Tải bản đầy đủ (.pdf) (324 trang)

Đối chiếu thuật ngữ hành chính việt anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 324 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ YẾN NGA

ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ HÀNH CHÍNH
VIỆT - ANH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ YẾN NGA

ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ HÀNH CHÍNH
VIỆT - ANH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu
Mã số

: 9222024

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Vũ Thị Sao Chi
2. GS.TS. Nguyễn Đức Tồn

Hà Nội, năm 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những tư
liệu và số liệu trong luận án là trung thực. Đề tài nghiên cứu và các kết quả
nghiên cứu chưa được ai công bố.

Tác giả luận án

Vũ Thị Yến Nga

i


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. I
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT............................................................... IV
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................. V
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ............................................................................................ 4
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THUẬT NGỮ VÀ
THUẬT NGỮ HÀNH CHÍNH .......................................................................... 8
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu thuật ngữ học trên thế giới và ở Việt Nam .............. 8
1.1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ hành chính ..........................................17
1.2. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI...............................................................20
1.2.1. Những vấn đề lí thuyết cơ bản về thuật ngữ ..........................................20
1.2.2. Một số vấn đề lí thuyết liên quan đến thuật ngữ hành chính .................43
1.2.3. Những vấn đề lí thuyết cơ bản liên quan đến đối chiếu thuật ngữ ........54
1.3. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ...........................................................................58

CHƯƠNG 2. ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA THUẬT NGỮ
HÀNH CHÍNH TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH .............................. 4
2.1. DẪN NHẬP ..............................................................................................60
2.1.1. Thành tố cấu tạo TNHC .........................................................................60
2.1.2. Phân loại cấu tạo TNHC ........................................................................61
2.1.3. Cơ sở phân tích mô hình cấu tạo TNHC ................................................62
2.2. ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO THUẬT NGỮ HÀNH CHÍNH
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH XÉT VỀ SỐ LƯỢNG THUẬT TỐ 63
2.3. ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO THUẬT NGỮ HÀNH CHÍNH
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH XÉT VỀ PHƯƠNG THỨC CẤU
TẠO, QUAN HỆ NGỮ PHÁP VÀ TỪ LOẠI ................................................65
2.3.1. Đặc điểm cấu tạo thuật ngữ hành chính xét về phương thức cấu tạo,
quan hệ ngữ pháp và từ loại .............................................................................65
2.3.2. Đánh giá điểm tương đồng và khác biệt giữa TNHC tiếng Việt và TNHC
tiếng Anh xét về phương thức cấu tạo, quan hệ ngữ pháp và từ loại ..................99

ii


2.4. CHUẨN HÓA THUẬT NGỮ HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT VỀ MẶT
CẤU TẠO ......................................................................................................104
2.5. TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .........................................................................104
CHƯƠNG 3. ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH CỦA THUẬT NGỮ
HÀNH CHÍNH TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH ..........................106
3.1. DẪN NHẬP ............................................................................................106
3.2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH CỦA TIỂU NHÓM TNHC BIỂU THỊ CƠ
QUAN, TỔ CHỨC, ĐƠN VỊ TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC ..................107
3.2.1. TN nguyên cấp biểu thị cơ quan, tổ chức, đơn vị trong bộ máy nhà nước..108
3.2.2. TN thứ cấp biểu thị cơ quan, tổ chức, đơn vị trong bộ máy nhà nước ....108
3.3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH CỦA TIỂU NHÓM THUẬT NGỮ BIỂU THỊ

ĐỘI NGŨ NHÂN SỰ TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC ..............................117
3.3.1. TN nguyên cấp biểu thị đội ngũ nhân sự trong bộ máy nhà nước .......118
3.3.2. TN thứ cấp biểu thị nhân sự trong bộ máy nhà nước ..........................119
3.4. ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH CỦA TIỂU NHÓM THUẬT NGỮ HÀNH
CHÍNH BIỂU THỊ CÁC LOẠI VĂN BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC .........133
3.4.1. TN nguyên cấp biểu thị các loại văn bản quản lý hành chính nhà nước .....134
3.4.2. TN thứ cấp biểu thị các loại văn bản quản lý nhà nước.......................134
3.5. CHUẨN HÓA THUẬT NGỮ HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT VỀ MẶT
ĐỊNH DANH .................................................................................................141
3.5.1. Chuẩn hóa thuật ngữ có hình thức cấu tạo dài dòng, mang tính chất
miêu tả hay giải thích khái niệm. ...................................................................141
3.5.2. Chuẩn hóa những thuật ngữ không theo mô hình định danh nhất quán .......142
3.5.3. Chuẩn hóa những thuật ngữ đồng nghĩa ..............................................142
3.6. TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .........................................................................143
KẾT LUẬN .......................................................................................................145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CÓ NỘI DUNG LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ...................................................................................150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................151
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 1

iii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Ad

Trạng từ (Adverb)

Aj


Tính từ (Adjective)

C

Liên từ (Conjunction)

F

Thành tố bổ sung, biểu hiện đặc trưng được lựa làm cơ sở
định danh đối tượng (Feature)

H

Phần trung tâm (Head), Thành tố trung tâm, biểu thị khái
niệm loại (Head)

N

Danh từ (Noun)

Po

Phần phụ sau (Post-Modifier)

Pr

Phần phụ trước (Pre-Modifier)

TN


Thuật ngữ

TNHC

Thuật ngữ hành chính

V

Động từ (Verb)

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1. Tổng hợp TNHC trong tiếng Việt và tiếng Anh theo số lượng thuật tố .....64
Bảng 2: Thống kê số lượng TNHC tiếng Việt có cấu tạo là từ ............................67
Bảng 3: Thống kê TNHC tiếng Anh có cấu tạo là từ ...........................................71
Bảng 4: Thống kê TNHC tiếng Việt và tiếng Anh có cấu tạo là cụm từ 2 thuật tố ......72
Bảng 5: Tổng hợp TNHC tiếng Việt và tiếng Anh có cấu tạo cụm từ 3 thuật tố.........77
Bảng 6: Tổng hợp TNHC tiếng Việt và tiếng Anh có cấu tạo cụm từ 4 thuật tố.........87
Bảng 7: Tổng hợp TNHC tiếng Việt và tiếng Anh có cấu tạo cụm từ 5 thuật tố
trở lên ...................................................................................................................98
Bảng 8: Tổng hợp TNHC tiếng Việt và tiếng Anh xét về phương thức cấu tạo ..........99
Bảng 9: Tổng hợp TNHC tiếng Việt và tiếng Anh xét về phương thức cấu tạo .........99
Bảng 10: Tổng hợp TNHC tiếng Việt và tiếng Anh xét về mô hình cấu tạo.......99
Bảng 11: Thống kê TNHC biểu thị cơ quan, tổ chức, đơn vị,.. trong bộ máy nhà
nước theo kiểu loại định danh ............................................................................107
Bảng 12: Thống kê các đặc trưng (F) được chọn làm cơ sở định danh trong .. TN thứ
cấp tiếng Việt và ... TN thứ cấp tiếng Anh biểu thị cơ quan, tổ chức, đơn vị... .........111

Bảng 13. Thống kê các các mô hình định danh của TN thứ cấp biểu thị cơ quan,
tổ chức, đơn vị,... trong bộ máy nhà nước .........................................................116
Bảng 14. Thống kê TNHC biểu thị đội ngũ nhân sự trong bộ máy nhà nước theo
kiểu loại định danh .............................................................................................117
Bảng 15. Thống kê TN nguyên cấp biểu thị loại nhân sự ..................................118
Bảng 16. Tổng hợp các kiểu loại (H) trong cấu trúc định danh của TN thứ cấp
biểu thị nhân sự trong bộ máy nhà nước ............................................................122
Bảng 17. Thống kê các đặc trưng (F) được chọn làm cơ sở định danh trong 598
TN thứ cấp tiếng Việt và 326 TN thứ cấp tiếng Anh biểu thị đội ngũ nhân sự .125
Bảng 18. Thống kê các các mô hình định danh của TN thứ cấp biểu thị nhân sự
trong bộ máy nhà nước .......................................................................................132
Bảng 19. Thống kê TNHC biểu thị các loại văn bản hành chính phục vụ cho hoạt
động công vụ của bộ máy nhà nước theo kiểu loại định danh ...........................133
Bảng 20. Thống kê các đặc trưng (F) được chọn làm cơ sở định danh trong 158 TN thứ
cấp tiếng Việt và 154 TN thứ cấp tiếng Anh biểu thị văn bản quản lý nhà nước .......137
Bảng 21. Thống kê các các mô hình định danh của TN thứ cấp biểu thị loại văn
bản quản lý nhà nước .........................................................................................141

v


MỞ ĐẦU
0.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong mỗi lĩnh vực khoa học đều cần có một hệ thống thuật ngữ (TN) với
tư cách là phương tiện, là công cụ để biểu hiện các khái niệm và đối tượng trong
một lĩnh vực khoa học hoặc chuyên môn giúp cho sự tồn tại và phát triển của
ngành khoa học hay lĩnh vực chuyên môn ấy. Nền hành chính nhà nước không
phải là ngoại lệ, nó cũng cần phải có một hệ TN riêng của mình. Trong bối cảnh
Việt Nam đang trong quá trình toàn cầu hóa và xu hướng hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, hệ thuật ngữ hành chính (TNHC) đang có nhu cầu hoàn thiện và

phát triển sao cho phù hợp với những chuẩn mực chung của thế giới. Bên cạnh
đó, trong các văn bản hành chính (còn gọi là văn bản hành chính công vụ), việc
sử dụng ngôn ngữ nói chung, TN nói riêng, là một vấn đề cần được coi trọng
đúng mức. Bởi nếu một văn bản có nội dung tốt nhưng sử dụng ngôn ngữ thiếu
chuẩn mực thì sẽ làm giảm đáng kể tính nghiêm túc, tính hiệu lực, tính chính xác
của văn bản. Thực tế cho thấy trong các văn bản hành chính công vụ ở các cơ
quan, đơn vị hiện nay, việc dùng ngôn ngữ nói chung, TNHC nói riêng, còn có
nhiều vấn đề cần được bàn thảo một cách nghiêm túc. Có nhiều văn bản chất
lượng kém về mặt nội dung, diễn đạt tối nghĩa hoặc sai nghĩa chủ yếu do sử
dụng TN không phù hợp. Điều này gây cản trở đến việc hiểu và thực hiện / thi
hành những yêu cầu nêu trong nội dung văn bản. Đồng thời điều đó cũng làm ảnh
hưởng tới hình ảnh, uy tín và công tác quản lí của cơ quan ban hành văn bản.
Đã có nhiều tác giả quan tâm bàn về cách dùng TN trong các văn bản
hành chính công vụ. Tuy nhiên, vấn đề này thường được lồng ghép ngắn gọn vào
phần kĩ thuật trình bày và hình thức của văn bản, do đó, chưa tạo ra được một
nguyên tắc mang tính hệ thống trong việc dùng ngôn ngữ nói chung, TN nói
riêng. Chính vì thế, yêu cầu từng bước phát triển tiếng Việt nói chung và TN nói
riêng trong lĩnh vực chuyên ngành hành chính nhằm đáp ứng tình hình phát triển
của nền hành chính nước nhà là nhiệm vụ hết sức cần thiết.
Hiện nay, ở Việt Nam việc nghiên cứu về TN chủ yếu là các công trình
1


nghiên cứu riêng lẻ về TN ở một số chuyên ngành cụ thể được công bố trên các
tạp chí chuyên ngành hoặc một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào nghiên cứu đối chiếu TNHC trong tiếng Việt và tiếng
Anh. Việc vay mượn các TN tiếng Anh, trong đó có các TNHC, đang còn nhiều
vấn đề tranh luận, chưa có sự thống nhất. Bên cạnh đó, hiện nay các phương diện
cấu tạo, nội dung ngữ nghĩa và định danh của TNHC là vấn đề chưa được nghiên
cứu chuyên sâu một cách toàn diện và có hệ thống. Vì vậy, việc so sánh - đối

chiếu TN chuyên ngành hành chính tiếng Việt với tiếng Anh trên các bình diện
này là vô cùng hữu ích và cần thiết.
Thêm vào đó, so với những chuyên ngành liên quan khác như khoa học
chính trị, chuyên ngành hành chính học ở Việt Nam còn khá mới mẻ và mới nổi
lên từ thế kỷ XIX, do đó những tài liệu và giáo trình dành cho sinh viên học theo
chuyên ngành này ở một số trường đại học nước ta còn rất hạn chế, ít ỏi. Hơn nữa,
theo khảo sát của chúng tôi, thời gian học tiếng Anh chuyên ngành Hành chính
học còn hạn chế và tương đối bất cập. Sinh viên các trường đại học có chuyên
ngành hành chính chưa cập nhật và đáp ứng được khối lượng kiến thức chung của
ngành. Với phương pháp học tích cực hiện nay, ngoài thời gian học trên lớp dưới
sự hướng dẫn của giảng viên, sinh viên còn phải tự cập nhật kiến thức cho mình
qua nhiều kênh thông tin như: mạng internet hoặc qua các loại sách báo, tạp chí
chuyên ngành bằng tiếng Anh. Cái khó trong quá trình tự nghiên cứu ở đây là
trình độ tiếng Anh chuyên ngành của sinh viên còn rất nhiều hạn chế. Thêm vào
đó, sinh viên thường bị chi phối rất nhiều bởi ngôn ngữ nguồn (tiếng mẹ đẻ) trong
việc tri nhận ngôn ngữ đích (tiếng Anh) và điều này thường được thể hiện khá rõ
trong vốn từ vựng và hình thức biểu đạt của người học.
Với những lí do cơ bản như trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Đối chiếu
thuật ngữ hành chính Việt - Anh” cho công trình luận án của mình.
0.2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
0.2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát, đối chiếu về mặt cấu tạo và định danh của các TNHC
2


trong tiếng Việt và tiếng Anh, luận án hướng đến mục đích: làm sáng tỏ một số
đặc điểm của TNHC trong tiếng Việt và tiếng Anh, từ đó tiến tới những phương
hướng, biện pháp xây dựng và chuẩn hóa TNHC tiếng Việt, góp phần nâng cao
hiệu quả của hoạt động quản lí nhà nước cũng như việc đào tạo trong lĩnh vực
chuyên ngành hành chính ở Việt Nam.

0.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên đây, luận án triển khai những nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
1) Hệ thống hóa các quan điểm lí luận về TN khoa học trên thế giới và ở
Việt Nam, qua đó xác lập cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu;
2) Nhận diện TNHC và xác định hệ thống TNHC trong tiếng Việt và
trong tiếng Anh;
3) Xác định các loại mô hình kết hợp các thành tố để tạo thành TNHC
trong tiếng Việt và tiếng Anh, từ đó, phân tích, đối chiếu đặc điểm cấu tạo của
TNHC trong mỗi thứ tiếng;
4) Đối chiếu đặc điểm định danh của TNHC trong hai ngôn ngữ Việt - Anh;
5) Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất phương hướng, biện
pháp xây dựng và chuẩn hóa TNHC tiếng Việt.
0.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
0.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi chọn đối tượng đưa vào phân tích đối chiếu sâu là hệ TNHC trong
hai ngôn ngữ Việt và Anh, trong đó TNHC trong tiếng Việt được chọn làm ngôn ngữ
cơ sở, còn TNHC trong tiếng Anh là ngôn ngữ được đưa vào đối chiếu.
TNHC được xác định là từ ngữ biểu đạt khái niệm hoặc đối tượng thuộc
chuyên ngành hành chính học và lĩnh vực tổ chức, quản lí, điều hành hoạt động hành
chính của cơ quan, tổ chức các cấp trong xã hội từ trung ương đến địa phương.
0.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án chỉ giới hạn về mặt đồng đại, cụ thể là
luận án chỉ tập trung nghiên cứu đặc điểm cấu tạo và đặc điểm định danh của hệ
3


TNHC hiện đại trong tiếng Việt và tiếng Anh - Mỹ.
0.4. TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU
Khi tiến hành thu thập tư liệu, mục tiêu của luận án là cố gắng thu thập

tương đối đầy đủ các TN hiện đang được sử dụng trong lĩnh vực hành chính ở
Việt Nam và Hoa Kì nhằm rút ra được những nhận xét, đánh giá chính xác,
khách quan về đặc điểm cấu tạo cũng như đặc điểm định danh của TNHC trong
tiếng Việt và tiếng Anh. Vì vậy, để tập hợp TNHC trong tiếng Việt và tiếng Anh
làm tư liệu nghiên cứu, luận án dựa vào các nguồn tài liệu như: các từ điển thuật
ngữ chuyên ngành về hành chính, từ điển giải thích, từ điển đối chiếu thuật ngữ
hành chính Anh –Việt, Các trang mạng của Chính phủ và Quốc hội Việt Nam và
của Hoa Kì. Số lượng TNHC tiếng Việt thu thập được là 2100 đơn vị. Số lượng
TNHC tiếng Anh thu thập được là 1800 đơn vị.
0.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận án sử dụng phối hợp
những phương pháp và thủ pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
1) Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu nhằm tìm ra sự tương đồng
và khác biệt giữa hai hệ thống TNHC trong tiếng Việt và tiếng Anh. Trong đó hệ
thống TNHC tiếng Việt được coi là cơ sở (etalon), hệ TNHC tiếng Anh là đối
tượng được đưa ra đối chiếu.
2) Phương pháp phân tích theo thành tố trực tiếp
Phương pháp này được luận án sử dụng để nghiên cứu các thành tố cấu
thành TNHC, từ đó có thể thấy được các mô hình cấu tạo và mô hình định danh
của TNHC trong tiếng Việt và tiếng Anh. Bằng phương pháp này có thể chỉ ra
được một thuật ngữ được cấu tạo theo mô hình mấy bậc, mối quan hệ giữa các
thành tố trực tiếp thuộc mỗi bậc cũng như mối quan hệ giữa các đại thành tố trực
tiếp tạo nên thuật ngữ.
3) Phương pháp miêu tả
Phương pháp miêu tả được luận án sử dụng để miêu tả đặc điểm cấu tạo
4


của từng TNHC theo các phương diện như: các thành tố cấu tạo nên mỗi thuật

ngữ, đặc điểm từ loại, các mô hình kết hợp cụ thể, các bậc và mối quan hệ giữa
các thành tố để tạo nên thuật ngữ. Phương pháp này giúp thấy được được một
cách đầy đủ và cụ thể đặc điểm của TNHC về cấu tạo, định danh, những vấn đề
còn tồn tại và cách chỉnh lý cũng như định hướng cấu tạo TNHC mới.
4) Thủ pháp thống kê
Thủ pháp thống kê được sử dụng để có các số liệu định lượng, từ đó có cơ
sở rút ra những nhận xét, đánh giá mang tính định chất về từng phương diện đối
chiếu (chẳng hạn, về từ loại, các thành tố và mô hình cấu tạo, các đặc trưng định
danh,…) của TNHC trong tiếng Việt và tiếng Anh.
5) Phương pháp kiểm định ngữ liệu dịch
Phương pháp kiểm định ngữ liệu dịch được sử dụng nhằm cung cấp nguồn
dữ liệu đối dịch Việt-Anh (Mỹ) chuẩn giúp cho việc phân tích, đối chiếu được
khách quan và chính xác.
0.6. ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN
Thực tế, việc nghiên cứu TN nói chung đã có bề dày lịch sử và việc ứng
dụng những thành tựu của lí thuyết TN học vào việc nghiên cứu hệ thống TN
của một ngành khoa học cụ thể cũng không còn là mới ở Việt Nam. Tuy nhiên,
luận án này là công trình đầu tiên ở Việt Nam vận dụng những thành tựu lí luận
chung về TN để khảo sát, đối chiếu hệ thống TNHC trong tiếng Việt và tiếng
Anh từ góc độ ngôn ngữ học. Luận án tiếp cận TNHC trong tiếng Việt và tiếng
Anh như là một bộ phận của TN học và khoa học hành chính. Luận án đã áp
dụng một số cơ sở lí luận mà cho đến nay vẫn còn khả dụng như yếu tố cấu tạo
TN, tiêu chuẩn TN, lí thuyết định danh, lí thuyết điển mẫu... để xem xét, đối
chiếu TNHC trong hai ngôn ngữ Việt và Anh trên các bình diện cấu tạo (như số
lượng yếu tố cấu tạo, phương thức cấu tạo, quan hệ ngữ pháp,...) và phương thức
định danh để tìm ra những nét tương đồng và khác biệt giữa hai hệ TNHC. Trên
cơ sở đó, luận án đánh giá hiện trạng và đề xuất mang tính gợi mở về phương
hướng và biện pháp xây dựng và chuẩn hóa hệ TNHC tiếng Việt.

5



0.7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
0.7.1. Về mặt lí luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lí
thuyết đại cương về ngôn ngữ hành chính, về TNHC, về những tiêu chuẩn cần có
của TNHC. Việc nghiên cứu, phân tích những vấn đề lí thuyết chuyên sâu về đặc
điểm cấu tạo và đặc điểm định danh của TNHC trong tiếng Việt và tiếng Anh là
cơ sở khoa học, khách quan để luận án tìm ra những nét tương đồng và dị biệt.
Từ kết quả nghiên cứu đó, luận án phát hiện, đề xuất những TN cần phải được
chuẩn hóa và giải pháp chuẩn hóa cho từng loại trường hợp nhằm thúc đẩy quá
trình xây dựng và phát triển hệ TNHC cũng như hiệu quả giao tiếp, quản lí trong
lĩnh vực hành chính nói chung.
0.7.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ được ứng dụng trong lĩnh vực biên soạn
từ điển hành chính đối chiếu Anh - Việt hay Việt - Anh, đồng thời có thể làm tài
liệu tham khảo hữu ích cho công tác giảng dạy, học tập môn tiếng Anh chuyên
ngành hành chính nói riêng và lĩnh vực hành chính nói chung ở Việt Nam.
0.8. BỐ CỤC LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ
lục, phần nội dung nghiên cứu của luận án được triển khai với 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận của đề tài
Chương này trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu về thuật ngữ nói
chung, TNHC nói riêng, ở trong nước và trên thế giới; Những cơ sở lí luận có
liên quan để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra.
Chương 2: Đối chiếu đặc điểm cấu tạo của TNHC trong tiếng Việt và
tiếng Anh
Chương này tiến hành đối chiếu TNHC trong tiếng Việt và tiếng Anh theo
các phương diện: số lượng thành tố cấu tạo, đặc điểm từ loại, mô hình cấu tạo;
Đề xuất mang tính gợi ý về việc xây dựng và chuẩn hóa TNHC tiếng Việt trên

phương diện cấu tạo.
Chương 3: Đối chiếu đặc điểm định danh của TNHC trong tiếng Việt và
6


tiếng Anh.
Chương này trình bày vấn đề các phương thức cụ thể tạo nên TNHC; Đối
chiếu đặc điểm định danh của hệ TNHC tiếng Việt và tiếng Anh theo các tham
tố: nguồn gốc hay những con đường hình thành TNHC, kiểu ngữ nghĩa và cách
thức biểu thị của thuật ngữ; Đối chiếu mô hình định danh của các nhóm và tiểu
nhóm TNHC thuộc chuyên ngành hành chính học và lĩnh vực tổ chức, quản lí,
điều hành hoạt động hành chính của cơ quan, tổ chức các cấp trong xã hội từ
trung ương đến địa phương (như đã nêu ở mục 0.3.1 trên đây); Đề xuất mang
tính gợi ý về việc xây dựng và chuẩn hóa TNHC tiếng Việt trên phương diện lựa
chọn đặc điểm định danh.

7


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THUẬT NGỮ
VÀ THUẬT NGỮ HÀNH CHÍNH
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu thuật ngữ học trên thế giới và ở Việt Nam
1.1.1.1. Lịch sử nghiên cứu thuật ngữ học trên thế giới
Thuật ngữ là khái niệm không còn là mới mẻ đối với các nhà nghiên cứu
ngôn ngữ học. Việc nghiên cứu thuật ngữ ở các nước trên thế giới bắt đầu vào
những thời điểm khác nhau. Ở Trung Âu, những nghiên cứu đầu tiên nhằm xây
dựng hệ thống thuật ngữ cho từng lĩnh vực khoa học cụ thể đã được bắt đầu từ

nhiều thế kỷ trước, tiêu biểu là những công trình nghiên cứu của Dürer (14711528) về Toán học, Vesalius (1514-1564) về Giải phẫu, Lavoisier (1743-1793)
và Berthollet (1748-1822) về Hóa học, hay Von Linne (1707-1778) về Thực vật
và Động vật học. Tuy nhiên, các vấn đề về TN mang tính khoa học chỉ thực sự
mới được bàn đến từ những năm 30 của thế kỷ XX. Các hoạt động nghiên cứu đi
đầu ở châu Âu và Liên Xô đã xây dựng nên những cơ sở lí thuyết và phương
pháp cho phần lớn các nghiên cứu về thuật ngữ. Nền tảng của những nghiên cứu
đó là các công trình của E.Vjuster (1898-1977) và Ernest Drezen (1892-1937).
Đặc biệt, E.Vjuster, như được trình bày dưới đây, là người đã có sự ảnh hưởng
hết sức lớn lao đến sự phát triển của thuật ngữ học. Ông được xem là người khai
sáng của thuật ngữ học hiện đại. Bởi vì E.Vjuster đã có nhiều công trình nghiên
cứu để xây dựng thuật ngữ học hiện đại, trong đó đóng góp lớn nhất là xây dựng
lí thuyết chung về thuật ngữ. Nghiên cứu của E.Vjuster đã khởi đầu cho hầu hết
các nội dung của bộ môn thuật ngữ học hiện đại, như các nguyên tắc của thuật
ngữ, phương pháp học về nghiên cứu thuật ngữ, chuẩn hóa và kế hoạch hóa ngôn
ngữ cùng nhiều nội dung quan trọng khác. Trong luận án tiến sĩ (năm 1930),
E.Vjuster đã thảo luận về việc hệ thống hóa phương pháp làm việc trong thuật
ngữ học, đề xuất các nguyên tắc nghiên cứu thuật ngữ, đồng thời chỉ ra những
8


điểm trọng yếu của phương pháp học xử lí dữ liệu thuật ngữ.
Từ sau nghiên cứu của E.Vjuster, ba trường phái nghiên cứu về thuật ngữ
ở các nước thuộc châu Âu gồm Áo (Vienna), Liên bang Xô Viết, Tiệp Khắc
(Praha) đồng thời xuất hiện. Từ ba trung tâm này, thuật ngữ học phát triển sang
phương Tây (Pháp, Canada, Quebec), sang Bỉ và các nước Bắc Âu, sau đó là tới
phía Nam (Bắc Phi, Tiểu Xa-ha-ra Africa, Trung và Nam Mỹ, Bồ Đào Nha, và
Tây Ban Nha) và gần đây hơn nữa là tới phía Đông (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc và các nước châu Á khác).
Trước hết, chúng tôi trình bày sự phát triển của Trung tâm TN học Xô
viết, vì các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu ở đây đã có ảnh hưởng

rất lớn đến các nhà thuật ngữ học Việt Nam. Hoạt động của Trung tâm TN học
Xô viết gắn liền với tên tuổi của các nhà khoa học nổi tiếng như: S.A.
Chaplưgin, D.S. Lotte, S.I. Corsunop, T.L. Kandelaka, V.I. Siforop, G.O.
Vinokur, A.A. Reformatskij, S.I. Ozegop... Công trình nghiên cứu của các nhà
ngôn ngữ học này đã góp phần to lớn vào sự hình thành bộ môn TN học ở Liên
Xô. Các công trình này chủ yếu nghiên cứu bản chất, chức năng, mối quan hệ
của TN với các khái niệm, định nghĩa và tiêu chuẩn của TN. Theo Vũ Quang
Hào, có thể phân chia các công trình nghiên cứu về TN của những nhà ngôn ngữ
học Xô viết thành bốn nhóm: (1) Nhóm nghiên cứu về bản chất của TN, điển
hình là N.P. Cudơxin; (2) Nhóm nghiên cứu về chức năng của TN, tiêu biểu là
G.O Vinokur, L.A. Kapatnadze, X.M. Burdin; (3) Nhóm nghiên cứu nghiêng về
xác định TN trong mối quan hệ của nó với khái niệm, có O.X. Akhmanôva, A.A.
Reformatskij…; (4) Nhóm nghiên cứu về khái niệm và định nghĩa, điển hình có
T.L. Kandelaka, V.P. Đanilencô, D.S. Lotte, v.v... Ngoài ra, các nhà nghiên cứu
Xô viết còn quan tâm nghiên cứu về tiêu chuẩn của TN, chẳng hạn như D.S.
Lotte, A.A. Refomatxkij [28].
Nếu như Liên Xô trước đây là cái nôi của bộ môn TN học với tư cách một
chuyên ngành khoa học, thì ở Áo, các nhà khoa học chủ yếu quan tâm đến
phương pháp xử lí các dữ liệu TN. Trong một thời gian dài, người đứng đầu
9


Trung tâm nghiên cứu và xây dựng TN ở Áo là È. Vjuster và X. Fel'ber. Khi
nghiên cứu các phương tiện giao tiếp trong khoa học và kĩ thuật, È. Vjuster đã
đưa ra nhiệm vụ phải khởi thảo ra các nguyên tắc TN học và từ điển học để làm
cơ sở cho việc nghiên cứu và biên soạn TN ở cấp độ quốc gia và quốc tế. Hoạt
động của È. Vjuster luôn hướng vào thực tiễn. Dưới sự lãnh đạo của ông, người
ta đã thảo ra bản chỉ dẫn biên soạn các cuốn từ điển TN quốc tế, bản chỉ dẫn về
sự phối hợp công tác TN trên toàn thế giới và bản chỉ dẫn về vấn đề xây dựng và
chỉnh lí các hệ thống TN.

Ở Tiệp Khắc trước đây, ngay từ những năm 30 của thế kỉ XX, các nhà
ngôn ngữ học cũng đã nghiên cứu về TN học. Song, nếu như ở Liên Xô trước
đây các nhà khoa học nghiên cứu TN theo hướng quốc tế hóa chúng, thì ở Tiệp
Khắc lại hướng mọi hoạt động cơ bản vào việc xây dựng các yếu tố tương đương
của quốc gia, các yếu tố Slavơ, đối lập với các TN Đức và Hy Lạp - Latin. Ở
Canada khu vực nói tiếng Pháp, động lực chính thúc đẩy các hoạt động TN học
là nhu cầu xây dựng các TN tiếng Pháp để thay thế các TN tiếng Anh trong tất cả
mọi lĩnh vực khoa học và văn hoá.
Các nhà TN học Âu Mỹ nghiên cứu TN dưới góc độ khái niệm hay định
nghĩa, ví dụ như Thorsten Tripple (2003) với Terminology science-a closer look
(TN học - một cái nhìn gần hơn) hay Dafydd Gibbon với The importance of
terminology (Tầm quan trọng của TN). Chẳng hạn, J.C.Sager (Mỹ) đã đưa ra
được 4 tiêu chuẩn chung của TN gồm: tính hệ thống, tính quy ước, tính ổn định và
tính chính xác (dẫn theo [36, tr.19-20]). Mặc dù thế giới có trên 2700 ngôn ngữ
(theo thống kê mới nhất của UNESCO), song cho đến nay chỉ có 60 ngôn ngữ đã
có hệ TN khoa học phát triển và cũng chỉ bao trùm được gần 300 lĩnh vực đối
tượng - chuyên môn. Việc nghiên cứu và xây dựng TN trong mỗi lĩnh vực có
được tích cực đẩy mạnh hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: hiệu quả
của ngành khoa học có các khái niệm và tên gọi mới được tạo ra, sự tham gia của
các nhà khoa học vào quá trình này hay kết quả của hợp tác quốc tế.
Có thể nói, hiện nay có những ngôn ngữ đã phát triển TN ở mức độ nhất
10


định, như: Nga, Anh, Pháp, Đức, Italia. Trong những thập niên cuối thế kỉ XX,
việc nghiên cứu TN trong ngôn ngữ của một số nước đang phát triển cũng được
tăng cường.
1.1.1.2. Lịch sử nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ ở Việt Nam
Mặc dù xuất hiện khá muộn, nhưng TN tiếng Việt đã trải qua những giai
đoạn phát triển khác nhau cùng với những lĩnh vực nghiên cứu về TN khác nhau.

Trước hết, phải kể đến giai đoạn đầu liên quan đến tên gọi của TN. Nhiều công
trình nghiên cứu cho thấy rằng TN ban đầu có các tên gọi khác nhau như Chuyên
danh (Hồng Dân) [11], Danh từ khoa học (Hoàng Xuân Hãn) [23], danh từ
chuyên khoa (Lê Văn Thới, Nguyễn Văn Dương) [81], [82], Thuật ngữ khoa học
(Lưu Khả Kế, Nguyễn Văn Lăng, Nguyễn Thạc Cát [40], [41], [42], [43], [50],
[2], TN khoa học kỹ thuật (Hoàng Mạnh Tuấn) [96]...và cho đến nay tên gọi phổ
biến nhất được sử dụng là TN. TN tiếng Việt mới xuất hiện rất lẻ tẻ từ những
năm đầu của thế kỷ XX ở một số lĩnh vực hạn hẹp, nên số lượng các bài viết về
thuật ngữ cũng rất ít ỏi. Học giả đầu tiên quan tâm đến thuật ngữ là Dương
Quảng Hàm, tiếp theo là Vũ Công Nghi, Nguyễn Ứng... Các tác giả này đều chủ
trương dựa vào tiếng Hán để đặt thuật ngữ tiếng Việt trong một số lĩnh vực.
Nguyễn Văn Thịnh lại chủ trương mượn tiếng Latin hay Hi Lạp để phiên âm và
đề nghị nên sử dụng “ngôn ngữ cội nguồn”, tức ngôn ngữ gốc, chứ không
khuyến khích phiên âm qua tiếng Pháp, vì ông cho rằng tiếng Pháp cũng vay
mượn từ các thứ tiếng trên.
Mãi đến những năm 30 của thế kỷ XX, TN mới dần đi vào tiếng Việt do
phong trào cách mạng nêu cao chủ trương đúng đắn “đấu tranh vì tiếng nói, chữ
viết thống nhất và làm giàu tiếng nói”. Nhưng lúc này TN mới chỉ xuất hiện
trong lĩnh vực khoa học xã hội, đặc biệt là chính trị và triết học, sau mới dần
phát triển sang các ngành khoa học khác. Đường Kách Mệnh của Hồ Chí Minh
(viết năm 1926) là văn kiện đầu tiên, đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thống
TN về chính trị, xã hội và triết học sau này. Các TN khoa học kỹ thuật chủ yếu
được tiếp nhận dưới dạng phiên âm từ một số ít các TN trong tiếng Hán và tiếng
11


Pháp. Đối với TN khoa học kĩ thuật, tờ “Khoa học tạp chí” (1931-1933) đã có
những đóng góp đáng ghi nhận. Khoảng hơn mười năm sau kể từ khi tờ “Khoa
học tạp chí” ra đời, việc đặt TN mới được các nhà khoa học chú ý và thể hiện
quan điểm trong báo Khoa học (1942 - 1943).

Lần đầu tiên vấn đề xây dựng TN khoa học được xem xét một cách tương
đối hệ thống trong cuốn “Danh từ khoa học”của tác giả Hoàng Xuân Hãn xuất
bản lần đầu tiên năm 1942, tái bản năm 1946, 1948. Trong tác phẩm của mình,
ông đề ra cho TN 8 “tính cách” và nêu lên 3 phương sách đặt TN khoa học, đó
là: dùng tiếng thông thường; phiên âm; lấy gốc chữ nho (dẫn theo [89, tr.18]).
Vận dụng 3 phương sách đó, Hoàng Xuân Hãn đã xây dựng được cuốn TN đối
chiếu Pháp - Việt đầu tiên về các môn toán, lí, cơ, thiên văn, dùng cho bậc trung
học. Quan điểm của ông được đánh giá là “tuy có hạn chế về mặt lịch sử nhưng
đã ghi dấu ấn quan trọng trong việc biên soạn nghiên cứu TN tiếng Việt” [25].
Sau công trình nghiên cứu của Hoàng Xuân Hãn, đã có nhiều học giả bắt
đầu biên soạn những tập TN đối chiếu, tiêu biểu là Nguyễn Hữu Quán và Lê Văn
Căn với tác phẩm Danh từ thực vật (Tủ sách nông học Việt Nam, Thuật Hóa,
1945); Đào Văn Tiến với tác phẩm Danh từ vạn vật học (Tổng Hội sinh viên cứu
quốc xuất bản sau Cách mạng tháng Tám, Hà Nội, 1945); hay tác phẩm: Danh từ
y học của Lê Khắc Thiên và Phạm Khắc Quảng, v.v...
Cách mạng tháng Tám thành công, tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ chính
thức của Nhà nước Việt Nam, được sử dụng rộng rãi trong tất cả mọi lĩnh vực xã
hội, chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự, nghệ thuật... và được sử dụng làm
phương tiện giảng dạy duy nhất ở tất cả các cấp học. Nhờ vậy, TN khoa học
tiếng Việt cũng được phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là từ sau ngày hoà bình được
lập lại (1954), miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội đã tạo ra bước phát
triển mới cho việc nghiên cứu và xây dựng TN khoa học tiếng Việt. Chính vì
vậy, ở giai đoạn này, vấn đề xây dựng và thống nhất TN thực sự trở thành mối
quan tâm lớn của các nhà khoa học Việt Nam. Tuy nhiên, khi xây dựng TN, các
nhà khoa học có quan điểm hết sức khác nhau, không có đường hướng chung
12


thống nhất. Trước tình hình đó, năm 1960, Ủy ban Khoa học Nhà nước đã ban
hành “Quy định tạm thời về nguyên tắc biên soạn danh từ khoa học tự nhiên" và

một bản nguyên tắc xây dựng TN Khoa học xã hội. Hai bản quy định này đã phát
huy được tác dụng nhất định thúc đẩy các ngành chuyên môn xây dựng TN theo
một phương hướng thống nhất hơn. Nhờ vậy, rất nhiều tập TN đối chiếu đã ra
đời. Hệ thống TN khoa học tiếng Việt đã có thể đáp ứng được nhu cầu nghiên
cứu, học tập và giảng dạy kể cả ở bậc trên đại học. Thêm vào đó, Ủy ban Khoa
học Nhà nước cũng tổ chức nhiều hội nghị bàn về vấn đề TN, ví dụ: Hội nghị
bàn về vấn đề xây dựng TN khoa học được tổ chức vào ngày 28-29/12/1964; Hội
nghị trưng cầu ý kiến về vấn đề dùng TN khoa học tháng 5/1965. Và sau đó Hội
đồng TN - Từ điển khoa học được thành lập. Hội đồng đã ra một đề án “Quy tắc
phiên TN khoa học nước ngoài ra tiếng Việt”, được Ủy ban Khoa học xã hội
công bố dưới dạng Quy định tạm thời vào tháng 6/1966. Quy tắc này cũng đã
góp phần thúc đẩy công tác nghiên cứu TN lên một bước mới và cho ra đời một
loạt gần 50 tập TN đối chiếu. Do vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất về
TN khoa học tiếng Việt nên nhiều Hội nghị về chuẩn hóa chính tả và TN khoa
học cũng đã được tổ chức tại Hà Nội (7/1978 và 6/1979), Huế (8/1978), thành
phồ Hồ Chí Minh (10/1978).
Có thể nói, trong giai đoạn này, trước yêu cầu của cuộc cách mạng tư
tưởng văn hoá, cách mạng khoa học kĩ thuật và trước sự phát triển mạnh mẽ của
tất cả các ngành khoa học và giáo dục, sự phát triển giao lưu quốc tế, hệ thống
TN tiếng Việt đã có những bước phát triển vượt bậc. “Vào cuối thập kỉ 60, đầu
thập kỉ 70, Tổ TN thuộc Uỷ ban Khoa học kĩ thuật Nhà nước (…) đã tổ chức
biên soạn một loạt các từ điển đối dịch TN cho hầu hết các ngành khoa học tự
nhiên, khoa học kĩ thuật và khoa học xã hội”. Đây là công sức của rất nhiều nhà
khoa học ở miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ. “Những cuốn từ điển này có vai trò
lịch sử rất quan trọng (…) đánh dấu một giai đoạn, một quá trình phát triển và
bước đầu hoà nhập của khoa học Việt Nam với khoa học quốc tế, đồng thời góp
phần chuẩn hoá TN (…) phản ánh không khí sôi nổi của công việc chuẩn hoá
13



TN, chuẩn hoá tiếng Việt cuối thập kỉ 60, đầu thập kỉ 70” [61]. Vào những năm
80 thế kỷ XX, để phục vụ cho cải cách giáo dục, Bộ Giáo dục đã ban hành “Qui
định về chính tả tiếng Việt” và “Qui định về TN tiếng Việt” (5/3/1984), trong đó
nêu ra những yêu cầu chuẩn đối với hai lĩnh vực kể trên. Để thực hiện những yêu
cầu chuẩn đó, Bộ đã thành lập ra hai Hội đồng cấp nhà nước: Hội đồng chuẩn
hoá chính tả tiếngViệt và Hội đồng chuẩn hoá TN. Về TN, các nhà khoa học đã
đưa ra những quy định cụ thể, như cấu tạo và sử dụng TN tiếng Việt, việc chuẩn
hoá, hệ thống hoá... trong việc biên soạn sách giáo khoa, biên soạn từ điển và
giảng dạy.
Tuy nhiên, cho đến thời kỳ này, việc nghiên cứu TN ở Việt Nam chủ yếu
nhằm giải quyết những vấn đề thực tế xã hội như: cách đặt TN, tiêu chuẩn của
TN, vay mượn TN nước ngoài như thế nào... với các công trình nghiên cứu tiêu
biểu của các tác giả như: Đỗ Hữu Châu [3], Hồng Dân [11], Hoàng Văn Hành
[24], Nguyễn Thiện Giáp [16], Lê Khả Kế [40], [41], [42], [43], Lưu Vân Lăng
[49], [50]; Lưu Vân Lăng & Như Ý [52] Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân,
Nguyễn Quang, Vương Toàn [63], Nguyễn Văn Tu [94],...
Từ đầu những năm 90 cho đến cuối thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu
về TN ở Việt Nam thường mang tính tổng kết chung việc nghiên cứu TN từ bối
cảnh xã hội. Năm 1992, Nguyễn Như Ý có bài “Vấn đề tiêu chuẩn TN trong một
số công trình xuất bản tại Nam Việt Nam thời kỳ 1954-1975” [101]. Năm 2000,
Nguyễn Văn Khang có cái nhìn rộng hơn để “Chuẩn hóa TN, nhìn lại từ góc độ
bối cảnh xã hội” và bàn về “Những vấn đề đặt ra đối với việc xử lí từ ngữ nước
ngoài trong tiếng Việt”[44], [45].
Tháng 12 năm 2008, Liên hiệp các Hội Khoa học - Kỹ thuật Việt Nam
cùng với hội ngôn ngữ học Việt Nam đã mở một cuộc hội thảo “TN tiếng Việt
trong đổi mới và hội nhập”. Báo cáo của nhiều nhà khoa học từ nhiều lĩnh vực
khác nhau hầu hết đã quan tâm đến vấn đề nhận diện thực trạng của TN tiếng
Việt từ đó định hướng xây dựng, chuẩn hóa TN tiếng Việt trong thời kỳ đổi mới.
Năm 2010, Nguyễn Đức Tồn công bố bài “Một số vấn đề về nghiên cứu,
14



xây dựng và chuẩn hóa TN tiếng Việt trong thời kì hội nhập, toàn cầu hóa hiện
nay” [88] và năm 2012 ông thực hiện đề tài nghiên cứu cấp bộ “Nghiên cứu,
khảo sát TN tiếng Việt phục vụ cho việc xây dựng Luật ngôn ngữ ở Việt Nam”
[89]. Trong công trình này, ông đã tập trung nghiên cứu toàn diện các vấn đề lí
luận cơ bản của TN học và TN tiếng Việt để làm cơ sở tiến hành khảo sát và
đánh giá tình hình TN tiếng Việt hiện nay nhằm cung cấp những luận cứ khoa
học và thực tiễn cho việc xây dựng Luật ngôn ngữ ở Việt Nam.
Cũng trong năm 2012, có công trình Thuật ngữ học - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn. Đây là tập hợp các bài viết do Hà Quang Năng chủ biên. Công
trình tổng kết một số vấn đề lí luận về thuật ngữ học, đề cập đến những vấn đề lí
luận và thực tiễn của từ điển học thuật ngữ ở Việt Nam và nước ngoài.
Đặc biệt là trong năm 2016, Nhà xuất bản Khoa học xã hội đã ấn hành
chuyên khảo có nhan đề Thuật ngữ học tiếng Việt hiện đại (403 tr) do Nguyễn
Đức Tồn chủ biên. Chuyên khảo này có ba phần chia thành 8 chương. Từ góc độ
bản thể và nhận thức, Nguyễn Đức Tồn đã phân tích, kiến giải những vấn đề lí
luận chung của thuật ngữ học, như thuật ngữ là gì, các tiêu chuẩn cần và đủ
thuộc bản thể của thuật ngữ, các phương thức đặt thuật ngữ; vấn đề ứng dụng lí
thuyết điển mẫu để chuẩn hóa thuật ngữ. Chuyên khảo còn khảo sát thực trạng
xây dựng và sử dụng thuật ngữ tiếng Việt hiện nay qua nghiên cứu trường hợp
một số ngành khoa học và chuyên môn, từ đó đưa ra những kiến nghị giải pháp
có giá trị để xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Ngoài ra, trong sự đóng góp đáng kể vào hoạt động nghiên cứu thuật ngữ
tiếng Việt, hai thập kỷ gần đây còn có các luận văn cao học, luận án tiến sĩ
nghiên cứu thuật ngữ ở một lĩnh vực chuyên ngành cụ thể. Đó là: Vũ Quang Hào
- Hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt, đặc điểm cấu tạo thuật ngữ quân sự (1991),
Luận án Phó Tiến sĩ, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội; Nguyễn Thị Bích Hà –
So sánh cấu tạo thuật ngữ kinh tế thương mại trong tiếng Nhật và tiếng Việt hiện

đại (2000), Luận án tiến sĩ, Trường Đại học KHXH&NV, Hà Nội; Vương Thị
15


Thu Minh, Khảo sát thuật ngữ y học tiếng Anh và cách phiên chuyển sang tiếng
Việt (2005), Luận án tiến sĩ, Trường Đại học KHXH&NV, Hà Nội; Nguyễn Thị
Kim Thanh (2005), Khảo sát hệ thuật ngữ tin học Viễn thông tiếng Việt, Luận án
tiến sĩ, Trường Đại học KHXH&NV, Hà Nội; Mai Thị Loan (2011), Đặc điểm
cấu tạo và ngữ nghĩa luật sở hữu trí tuệ tiếng Việt (2011), Luận án tiến sĩ, Học
viện KHXH ; Nguyễn Thị Như Quỳnh, Vấn đề xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ
vật lí tiếng Việt (2012), Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên; Vũ Thị Thu
Huyền – Thuật ngữ khoa học kĩ thuật xây dựng trong tiếng Việt (2013), Luận án
tiến sĩ, Học viện KHXH ; Ngô Phi Hùng– Nghiên cứu các phương thức cấu tạo hệ
thuật ngữ khoa học tự nhiên tiếng Việt (trên tư liệu thuật ngữ Toán- Cơ -Tin học,
Vật lý) (2013), Luận án tiến sĩ, Trường Đại học KHXH&NV, TP Hồ Chí Minh; Lê
Thanh Hà- Đối chiếu thuật ngữ du lịch Việt - Anh (2014), Luận án tiến sĩ, Học
viện KHXH; Quách Thị Gấm - Nghiên cứu thuật ngữ báo chí tiếng Việt (2015),
Luận án tiến sĩ, Học viện KHXH; Nguyễn Tiến Dũng, Nghiên cứu thuật ngữ
máy xây dựng (2016), Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH; v.v...
Nội dung của hầu hết những luận án tiến sĩ hay luận văn thạc sĩ nói trên
thường là nghiên cứu đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ và các đặc trưng khu biệt
được chọn của khái niệm để đặt thuật ngữ trong một hệ thuật ngữ cụ thể, đồng
thời có nêu định hướng chuẩn hóa hệ thuật ngữ được khảo sát.
Cùng với sự phát triển của thuật ngữ học tiếng Việt về phương diện lí
thuyết, việc nghiên cứu ứng dụng (biên soạn từ điển thuật ngữ) cũng thu được
những thành tựu đáng kể. Một số lượng khá lớn từ điển thuật ngữ chuyên ngành
đã được ra đời trong những năm gần đây, đặc biệt là từ điển thuật ngữ thuộc
những ngành kinh tế mũi nhọn, ngành công nghệ mới phát triển, như tin học,
điện tử viễn thông...
Hiện nay, nhu cầu chuẩn hóa TN đối với từng ngành khoa học nước ta tuy

có mức độ khác nhau nhưng nói chung là rất cấp thiết bởi thực trạng sử dụng TN
chưa thống nhất và số lượng TN phát triển hết sức nhanh chóng, liên tục nên
không tránh khỏi có sự xô bồ. Vì vậy, việc nghiên cứu TN trong thời kỳ mới
16


đặt ra yêu cầu hết sức cấp bách và cần thiết là phải giải quyết cụ thể từng vấn
đề còn chưa thống nhất, đáp ứng nhu cầu phát triển khoa học và công nghệ
của Việt Nam.
Nói tóm lại, trải qua hơn nửa thế kỉ, TN tiếng Việt đã phát triển nhanh
chóng, mạnh mẽ, có sự thay đổi không những về số lượng mà cả về chất lượng,
không chỉ về hình thức mà cả về nội dung. Tuỳ từng giai đoạn lịch sử, tuỳ hoàn
cảnh xã hội mà TN của từng ngành có sự phát triển khác nhau. Những năm 50
của thế kỉ XX trở đi, hệ thống TN chính trị - xã hội, triết học phát triển mạnh,
thời kì Kháng chiến đã tạo điều kiện cho TN quân sự phát triển. Từ những năm
của thập niên 90 của thế kỉ XX trở lại đây, sự phát triển nhanh, mạnh của nền
kinh tế nước ta cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã thúc
đẩy TN kinh tế, thương mại, tin học, viễn thông phát triển vượt bậc. Về cơ bản,
TN tiếng Việt đã có định hướng phát triển đúng, dần dần đã đi vào con đường
khoa học, hòa nhập quốc tế góp phần cho từ vựng tiếng Việt thêm phong phú.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ hành chính
Qua tìm hiểu, khảo sát chúng tôi thấy rằng TNHC bắt đầu xuất hiện cùng
với sự ra đời của xã hội có nhà nước. Tuy nhiên, thủa ban đầu còn sơ khai, hệ
thống TNHC xuất hiện với số lượng rất ít, ví dụ như: thục phán, lạc hầu, lạc
tướng, bồ chính... (TN biểu thị chức vụ thời Âu Lạc); trung thư thừa, bộ thị lang,
tả hữu ty lang trung, thượng thư sảnh viện ngoại lang, đông tây áp môn sứ, tả
hữu phúc tâm, nội thường thị... (TN biểu thị chức danh thời Lý)... nguyên do là
nền hành chính thời bấy giờ còn rất đơn giản, thô sơ. Sau này khi xã hội đã phát
triển mạnh mẽ, số lượng các TNHC tăng lên một cách nhanh chóng. Trong
quá trình vận động và phát triển, ngày càng có nhiều TNHC mới xuất hiện,

một số TN cũ mất dần đi, một số TN mới được thay thế bằng những tên gọi
khác cho phù hợp với xu thế của thời đại như: thủ tướng, bộ trưởng, thứ
trưởng... Có thể thấy, sự vận động và phát triển của hệ TNHC đã phản ánh rõ
những thay đổi nhanh chóng và phát triển của xã hội cũng như sự phát triển
của lĩnh vực hành chính.
17


1.1.2.1.Tình hình nghiên cứu thuật ngữ hành chính trên thế giới
Mặc dù hệ TNHC phát triển hết sức đa dạng và phong phú, nhưng theo
điều tra, khảo sát của chúng tôi, các công trình nghiên cứu TNHC trên thế giới
vẫn còn ít ỏi. Hiện chưa có công trình nào chuyên khảo cứu về phương diện lí
luận các TN trong lĩnh vực hành chính, mà mới chỉ có một số cuốn từ điển
TNHC, như:

1. Public Administration Dictionary của William Fox &Ivan H.
Meyer(1995), Juta & Co Ltd; the 3rd edition.(Từ điển hành chính công)

2. A Dictionary of Public Administration của S.R. Maheshwari (2009),
Orient Blackswan (Từ điển hành chính công)

3. Public Administration Dictionary,Vikram Singh(2012), Tata McGraw
Hill Education, (Từ điển hành chính công).
1.1.2.2.Tình hình nghiên cứu thuật ngữ hành chính ở Việt Nam
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về TNHC cả về lí luận và ứng
dụng cũng còn rất khiêm tốn. Về mặt lí luận, cho đến nay, mới chỉ có một số bài
viết, chẳng hạn: Tìm hiểu về đặc điểm của TNHC trong văn bản quản lí nhà
nước của Nguyễn Thị Thu Vân và Nguyễn Thị Hà (2007) đăng trên Tạp chí
Ngôn ngữ và Đời sống, Số 4 (138)/ 2007. Trong bài này, Nguyễn Thị Thu Vân
và Nguyễn Thị Hà (2007) cho rằng văn bản quản lí nhà nước là công cụ pháp lí

để điều hành; được ban hành không trái với Hiến pháp, luật và các văn bản cấp
trên; là văn bản được ban hành để mọi người tuân thủ, thực hiện và giao dịch…
nên TNHC ngoài những tiêu chuẩn vốn có của TN còn cần phải có những đặc
điểm như tính pháp lí, tính toàn dân, tính thống nhất và phải có mối liên hệ chặt
chẽ với khoa học hành chính [98]. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một bài viết, các
tác giả chưa giải quyết được những vấn đề cốt lõi của hệ thống TNHC. Ngoài ra,
còn có công trình Nghiên cứu, khảo sát ngôn ngữ hành chính Việt Nam phục vụ
cho việc xây dựng Luật ngôn ngữ ở Việt Nam của Vũ Thị Sao Chi, đề tài cấp Bộ,
nghiệm thu năm 2012, trong đó dành một chương - Chương 6 khảo sát tình hình
sử dụng TN trong văn bản hành chính tiếng Việt và đề xuất việc chuẩn hóa hệ
18


×