Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp: Giải pháp nâng cao chất lượng công tác huy động vốn tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Dầu Khí Toàn Cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.41 KB, 58 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

MỤC LỤC

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề tốt nghiệp

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề tốt nghiệp

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM:

Ngân hàng thương mại

NHNN:

Ngân hàng nhà nước

NHTW:


Ngân hàng trung ương

TCTD:

Tổ chức tín dụng

TSCĐ:

Tài sản cố định

CNV:

Công nhân viên

NVTTM:

Nghiệp vụ thị trường mở

TMCP:

Thương mại cổ phần

NHTMCP:

Ngân hàng thương mại cổ phần

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A



Chuyên đề thực tập

LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta từ khi thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa của nền kinh tế,
chuyển nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền
kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định
hướng Xã Hội Chủ Nghĩa đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng và có ý
nghĩa, được dư luận trong và ngoài nước đánh giá là hết sức đúng đắn .
Đường lối kinh tế của Việt Nam hiện nay là “ tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”. Trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010, mục
tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra là sự nghiệp công hoá và hiện đại hoá đất nước.
Đây là mục tiêu quan trọng của đất nước ta trong trong quá trình vươn lên thoát
khỏi sự tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới .
Để thực hiện được công nghiệp hoá hiện đại hoá, “ vốn ” là một nhân tố được đặt
lên hàng đầu . Tiềm năng kinh tế nước ta có, nguồn lao động trong nước lại dồi dào, câu
hỏi cấp thiết đặt ra hiện nay là làm sao để có vốn đầu tư khai thác? Tựu chung lại có hai
loại nguồn vốn có thể thu hút vốn trong nước và vốn nước ngoài. Trong đó vốn trong
nước giữ vai trò chủ yếu, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng. Vốn trong nước rất
nhiều nhưng lại có một vấn đề đặt ra bằng cách nào để khơi thông, thu hút được ? Thực
tế, trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, có rất nhiều chủ thể, thông qua các con đường
khác nhau có khả năng cung cấp dẫn vốn đáp ứng nhu cầu về vốn. Tuy nhiên, một điều
không thể phủ nhận được là huy động vốn qua các trung gian tài chính - Ngân hàng
thương mại (NHTM) - là kênh quan trọng nhất, có hiệu quả nhất vì trong nền kinh tế,
NHTM được coi là trung gian tài chính lớn nhất, quan trọng nhất. Nền kinh tế của
một nước chỉ phát triển với tốc độ cao và ổn định khi có chính sách tài chính, tiền tệ
đúng đắn và hệ thống Ngân hàng hoạt động đủ mạnh, có hiệu quả cao, có khả năng
thu hút, tập trung các nguồn vốn và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn vào các
ngành sản xuất.


Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này, sau một
thời gian thực tập, nghiên cứu tại Ngân hàng thương mại cổ phần dầu khí toàn cầu,
mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về công tác huy động vốn của ngân hàng, em đã
mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng công tác huy động vốn tại
Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Dầu Khí Toàn Cầu ” là chuyên đề tốt nghiệp.
Đề tài thực hiện gồm có 3 chương
Chương 1: Ngân hàng thương mại và hoạt động huy động vốn tại Ngân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng Thương Mại
Cổ Phần Dầu Khí Toàn Cầu
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công
tác huy động vốn tại Ngân Hàng Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Dầu Khí
Toàn Cầu

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập

CHƯƠNG 1
NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG VÀ CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC

HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm và vai trò của Ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của
nền sản xuất hàng hoá. Trải qua hàng trăm năm, đến nay hoạt động của các ngân hàng
thương mại đã trở thành một yếu tố không thể thiếu gắn liền với nền kinh tế của mọi
quốc gia trên thế giới .
Ngân hàng là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá, một động lực
quan trọng cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Với vai trò đó, ngân hàng không thể
đứng ngoài hoạt động của bất cứ quốc gia nào. Vì vậy, mỗi nước đều xây dựng những
khung pháp lý quy định, giới hạn hoạt động của ngân hàng. Mỗi nước khác nhau sẽ có
một khái niệm và mô hình tổ chức ngân hàng khác nhau. Thông thường, người ta phải
dựa vào tính chất và mục đích, đối tượng hoạt động của nó trên thị trường tài chính.
Trong điều 1 Luật ngân hàng của Pháp ( ngày 13/06/ 1941 ) có ghi : “ Ngân hàng
là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công
chúng dưới hình thức ký thác hay dưới hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho
chính họ, trong các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán ”.
Theo pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày
24/05/1990 ( điều 1, khoản 1 ) của Việt Nam : “ Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh
doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và
làm phương tiện thanh toán ”.
NHTM ra đời do yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế: cơ sở nền sản xuất và

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A



Chuyên đề thực tập
lưu thông hàng hoá, và nền kinh tế ngày càng phát triển càng cần đến hoạt động của các
NHTM. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình nhất là chức năng
trung gian tín dụng NHTM đã trở thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự
đóng góp này thể hiện như sau:
Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Với hoạt động đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức,
cá nhân, mọi thành phần kinh tế (vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng từ quá trình sản
xuất, từ nguồn tiết kiệm của dân cư...) thông qua nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng thương
mại đã cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ kịp thời cho quá trình tái sản xuất.
Chính nhờ hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại, đặc biệt là hoạt động tín dụng,
các doanh nghiệp có điều kiện cải thiện hoạt động kinh doanh của mình, góp phần nâng
cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định chủ thể chính đáp
ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính là ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM nếu có hiệu
quả sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các NHTM
đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu thông. Hơn nữa, bằng việc cấp
các khoản tín dụng cho nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dắt dẫn các luồng tiền, tập
hợp, phân chia vốn của thị trường điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò
điều tiết vĩ mô đúng theo phương châm “Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn
dắt thị trường”.

1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà, cung cấp vốn cho nền
kinh tế . Với sự phát triển kinh tế và công nghệ hiện nay,hoạt động ngân hàng đã có
những bước tiến rất nhanh, đa dạng và phong phú hơn song ngân hàng vẫn duy trì các
nghiệp vụ cơ bản sau :

Nghiệp vụ huy động vốn
Đây là nghiệp vụ cơ bản, quan trọng nhất, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
của ngân hàng .Vốn được ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác nhau như huy
động dưới hình thức tiền gửi, đi vay, phát hành giấy tờ có giá . Mặt khác trên cơ sở
nguồn vốn huy động được, ngân hàng tiến hành cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển
sản xuất, cho các mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương và cả nước . Nghiệp vụ huy
động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng, tạo uy tín của ngân hàng ngày càng cao,
các ngân hàng chủ động trong hoạt động kinh doanh, mở rộng quan hệ tín dụng với các
thành phần kinh tế và các tổ chức dân cư, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó các
ngân hàng thương mại phải căn cứ vào chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của đất
nước, của địa phương . Từ đó đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp nhất là các
nguồn vốn trung, dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước .
Nghiệp vụ sử dụng vốn
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp vụ sử dụng
vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân hàng, quyết định năng lực
cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường . Do vậy ngân hàng cần phải nghiên cứu và đưa
ra chiến lược sử dụng vốn của mình sao cho hợp lý nhất .
Một là, ngân hàng tiến hành cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê, nhìn chung
thì khoảng 60%- 75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động cho vay. Thành công
hay thất bại của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện kế hoạch tín dụng
và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của ngân hàng. Các loại cho

vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn,
nguồn gốc và phương pháp hoàn trả...
Hai là tiến hành đầu tư
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu cầu khác
nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi hỏi Ngân hàng phải
luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung cấp đầy đủ kịp thời nguồn vốn
cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư.
Có 2 hình thức chủ yếu mà các ngân hàng thương mại có thể tiến hành là:

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập


Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn

vào các doanh nghiệp, các công ty khác.


Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh

doanh của ngân hàng.
Ba là nghiệp vụ ngân quỹ
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành sản
xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu quan trọng đó là hàng loạt các nhân tố
cần quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề ngân hàng là một nghề
kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình, ngân hàng không thể bỏ qua sự

“an toàn”. Vì vậy, ngoài việc cho vay và đầu tư để thu được lợi nhuận, ngân hàng còn
phải sử dụng một phần nguồn vốn huy động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh
toán và thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do Trung ương đề ra.
Nghiệp vụ khác
Là trung gian tài chính, ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những lợi thế đó
là ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ . Để
thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách
hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại
thẻ …cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi
khách hàng cần . Mặt khác,các ngân hàng thương mại còn tiến hành môi giới, mua, bán
chứng khoán cho khách hàng và làm đại lý phát hành chứng khoán cho các công ty .
Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu
tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ…
Như vậy,các nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân hàng tồn tại
và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Vì
các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với
nhau.Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử
dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
gian tạo thêm thu nhập cho ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng, qua
đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.

1.2. NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1 Khái niệm vốn huy động trong Ngân hàng thương mại
NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau các trung gian tài
chính lại được phân chia khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm chung là vai trò
chủ đạo của các ngân hàng thương mại đóng góp khối lượng tài sản và tầm quan trọng
đối với nền kinh tế. Để có được vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi nhuận lên hàng đầu
và công cụ duy nhất mà các NHTM phải có trước tiên là vốn.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo lập hoặc
huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Vốn của ngân hàng được hình thành qua các nguồn khác nhau . Để bắt đầu hoạt
động của ngân hàng thì chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định, được gọi là vốn
ban đầu . Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng khối lượng vốn của mình thông
qua các hoạt động huy động vốn như nghiệp vụ tiền gửi, nghiệp vụ đi vay và các nghiệp
vụ khác ( dịch vụ uỷ thác, trung gian thanh toán…)
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động được từ các tổ chức
kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng,
thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác… Vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại, nó đóng vai trò rất quan trọng trong
mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng .

1.2.2. Tầm quan trọng của vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng thương mại
Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Khác với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, hoạt
động của ngân hàng có những đặc trưng riêng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh
chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại
hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A



Chuyên đề thực tập
khoán (thị trường vốn dài hạn). Quá trình kinh doanh tiền tệ của ngân hàng được mã hoá
bằng công thức T-T’, trong đó T là nguồn vốn bỏ ra ban đầu, T’ là nguồn vốn thu về sau
một quá trình đầu tư, tiến hành hoạt động kinh doanh: T’>T. Từ công thức này, có thể
khẳng định ngân hàng nào trường vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh trong cạnh tranh.
Vì vậy, ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết (vốn điều lệ) theo quy định thì ngân hàng luôn
phải chăm lo tới việc tăng trưởng nguồn vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên
thương trường
Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, nếu không có uy tín thì ngân
hàng không thể tồn tại và ngày càng mở rộng hoạt động của mình. Uy tín được thể hiện
ở khả năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Khả năng thanh toán của
ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân
tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung
và vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với khả năng huy động vốn cao, ngân hàng có
thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh
tranh có hiệu quả, góp phần vừa giữ được chữ tín, vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng
trên thương trường.
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh
giúp các doanh nghiệp có khả năng tự hoàn thiện mình hơn. Với ngân hàng vốn chính là
yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thực tế đã chứng minh: quy mô
vốn, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiền đề cho việc thu
hút nguồn vốn, và nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc mở
rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng,
chủ động về thời hạn, lãi suất. Kết quả của sự gia tăng trên giúp ngân hàng kinh doanh đa
năng trên thị trường, phân tán rủi ro, tạo thêm vốn cho ngân hàng và khi đó, tất yếu trên
thương trường sức cạnh tranh của ngân hàng sẽ tăng lên.


1.2.3. Nguồn vốn huy động
Nguồn tiền gửi

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại . Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài
khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy
động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư .
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng . Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền có chất
lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động
khác nhau .
a. Phân loại theo thời hạn
- Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền đúng như tên gọi của nó là thời gian gửi tiền không xác định,
khách hàng (cá nhân, tổ chức) có quyền rút tiền ra bất cứ lúc nào. Mục đích của khách
hàng đối với loại tiền này là hưởng những tiện ích trong thanh toán khi có nhu cầu chi trả
trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Vì vậy đây là bộ phận tiền chỉ nhàn
rỗi tạm thời chứ không phải là khoản để dành.
-Tiền gửi có kỳ hạn :
Ngược với khoản tiền gửi không kỳ hạn, đây là khoản tiền gửi với thời gian xác
định. Nguyên tắc tiến hành khoản tiền gửi này là người gửi chỉ được rút tiền khi đến thời
hạn như đã thoả thuận có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm hoặc trên thế
nữa. Theo quy định, ngân hàng có quyền từ chối việc rút tiền trước thời hạn của người

gửi tiền. Tuy nhiên, ở một số nước, quy định này đã được nới lỏng: các ngân hàng cho
phép người gửi tiền được rút ra trước hạn nhưng phải báo trước cho ngân hàng một
khoảng thời gian nhất định, nếu không báo trước người gửi sẽ không được hưởng lãi suất
hoặc rất thấp.
b. Phân loại theo đối tượng
- Tiền gửi của dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng đến.Trong
điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm với mục tiêu
đảm bảo an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn .
Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều khuyến khích dân cư

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách ở rộng mạng lưới huy động,
đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn …
- Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt đông sản xuất kinh doanh nên các đơn vị
này thường gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng tiện ích trong thanh
toán. NHTM là một trung gian tài chính, nó quan hệ với các đối tượng này thông qua
việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và đáp ứng yêu cầu thanh toán
của họ. Do có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải thanh toán nên ngân
hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định, điều này lí giải vì sao ngân hàng huy động
được nhiều nguồn vốn nhất trong lĩnh vực này, có chi phí thấp và được sử dụng cho vay
không chỉ ngắn hạn mà còn cả trung hạn. Tuy nhiên nguồn này có hạn chế là tính ổn
định và độ lớn phụ thuộc vào quy mô, loại hình của doanh nghiệp.
c. Phân loại theo mục đích

- Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi vào ngân
hàng, nhằm hưởng lãi suất theo qui định . Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu nhập bằng
tiền của các cá nhân chưa sử dụng được gửi vào các tổ chức tín dụng . Nó là một dạng
đặc biệt của tích luỹ tiền tệ, trong tiêu dùng cá nhân . Khi gửi tiền người gửi được giao
một sổ tiết kiệm coi như giấy chứng nhận tiền gửi vào ngân hàng . Đến thời hạn khách
hàng rút tiền ra được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền lãi trên tổng số tiền gửi tiết
kiệm .Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết
kiệm có kỳ hạn .
- Tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán
Đây là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân
hàng giữ và thanh toán hộ . Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của
doanh nghiệp hoặc cá nhân đều được ngân hàng thực hiện . Các khoản thu bằng tiền của
doanh nghiệp hoặc cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu .
Lãi suất của khoản tiền này rất thấp, thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các
dịch vụ của ngân hàng với mức phí thấp.
- Tiền gửi “ lai ” ( vừa tiết kiệm vừa giao dịch )

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
Đây là loại tiền gửi mà người gửi vừa có thể yêu cầu ngân hàng thanh toán hộ,
vừa có thể hưởng lãi suất định kỳ như một khoản tiền gửi tiết kiệm.Tuy nhiên, lãi suất
của khoản tiền này thường không cao như lãi suất tiền gửi tiết kiệm bởi tính cố định của
khoản gửi, ngân hàng có thể không sử dụng được hoặc sử dụng rất ít số vốn huy động
này để cho vay hoặc đầu tư.
Nguồn đi vay

Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại . Tuy nhiên khi cần
các ngân hàng thường vay mượn thêm . Tại nhiều nước, ngân hàng Trung ương thường
quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Do vậy nhiều ngân hàng vào
những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy
động bị hạn chế .
- Vay NHNN
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của các ngân
hàng thương mại Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, ngân hàng thương mại thường
vay ngân hàng Nhà nước . Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng nhà nước là tái
chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn ) . Thông thường, ngân hàng Nhà nước chỉ chiết khấu
cho những thương phiếu có chất lượng ( thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ
cao ) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ . Trong
điều kiện chưa có thương phiếu, ngân hàng nhà nước cho ngân hàng thương mại
vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định .
- Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng
khác trên thị trường liên ngân hàng . Các ngân hàng đang có lượng dự trữ vượt yêu cầu
sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn . Ngược lại,
các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh
khoản . Như vậy nguồn vay các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả
cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ
ngân hàng Nhà nước .
- Vay trên thị trường vốn

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập

Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động một cách chủ động trên thị trường tài
chính. Là trung gian tài chính, phải luôn đáp ứng nhu cầu về vốn, do vậy việc ngân hàng
thiếu vốn là điều không thể tránh khỏi. Trong những trường hợp này, ngân hàng có thể sử
dụng nghiệp vụ huy động vốn trên thị trường tài chính: phát hành các giấy tờ có giá trị
như các giấy tờ vay nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Việc chuyển nhượng các giấy
tờ trên từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác phụ thuộc vào thoả thuận giữa ngân
hàng và khách hàng . Ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu và phát hành trái phiếu.
Trái phiếu là một giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ của khách hàng đối với người
chủ ngân hàng với cam kết như thanh toán một số tiền xác định vào một ngày xác
định trong tương lai với thời hạn xác định cho trước.
Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát
hành nhằm huy động vốn trong dân cư, chủ yếu là để phục vụ cho những kế hoạch
kinh doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh doanh…
Nguồn khác
Ngoài các nguồn trên, ngân hàng còn thực hiện huy động vốn thông qua nguồn
uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác.
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ
thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo nên
nguồn uỷ thác tại ngân hàng . Ngoài ra, các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có
thể hình thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C
…) . Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả …cũng góp phần làm tăng
nguồn huy động trong công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại .

1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng công tác huy động vốn
Chi phí huy động vốn
a. Lãi suất huy động
Lãi suất huy động luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh tế.
Người gửi muốn một lãi suất cao, người vay lại muốn lãi suất thấp . Là trung gian đóng
vai trò cầu nối giữa hai đối tượng trên, ngân hàng phải tìm cách điều chỉnh mức lãi suất
sao cho hợp lý nhất đối với các bên , trong đó điều quan trọng là phải đảm bảo lợi ích


Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
của ngân hàng . Vì vậy trong huy động vốn, mỗi ngân hàng đều cố gắng áp dụng mọi
biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn sao cho chi phí huy động vốn
bình quân là nhỏ nhất và sử dụng số vốn đó để cho vay với một mức lãi suất chấp nhận
được trên thị trường . Chi phí huy động được đánh giá qua hệ thống các chỉ tiêu lãi suất huy
động bình quân (tính bằng bình quân gia quân gia quyền của lãi suất các nguồn theo khối
lượng từng nguồn), lãi suất huy động của từng nguồn và đặc biệt là lãi suất cạnh tranh NEC.
Mặt khác, cũng với một mức chi phí trả lãi bình quân, sự đa dạng hoá trong lãi
suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn là cần thiết, Sự đa dạng hoá lãi suất
làm cho tăng tính hiệu quả của chính sách lãi suất mà ngân hàng đưa ra . Nếu có chính
sách lãi suất phù hợp, hiệu quả, ngân hàng sẽ tối thiểu hoá được chi phí trong khi vẫn
hoàn thanh kế hoạch về nguồn vốn .
b. Chi phí khác
Bên cạnh chi phí chính là lãi suất, trong quá trình huy động vốn còn có các chi
phí khác như chi phí tiền lương cho cán bộ huy động, chi phí in ấn phát hành, chi phí cơ
sở vật chất, chi phí giao dịch quảng cáo … Tuy chi phí này chiếm một tỷ trọng tương đối
nhỏ nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân hàng.
Các hình thức huy động vốn
Hình thức huy động vốn là những cách thức ngân hàng sử dụng để thu hút nguồn
vốn. Hình thức huy động càng đa dạng thì vốn chảy vào ngân hàng càng nhiều. Vì vậy
độ đa dạng của các hìng thức huy động vốn chính là chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của
công tác huy động vốn ở các ngân hàng thương mại.
Sự đa dạng các công cụ huy động được thể hiện trước hết là ở số lượng các công
cụ ngân hàng sử dụng. Tuỳ theo đặc điểm, mục tiêu chiến lược kinh doanh, mỗi ngân

hàng đưa ra những loại công cụ huy động. Thực tế, số lượng các công cụ huy động càng
nhiều thì ngân hàng càng có nhiều điều kiện thu hút được vốn, tuy nhiên số lượng các
công cụ vốn lại bị hạn chế bởi khả năng quản lý của ngân hàng. Một ngân hàng sử dụng
nhiều công cụ huy động vốn không hoàn toàn đồng nghĩa với việc công tác huy động
vốn của ngân hàng đó có hiệu quả tốt, mà nó chỉ được coi là có hiệu quả khi những công
cụ đó thực sự thích hợp với ngân hàng. Cụ thể đối với các ngân hàng có hoạt động kinh

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
doanh đa dạng, đội nhũ cán bộ công nhân viên ngân hàng có trình độ cao thì ngân hàng
nên đa dạng hoá các loại công cụ huy động vốn.
Đa dạng về số lượng các công cụ là chưa đủ, mà ngân hàng phải đa dạng về kỳ
hạn huy động, loại tiền sử dụng nữa . Đó là khả năng huy động vốn với các kỳ hạn khác
nhau trong đó có cả nội tệ, ngoại tệ và với mức lãi suất khác biệt tương ứng sao cho
người gửi tiền chấp nhận được và cảm thấy hợp lý . Do vậy, để công tác huy động vốn
của ngân hàng thực sự đạt được hiệu quả cao, ngân hàng cần phải tính toán, nghiên cứu
tìm hiểu nhu cầu của thị trường, trên cơ sở năng lực bản thân đưa ra các hình thức huy
động đa dạng về kỳ hạn, loại tiền. Nếu những ngân hàng có quan hệ quốc tế rộng thì
nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ phải lớn, hay nếu có chiến lược sử dụng vốn để cho
vay dài hạn thì cần tăng cường huy động vốn trung và dài hạn.
Tính ổn định của nguồn vốn
Tính ổn định ở đây bao gồm ổn định về khối lượng, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu nguồn.
Thật vậy, công tác huy động vốn không thể có hiệu quả khi mà nguồn vốn huy
động được lại không đạt được quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của ngân hàng
hay không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh doanh; cơ cấu vốn của ngân
hàng lại không có sự hợp lý giữa các nguồn vốn huy động ngắn hạn, trung hạn và dài

hạn, giữa vốn ngoại tệ và vốn nội tệ. Đối với ngân hàng, do mỗi nguồn vốn có những
điểm mạnh, điểm yếu riêng trong việc khai thác và huy động nên cơ cấu vốn biến đổi sẽ
dẫn tới sự biến đổi trong cơ cấu “đầu ra”: cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo sự thay
đổi trong lợi nhuận, rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Cơ cấu nguồn vốn huy động phụ
thuộc không chỉ vào một phần kế hoạch của ngân hàng mà còn chịu sự tác động của các
nhân tố bên ngoài đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Khối lượng vốn huy động phản ánh quy mô vốn. Quy mô vốn lớn sẽ tạo điều
kiện cho ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng thì quy mô vốn huy động là một bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất và có vai trò
quan trọng hơn cả. Sau khi đã huy động được khối lượng vốn lớn thì cái mà ngân hàng
cần quan tâm lúc này là tốc độ tăng trưởng ổn định của nó vì có thể lúc này quy mô vốn
lớn, nhưng sẽ là khó khăn cho ngân hàng khi đưa ra quyết định cho vay hay đầu tư nếu

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
ngân hàng không kiểm soát, không dự đoán được xu hướng biến động của dòng tiền rút
ra và dòng tiền gửi vào.
Một số chỉ tiêu khác
Ngoài các chỉ tiêu chính trên, chất lượng công tác huy động vốn còn được đánh
giá qua một số chỉ tiêu :
• Mức độ hoạt động của vốn huy động : Được đánh giá qua chỉ tiêu hệ số sử
dụng vốn . Hệ số sử dụng vốn càng tiến đến 1 càng tốt, điều này thể hiện nguồn vốn huy
động được sử dụng tối đa.
• Mức độ thuận tiện khách hàng : Được đánh giá qua các thủ tục gửi tiền, rút
tiền, các dịch vụ kèm theo của ngân hàng …nhằm tiết kiệm được thời gian và chi phí cho
khách hàng .

• Thời gian để huy động một số lượng vốn nhất định .
• Một số chỉ tiêu khác như : số lượng vốn bị rút ra trước thời hạn, kỳ hạn thực tế
của nguồn vốn…

1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng công tác huy động vốn
của Ngân hàng thương mại
Những nhân tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng thương mại
được xem xét qua hai nhóm nhân tố đó là : nhóm nhân tố mang tính khách quan và
nhóm nhân tố mang tính chủ quan.
Nhân tố khách quan
• Thứ nhất là môi trường pháp lý
Như chúng ta đã biết, hoạt động của ngân hàng có mức độ ảnh hưởng, tác động
hết sức mạnh mẽ đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Cụ thể việc huy động vốn
và sử dụng vốn của ngân hàng đều tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế, thu nhập của các chủ thể, tốc độ chu chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm
phát. Chính vì lẽ đó, hoạt động của ngân hàng phải chịu sự quản lý chặt chẽ gắt gao hơn
so với các doanh nghiệp khác. Thực tế là ngân hàng phải chịu sự điều chỉnh của rất nhiều
chính sách, các quy định của chính phủ, của NHTW; đó là Luật các tổ chúc tín dụng, luật
kinh tế, luật dân sự, hàng loạt hệ thống các quy định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất,
dự trữ, hạn mức. Trong sự ràng buộc về luật pháp này thì các yếu tố của nghiệp vụ huy

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
động vốn chắc chắn sẽ bị thay đổi và kết quả làm ảnh đến quy mô và hiệu quả của việc
huy động vốn. Bởi khi chính sách của Nhà nước, của NHTW: chính sách tiền tệ, tài
chính, lãi suất, tín dụng thay đổi sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất

lượng nguồn vốn của NHTM.
• Thứ hai là môi trường kinh tế - chính trị - xã hội
Hoạt động của NHTM nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng không thể
thoát ly khỏi môi trường kinh doanh đặc biệt là môi trường kinh tế - chính trị - xã hội .
Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn
luôn bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng, thu nhập, tình trạng thất nghiệp, lạm
phát … tác động trực tiếp . Khi nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất phát triển, từ đó tạo
điều kiện tích luỹ nhiều hơn, do đó tạo môi trường cho việc thu hút vốn của ngân hàng
thuận lợi . Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng làm cho môi trường đầu tư
của ngân hàng bị thu hẹp khiến quá trình tạo vốn của ngân hàng gặo khó khăn .
Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu môi trường chính trị không ổn
định. Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động mạnh mẽ
đến quan hệ vốn của ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
Điều này cũng là nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của ngân hàng.
Nhân khẩu học cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới nguồn vốn thông qua việc
phân bổ dân cư, trình độ, lứa tuổi …Ngân hàng cũng nên xem xét yếu tố này trong hoạt
động huy động vốn của mình
• Thứ ba là môi trường văn hoá.
Môi trường văn hoá là yếu tố quyết định đến tập quán, tâm lý, thói quen trong
việc sử dụng tiền của dân cư . Và những tập quán tiêu dùng này sẽ ảnh hưởng đến nghiệp
vụ tạo vốn của ngân hàng . Nếu ở những vùng mà người dân quen sử dụng số tiền nhàn
rỗi dưới hình thức cất trữ thì việc huy động vốn của ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Hơn nữa, mức độ chấp nhận rủi ro của xã hội, thói quen tích luỹ ảnh hưởng đến quyết
định của những thành viên trong xã hội về phương thức tiêu dùng và tiết kiệm, giữ tiền ở
nhà, gửi tiền ở ngân hàng, đầu tư vào chứng khoán hoặc bất động sản …
• Thứ tư là yếu tố cạnh tranh trên thị trường tài chính
Hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng có sự tham gia của nhiều loại hình

Nguyễn Thanh Bình


Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
ngân hàng mới và các tổ chức tài chính phi ngân hàng . Do đó, cạnh tranh có xu hướng
gia tăng mạnh, làm giảm đi sự khác biệt giữa ngân hàng thương mại với các tổ chức tài
chính phi ngân hàng . Xu hướng cạnh tranh trong ngành ngân hàng càng gia tăng do các
yếu tố như thay đổi chính sách tài chính tiền tệ, đổi mới tài chính của doanh nghiệp kinh
doanh tiền tệ…
Cạnh tranh về tiền gửi diễn ra dưới nhiều hình thức . Các ngân hàng có thể áp
dụng những điều kiện giống nhau cho tất cả các khách hàng gửi tiền . Vì lý do này, các
sản phẩm dịch vụ liên quan đến tiền gửi được mở rộng và được phổ biến nhanh chóng .
Thêm vào đó, nhiều tổ chức tài chính phi ngân hàng có thể huy động tiền gửi có kỳ hạn ,
thậm chí còn cung cấp các tài khoản không kỳ hạn .
Nhân tố chủ quan
• Các hình thức huy động vốn và chất lượng các dịch vụ do ngân hàng cung
ứng, và hệ thống màng lưới .
Hình thức huy động vốn của ngân hàng đưa ra càng phong phú, đa dạng linh hoạt
và thuận tiện thì khả năng thu hút vốn trong nền kinh tế càng lớn, xuất phát từ sự khác
nhau về nhu cầu và tâm lý trong dân cư . Chính sự đa dạng hoá các hình thức huy động
vốn của Ngân hàng đã giúp cho mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp tìm được cho mình
một hình thức đầu tư hợp lý nhất.
Khi các ngân hàng thương mại đưa ra các hình thức huy động vốn ngày càng đa
dạng và hợp lý, cùng với việc mở rộng hệ thống màng lưới hoạt động, và nâng cao chất
lượng hoạt động các dịch vụ ngân hàng, từ đó thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến
với ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc huy động vốn . Ngược
lại khi các hình thức huy động vốn của ngân hàng chưa đa dạng, phong phú, chất lượng
hoạt động dịch vụ chưa cao, hệ thống màng lưới còn ít, chưa thuận lợi cho khách hàng
trong việc giao dịch với ngân hàng, thì nó sẽ ảnh hưởng không tốt tới huy động vốn của
ngân hàng .

Hiện nay với sự đổi mới sâu sắc của ngành ngân hàng, các ngân hàng thương
mại không ngừng đổi mới về khoa học, công nghệ, về phong cách giao dịch, mở
rộng các hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng, phát triển thêm mạng lưới hoạt

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
động từ chi nhánh cấp 3, cấp 4, các ngân hàng lưu động, và các ngân hàng hoạt
động trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, kinh doanh dịch vụ ...
• Chất lượng hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc huy động tiền
gửi vào hệ thống ngân hàng, nghiệp vụ huy động vốn làm nhiệm vụ khơi tăng các nguồn
vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, thì nghiệp vụ sử dụng vốn thực hiện sử dụng các nguồn
vốn đó vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ....để đem lại khả năng sinh lời, thu lợi nhuận về
cho ngân hàng .Do vậy nếu nghiệp vụ sử dụng vốn không hiệu quả tất yếu dẫn đến việc
huy động vốn bị thu hẹp lại . Khi sử dụng vốn kém hiệu quả, làm thất thoát vốn nhiều
dẫn đến lòng tin của dân chúng vào ngân hàng bị giảm đi . Từ đó sẽ rất khó khăn cho các
hình thức huy động các nguồn vốn nhàn rỗi . Mặt khác hoạt động tín dụng hiệu quả tạo
cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế kinh doanh có hiệu quả, thu nhập xã hội ngày
càng tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm, đời sống của dân cư ngày càng nâng cao, nguồn vốn
nhàn rỗi ngày càng tăng, tạo cho nguồn vốn ngân hàng huy động ngày càng tăng trưởng
để thực hiện đầu tư cho các chu kỳ sản xuất tiếp theo .
• Uy tín của ngân hàng.
Có thể gọi đây chính là tài sản vô hình của ngân hàng. Uy tín bao gồm uy tín của
ngân hàng trong toàn hệ thống, của các thành viên trong hội đồng quản trị, ban giám đốc.
Sự nổi tiếng của ngân hàng là tài sản quý trong công tác huy động vốn vì trong lòng thị
trường ngân hàng đã tạo một hình ảnh riêng, khi đó khách hàng sẽ tin tưởng vào ngân

hàng, giúp ngân hàngcó khả năng ổn định khối lượng vốn huy động, tiết kiệm chi phí
huy động (thực tế khi ngân hàng có tiếng tăm, họ dễ dàng thu hút vốn hơn các ngân hàng
khác ngay cả khi lãi suất tiền gửi của ngân hàng đưa ra có thấp hơn).
• Chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể. Chiến
lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện tại của mình
trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội thách thức đồng thời dự đoán được
sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. Thông qua chiến lược kinh doanh
ngân hàng ngân hàng sẽ có thể quyết định thu hẹp hay mở rộng việc huy động vốn về mặt
quy mô, có thể thay đổi tỷ lệ các loại nguồn, tăng hay giảm chi phí huy động. Với tác dụng

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
to lớn như vậy, nếu chiến lược kinh doanh được lựa chọn đúng đắn, các nguồn vốn được
khai thác một cách tối đa thì công tác huy động vốn sẽ phát huy được hiệu quả.
• Trình độ công nghệ ngân hàng.
Trình độ công nghệ ngân hàng bao gồm cơ sở vật chất phục vụ ngân hàng; các loại
hình dịch vụ ngân hàng cung ứng; trình độ nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên ngân hàng.
Cơ sở vật chất của ngân hàng càng khang trang hiện đại, công nghệ tiên tiến mang lại
lợi ích thiết thực cho kinh doanh, luôn tạo điều kiện thuận lợi và phục vụ cho khách hàng tốt
hơn, tạo lòng tin cho khách hàng. Thực tế khách hàng sẽ tin tưởng yên tâm hơn khi gửi tiền ở
một ngân hàng có trình độ công nghệ trình độ công nghệ ngân hàng cao. Và khi khách hàng
đã thực sự yên tâm gửi tièn thì ngân hàng dễ dàng trong việc huy động.
• Năng lực, trình độ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng .
Nếu ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự, tài sản nợ, tài sản có, tức là trong quá
trình hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng dự đoán được những rủi ro xảy ra , dự

đoán được môi trường đầu tư của mình có hiệu quả hay không thì quá trình hoạt động
của ngân hàng đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín, tạo điều kiện thu hút khách hàng
gửi tiền cũng như vay tiền.
Mặt khác, trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng càng cao, mọi thao tác nghiệp
vụ thực hiện nhanh chóng, chính xác, có hiệu quả ; thái độ phục vụ, tác phong làm việc
của cán bộ ngân hàng tốt, nhiệt tình, cởi mở, tạo thuận lợi cho khách hàng sẽ gây
được ấn tượng tốt đối với khách hàng, thu hút được nhiều khách hàng hơn . Thái độ
phục vụ của cán bộ ngân hàng đối với khách hàng có ảnh hưởng lớn đến việc huy
động vốn cho ngân hàng . Do đó, để thu hút khách hàng gửi tiền, đi đôi với việc trau
dồi kiến thức, nghiệp vụ, cán bộ ngân hàng phải thường xuyên chú ý đến thái độ
phục vụ của mình sao cho vừa lòng khách hàng .
• Công tác quảng cáo, khuyến mãi…
Các ngân hàng thương mại hiện nay đã từng bước học tập và ứng dụng nghệ
thuật thông tin quảng cáo, các hình thức khuyến mãi…Tuy việc đầu tư cho công tác này
còn hạn chế, nhưng có thể nói đây cũng là mặt mạnh của ngành ngân hàng trong việc
cạnh tranh để huy động tiền gửi . Thông tin quảng cáo, tiếp thị khuyến mại, các dịch vụ
hậu mãi rõ ràng sẽ phát triển mạnh mẽ trong cơ chế thị trường . Và tuỳ vào chu kỳ sống

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
của sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp để các nhà quản trị ngân hàng chọn thời
điểm, thời gian sử dụng, chiến lược quảng cáo khuyến mãi cũng như hậu mãi phù hợp.

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN DẦU KHÍ TOÀN CẦU

2.1. SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN DẦU
KHÍ TOÀN CẦU
2.1.1. Một số nét chính về Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Dầu Khí
Toàn Cầu
Ngân hàng TMCP Dầu Khí Toàn Cầu (GP.Bank), tiền thân là ngân hàng
thương mại nông thôn Ninh Bình, đã chính thức chuyển đổi mô hình hoạt động từ
một ngân hàng nông thôn sang ngân hàng đô thị từ 07/11/2005. Từ một tổ công tác
Hà Nội chưa đầy 10 thành viên tháng 11/2005, đến nay, GP.Bank đã xây dựng được
một đội ngũ hơn 800 cán bộ nhân viên và hơn 40 chi nhánh/phòng giao dịch tại
các tỉnh/thành phố kinh tế trọng điểm: Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Vũng
Tàu, Đà Nẵng, Ninh Bình, Gia Lai… Qua thời gian, GP.Bank đã khẳng định sự
trưởng thành và tạo những ấn tượng tốt đẹp về sự có mặt của mình tại thị trường tài
chính – tiền tệ Việt Nam.
Cán bộ nhân viên:
Với tốc độ phát triển hoạt động của Ngân hàng và sự cạnh tranh ngày càng cao
trên thị trường lao động, công tác phát triển nguồn nhân lực luôn giữ một vai trò
then chốt trong những thành công đạt được của GP.Bank. Không chỉ nâng cao cơ
hội phát triển nghề nghiệp nguồn nhân lực đang có, GP.Bank còn hết sức chú trọng
thu hút và xây dựng nguồn nhân lực mới, trong đó chú trọng tập hợp đội ngũ nhân
lực trẻ được đào tạo chính quy từ các trường đại học và nguồn lao động giàu kinh
nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng bổ sung cho đội ngũ nhân sự GP.Bank. Hiện nay,
trên 97% cán bộ nhân viên của GP.Bank đã có trình độ đại học, trên đại học và thành

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
thạo nghiệp vụ chuyên môn.

Công nghệ:
GP.Bank là một trong những ngân hàng đầu tiên đã triển khai thành công
phần mềm Hệ thống Ngân hàng lõi T24 (Core Banking) của hãng Temenos của
Thụy Sỹ, với khả năng xử lý trên 10.000 giao dịch/giây đã đáp ứng được hầu hết
các yêu cầu của khách hàng cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ. Đây là công
nghệ ngân hàng mới, hỗ trợ cho việc triển khai các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng
hiện đại, đang được triển khai tại hơn 400 tổ chức tài chính-ngân hàng trên thế
giới. Công nghệ mới này cho phép ngân hàng quản lý dữ liệu khách hàng theo
chuẩn mực quốc tế, khả năng ứng dung, triển khai nhiều sản phẩm mới và quản
trị tốt nhất rủi ro trong hoạt động. Với mục tiêu xây dựng GP.Bank là một trong
những ngân hàng có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và tiên tiến, hiện nay
GP.Bank đang triển khai nâng cấp phần mềm ngân hàng lõi (core banking) T24
lên phiên bản R8 – phiên bản mới nhất, T24-R8 giúp cho ngân hàng tối ưu hóa
được các quy trình hoạt động trong khi vẫn duy trì được sự linh hoạt trước các
thay đổi trong kinh doanh.
Đánh giá thế mạnh, lợi thế trên thị trường:
Là một ngân hàng mới, GP.Bank có những thế mạnh cũng như lợi thế nhất
định. Với cơ cấu gọn nhẹ, tính chuyên nghiệp hóa và chuyên môn hóa cao, đội ngũ
nhân viên năng động, sáng tạo, kinh nghiệm, chuyên môn đào tạo tốt, Ngân hàng
TMCP Dầu Khí Toàn Cầu hứa hẹn là một trong những Ngân hàng Thương mại cổ
phần đầy tiềm năng.
Sứ mệnh của GP.Bank không chỉ là làm tốt vai trò của của một ngân hàng của
một tập đoàn hùng mạnh bao gồm nhiều Tổng công ty, Công ty đa ngành nghề mà
còn phải hoàn thành vai trò của một tổ chức tín dụng trong hệ thống các Ngân hàng
thương mại Việt Nam.
Tên giao dịch : Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Dầu Khí Toàn Cầu
Tên giao dịch quốc tế:
Tên viết tắt: GP.Bank

Nguyễn Thanh Bình


Tài chính doanh nghiệp 48A


Chuyên đề thực tập
Trụ sở chính : Số 14 Ngô Quyền, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

2.1.2. Sự hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức của Ngân hang
thương mại cổ phần Dầu Khí Toàn Cầu
Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn Cầu (GP.Bank), tiền thân là ngân hàng thương
mại nông thôn Ninh Bình, đã chính thức chuyển đổi mô hình hoạt động từ một ngân
hàng nông thôn sang ngân hàng đô thị từ 07/11/2005. Từ một tổ công tác Hà Nội chưa
đầy 10 thành viên tháng 11/2005, đến nay, GP.Bank đã xây dựng được một đội ngũ 350
nhân viên trẻ trung, chuyên nghiệp, làm việc trong hệ thống mạng lưới gồm 20 chi
nhánh/phòng giao dịch GP.Bank trên toàn quốc tại các tỉnh/thành phố kinh tế trọng
điểm: Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Ninh Bình, Hải Phòng, Vũng Tàu, Đà Nẵng,… Theo
thời gian, GP.Bank đã khẳng định sự trưởng thành và tạo những ấn tượng tốt đẹp về sự
có mặt của mình tại thị trường tài chính – tiền tệ Việt Nam.
GP. Bank có đội ngũ lãnh đạo, điều hành trẻ, năng động, nhiều kinh nghiệm
quản lý, điều hành ngân hàng trên thị trường tài chính – tiền tệ trong nước và quốc
tế. Bộ phận kinh doanh tiền tệ của GP.Bank được tổ chức thành nhiều bộ phận riêng
biệt nhằm tăng tính chuyên nghiệp hóa. GP.Bank là một trong hai ngân hàng đầu tiên
đã triển khai thành công phần mềm Hệ thống Ngân hàng lõi T24 (Core Banking) của
hãng Temenos của Thụy Sỹ, nhằm cải tiến các dịch vụ trực tuyến, phản hồi nhanh các
yêu cầu của khách hàng cũng như cải thiện chất lượng dịch vụ. Đây là công nghệ ngân
hàng mới, hỗ trợ cho việc triển khai các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, đang
được triển khai tại hơn 400 tổ chức tài chính-ngân hàng trên thế giới.
* Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng
Ban đầu thành lập, Ngân hang chỉ có Ban giám đốc và 05 phòng ban với quân số
42 cán bộ công nhân viên:

- Bam điều hành.
+ Tổng Giám đốc: Phạm Quyết Thắng
+ Phó Tổng Giám đốc : Nguyễn Hạnh Phúc
+ Phó Tổng Giám đốc : Dương Thị Bích Liên
+ Phó Tổng Giám đốc : Nghiêm Tiến Sỹ

Nguyễn Thanh Bình

Tài chính doanh nghiệp 48A


×