóng,
Quốc lộ 1A..) có thể rút ra những nhận định sau :
Điều kiện sống của người dân tại nơi tái định cư ít được cải thiện, thậm chí
có nơi còn khó khăn hơn trước.
Khả năng phục hồi thu nhập của người dân (nhất là các hộ trước đây có điều
kiện mặt bằng để kinh doanh thương mại, dịch vụ )ở mức thấp.
Quá trình thực hiện công tác tái định cư thường kéo dài ví dụ : việc giả toả
hành lang đê Nguyễn Khoái năm 1986 đến năm 2001 mới giải quyết tái định cư.
Thực tế việc đền bù thiệt hại về đất nông nghiệp là không có mà chỉ được hỗ
trợ bằng 4 năm sản lượng và hỗ trợ đào tạo chuyển nghề nên hầu hết người đan đã
không được hưởng kết quả của quá trình đô thị hoá, bởi họ không có đủ điều kiện
tái tạo khôi phục cuộc sống như cũ.
Giai đoạn từ năm 1994 đến nay, do những đổi mới cơ bản trong chính sách
GPMB, đặc biệt là chính sách đền bù thiệt hại, tái định cư đã góp phần đẩy nhanh
tiến độ thực hiện các dự án và đồng thời đảm bảo cuộc sống của những người bị
thu hồi đất ngày một tốt hơn.
6
Trong năm 2002 Thành phố Hà Nội đã có khoảng 417 dự án. Dự kiến năm
2003 có khoảng 400 dự án liên quan đến GPMB, trong đó tiếp tục có nhiều dự án
có quy mô chiếm dụng đất lớn, như Quốc lộ 5 kéo dài, đường vành đai 2, khu đô
thị Nam Thăng Long...với số hộ cần bố trí tái định cư khoảng 7000 hộ.
Các chính sách về đền bù thiệt hại tại thời điểm này, Thành phố Hà Nội áp
dụng chủ yếu là Nghị định 22/CP , Thông tư 145/BTC của Bộ tài chính quy định
về khung giá đền bù các loại tài sản trên đất và đất, Quyết định 20/1998/QĐ-UB

và Quyết định 3519/QĐ-UB cộng thêm với Quyết định 72/QĐ-UB . Về mặt bằng
chung các chính nêu trên đã góp phần đẩy nhanh quá trình thực hiện các dự án và
đảm bảo đền bù công bằng , đúng , đủ đáp ứng nguyện vọng của người dân.
Một thực trạng hiện nay là các khung giá quy định của Nhà nước đều quá
thấp không đáp ứng được giá trị thực của đất đai. Chính vì vậy Hà Nội cho phép
áp dụng hệ số K cao nhất từ trước đến nay (K=2,7), việc bồi thường thiệt hại nâng
lên bằng cách cộng thêm các khoản hỗ trợ đặc biệt, chính biện pháp này đã làm
cho mọi người phấn khởi giao mặt bằng sớm. Theo Thông tư 145/BTC thì giá đất
có thể được xác định bằng nhiều cách, do vậy một thực tế đang đặt ra là người
dân đòi xác định giá đất nông nghiệp theo phương pháp cộng thêm tỷ lệ chênh
lệch giữa đất ở và đất nông nghiệp khấu trừ, cụ thể như sau:
Giá đất áp dụng hệ số K=2,7,giá đất quy định của Nhà nước là 19300 đ/m
2
,
hỗ trợ chuyển nghề 13.200 đ/m
2
, hỗ trợ tôn tạo đất 25000 đ/m
2
cộng các khoản
bồi thường hỗ trợ về đất là 90.300 đ/m
2
(Đất nông nghiệp hạng I). Giá đất áp dụng
theo cách cộng thêm tỷ lệ chênh lệch giữa đất ở và đất nông nghiệp như sau:
19.300 đ/m
2
+(1.620.000 –19.300)đ/m
2
x 30% = 499.510 đ/m
2
(đất hạng I), như

vậy có thể thấy theo cách tính 2 lợi hơn rât nhiều. Nhưng vấn đề ở đây là sẽ gây
mất cân đối với mặt bằng chung về giá đất đã được UBND Thành phố Hà Nội phê
duyệt cho nhiều dự án khác. Tình trạng chủ đầu tư có hỗ trợ thêm cho các hộ dân
để nhanh chóng có mặt bằng đang làm phá vỡ chính sách đền bù thiệt hại củat
7
Nhà nước gây khiếu kiện, tâm lý so bì giữa dự án này và dự án kia ví dụ : dự án
khu đô thị Nam Thăng Long, chủ đầu tư tự thoả thuận hỗ trợ cho các hộ dân với
mức 350.000 đ/m
2-
(tính cả cây và đất). Tình trạng phá đào trồng tùng và trồng
đan cây với mật độ cao phát sinh trên toàn bộ các dự án như dự án Đường vào
Trường Quốc tế LHQ,phát sinh tình trạng trên là 100% diện tích, riêng tiền đèn
bù thiệt hại về cây đạt khoảng 400.000/m
2
. Bên cạnh những phát sinh của người
dân thì các quy định về khung giá cũng cần phải quan tâm nhiêù hơn. Hỗu hết các
dự án đều bị dân thắc mắc về giá đền bù quá thấp, mặc dù đã có bao nhiêu lần sửa
đổi, bổ sung song vẫn không bắt kịp với sự biến động của thực tế, như dự án
đường Quốc lộ 18 trên địa bàn huyện Sóc Sơn. Hội đồng đền bù đưa ra đơn giá
đền bù cho một khóm hoa nhài từ 1.500 đ- 2.000 đ, trong khi đó giá thực tế của
nó là 15.000 đ- 20.000 đ/khóm.
Thực trạng đền bù thiệt hại, GPMB dự án Trung tâm y tế và phòng khám
đa khoa quận Tây Hồ.
Dự án Trung tâm y tế và phong khám đa khoa quận Tây Hồ có tổng diện tích
phải GPMB là 4.097 m
2
, trong đó đất nông nghiệp là 1748,70 m
2
, đất ở là 332,29
m

2
, đất khác là 1890,60 m
2
. Tổng số tiền đền bù và hỗ trợ là 1.495.318.263 đ cụ
thể như sau:
@. Đối với hộ dân đã xây nhà và ở ổn định trên đất nông nghiệp, thì được
đền bù hỗ trợ theo mục a khoản 6 Điều 6 Nghị định 22/CP của Chính phủ và
Điều 5, Điều 13 quyết định 20/QĐ-UB của UBND Thành phố Hà Nội .
+ Đơn giá đền bù đất ở :
* Các hộ có thửa đất thuộc vị trí 3 của đường Lạc Long Quân (đường loại III
mức B) có mức giá 780.000 đ/m
2
x 2,7 =2.106.000 đ/m
2
.
* Các hộ có thửa đất thuộc vị trí 4 của đường Lạc Long Quân (loại III mức
B) có mức giá là 470.000 đ/m
2
x 2,7 =1.269.000 đ/m
2
.
8

×