Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Những biến đổi về kinh tế nông thôn và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.51 KB, 14 trang )

Lời Mở Đầu
Là một quốc gia có nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và nằm trong nhóm các
nước đang phát triển. Với gần 70% dân số sống ở vùng nông thôn, phát triển nông
thông được xem là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền
vững của quốc gia. Trong những năm qua, kinh tế nông thông đã có rất nhiều bước
biến đổi. Thực hiện theo đường lối của Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, gần 20
năm qua, Đảng ta có nhiều đổi mới trong nhận thức về vấn đề xã hội, thực hiện
chính sách xã hội. Nổi bật là quan điểm: phát triển kinh tế gắn liền với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển;
thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem trình độ phát triển kinh tế
là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội; thực hiện tốt chính sách xã hội
là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế. Theo đó kinh tế nông thôn đã có
nhiều bước phát triển mạnh mẽ đạt được kết quả quan trọng trên các mặt kinh tế,
giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn cả nước. Tạo tiền đề để tăng tốc
phát triển kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và
chất lượng chưa cao. Có rất nhiều vấn đề đặt ra cần phải được giải quyết nhanh
chóng như: nạn thiếu việc làm đang rất nghiêm trọng, không chỉ trong những tháng
nông nhàn, mà ngày càng nghiêm trọng tại những vùng đất đai chuyển sang công
nghiệp hoặc dịch vụ, người dân sau khi nhận được một một số tiền đền bù ít ỏi đã
trở nên trắng tay, không nghề nghiệp, buộc phải di chuyển ra thành thị. Cái nghèo
bám theo họ từ nông thôn ra thành thị, làm tăng thêm số người nghèo vốn đã khá
đông ở thành thị. Hàng chục vạn phụ nữ nông thôn phải đi kiếm sống ở xứ người
mong có tiền gửi về nuôi sống gia đình. Để khắc phục những hạn chế còn tồn tại và
tiếp tục phát triển những thành tựu đã đạt được trong kinh tế nông thôn, kinh tế
nông nghiệp nên em chọn đề tài : “Những biến đổi về kinh tế nông thôn và
những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết” và chọn vùng “Đồng Bằng Sông Cửu
Long”để phân tích.
I.Vai Trò Của Nông Thôn:
1:Khái Niệm về Nông Thôn, Kinh tế nông thôn, Nông Nghiệp:
-Nông thôn là : khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp


chiếm tỷ trọng lớn , nông thôn có thể được xem xét trên nhiều góc độ kinh tế, chính
trị ,văn hóa….


-Kinh tế nông thôn : là 1 khu vực của nền kinh tế gắn liền với đia bàn nông thôn
vừa mang đặc trưng chung của nền kinh tế về lực lượng và quan hệ sản xuất , về cơ
chế kinh tế …vừa có đặc điểm riêng gắn liền với nông nghiệp và nông thôn
- Nông nghiệp : Theo nghĩa hẹp nó là ngành sản xuất ra của cải vật chất mà con
người phải dựa vào qui luật sinh trưởng của cây trông vật nuôi đã tạo ra sản phẩm
như lương thực, thực phẩm .
=> Kinh tế nông thôn và Nông nghiệp là 2 khái niệm gắn liền với nông thôn.vì vậy
muốn tìm hiểu vai trò của nông thôn ta cần thông qua hai khái niệm này để phân
tích.
2.Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) và vai trò của kinh tế nông nghiệp
vùng ĐBSCL trong phát triển kinh tế -xã hội:
Qua chuỗi số liệu từ năm 1995 đến nay, vùng ĐBSCL luôn đứng đầu về diện
tích đất nông nghiệp, sản lượng lúa cũng như giá trị sản xuất về nông nghiệp so với
các vùng trong cả nước. Hiện nay, vùng ĐBSCL có diện tích đất sản xuất nông
nghiệp đứng đầu cả nước 2.606,5 ngàn ha (tương đương 25,53% so với diện tích
đất sản xuất nông nghiệp của cả nước). Giá trị sản xuất nông nghiệp của vùng
chiếm 33,3% (năm 2011) so với giá trị nông nghiệp của cả nước, gấp 1,91 lần so
với giá trị sản xuất nông nghiệp của vùng đồng bằng sông Hồng và gấp 2,28 lần
vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung; gấp 3,24 lần so với vùng trung du và
miền núi phía Bắc, 2,29 lần giá trị sản xuất của vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải
miền Trung và hơn khu vực Đông Nam Bộ 3,19 lần. Từ thực tế này cho thấy vị trí
đứng đầu về sản xuất nông nghiệp của khu vực này đối với cả nước bao gồm cả về
diện tích, sản lượng và giá trị.

Hạng mục
2000 2005 2009

Diện tích lúa cả năm của
51,4 52,2 52,04
ĐBSCLso với cả nước
7
1
Sản lượng thủy sản của
51,9 53,2 57,90
ĐBSCL so với cả nước
5
6
Sản lượng thủy sản khai thác 48,4 42,41 40,58
của ĐBSCL so với cả nước
0
Diện tích nuôi trồng thủy sản 69,3 71,40 70,72

2010 2011 2012 2013
52,69 53,48 53,91 54,91
58,32 58,19 58,17

56,62

40,84 41,39 41,73

40,85

70,56 70,09 70,66

72,01



của ĐBSCL so với cả nước

7

Sản lượng trái cây so với cả
nước
Sản lượng lúa của ĐBSCL so
với cả nước

65,6
0
51,3
5

67,86 68,91 71,04 70,00 70,10

70,3

53,8
6

56,70

52,69 53,98 54,88 55,60

Bảng 1: So sánh một số chỉ tiêu của vùng ĐBSCL với cả nước
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm theo xu hướng tăng trưởng ổn định,
thời kỳ 15 năm (1996-2010) đạt 4,38%, thấp hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của
nước (4,96%). Nhưng cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của vùng đồng bằng
sông Hồng (3,85 %).

Cơ cấu khu vực 1 (nông, lâm, thủy sản) tại thời điểm năm 2013, chiếm
35,5% trong tổng GDP của toàn vùng ĐBSCL, cao gấp 1,8 lần so với cơ cấu khu
vực 1 của cả nước (19,67%). Trong cơ cấu nội hàm của nông nghiệp thì lĩnh vực
trồng trọt chiếm 75% và chăn nuôi chiếm 16%, phần còn lại là các hoạt động
khác.Với cơ cấu này thể hiện sản xuất trồng trọt trong nông nghiệp là sản xuất chủ
lực của ngành, chăn nuôi cũng khá quan trọng chiếm 16%, nhưng chỉ tương đương
1/5 so với trồng trọt. Các loại hình hoạt động nông nghiệp khác như lâm nghiệp,
dịch vụ nông nghiệp, hoạt động phụ trợ ... chiếm tỷ trọng nhỏ, chỉ đạt 9%.
Với đặc thù địa lý kinh tế, vùng ĐBSCL có nền tảng nông – thủy sản vững
mạnh, sản lượng lúa của vùng luôn chiếm từ 50% đến 55,64% sản lượng lúa của cả
nước. Sản lượng trái cây khoảng 70% và sản lượng thủy sản chiếm 57% so với cả
nước. Vùng ĐBSCL là cái nôi lương thực, thực phẩm, hoa trái của cả nước, vùng
này đã giữ vai trò quan trọng về an ninh lương thực quốc gia, cung cấp trên 50%
sản lượng nhu cầu lương thực, thực phẩm thủy sản, hoa trái cho cả nước. Đồng thời
đóng góp từ 80% đến 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước.
Thủy sản cũng là ngành phát triển mạnh trong những năm qua và trở thành
vùng nuôi trồng thủy sản lớn nhất cả nước với gần 800.000 ha (tăng 500.000 ha so
với 10 năm trước). Các mặt hàng tôm, cá tra đã trở thành một trong những ngành
kinh tế chiến lược của quốc gia. Sản lượng cá tra của ĐBSCL đã vượt hơn 1 triệu
tấn/năm, với kim ngạch xuất khẩu khoảng 1,4 tỷ USD. Sản lượng tôm cũng chiếm
80% và đóng góp 60% kim ngạch xuất khẩu tôm của cả nước
ĐBSCL hiện có trên 300 ngàn hécta cây ăn trái các loại, với tổng sản lượng
trên 3 triệu tấn trái cây/năm. Trong đó có nhiều loại trái cây ngon, có giá trị kinh tế


cao, như xoài cát Hòa Lộc, vú sữa Lò Rèn, bưởi 5 roi, bưởi da xanh… Trong số
những trái cây chủ lực có lượng xuất khẩu lớn, thu về nhiều ngoại tệ có sự góp mặt
của nhiều loại trái cây đặc sản vùng ĐBSCL: Thanh long (chiếm 40% tổng kim
ngạch xuất khẩu), dừa (chiếm 27,2% tổng kim ngạch), khóm (16% tổng kim
ngạch), mít (3,5%), bưởi (1,6%), xoài (chiếm 1,5%), sơ ri (chiếm 1,1%).

2:Vai trò của kinh tế nông nghiệp vùng ĐBSCL trong phát triển kinh tế
xã hội:
-

Cung cấp lương thực , thực phẩm đáp ứng nhu cầu cho con người :
Hiện nay, vùng ĐBSCL sản xuất mỗi năm trên 20,7 triệu tấn lúa, chiếm
53,4% sản lượng lúa và 90% lượng gạo xuất khẩu cả nước; sản lượng mía
trên 5 triệu tấn, diện tích cây ăn quả khoảng 290.000 ha, hàng năm cho
sản lượng khoảng 2,5 triệu tấn, trong đó có nhiều sản phẩm nổi tiếng như
cam sành, bưởi, quít, xoài, vú sữa, măng cụt, sầu riêng...Về thủy sản, tổng
sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản hàng năm khoảng 3 triệu tấn,
chiếm khoảng 58% sản lượng thủy sản cả nước. Kim ngạch xuất khẩu
thủy sản toàn vùng khoảng 2,5 tỉ USD, chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu
thủy sản cả nước.

-

Cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến :
Hiện nay, vùng ĐBSCL sản xuất mỗi năm trên 20,7 triệu tấn lúa, chiếm
53,4% sản lượng lúa và 90% lượng gạo xuất khẩu cả nước; sản lượng mía
trên 5 triệu tấn, diện tích cây ăn quả khoảng 290.000 ha, hàng năm cho
sản lượng khoảng 2,5 triệu tấn, trong đó có nhiều sản phẩm nổi tiếng như
cam sành, bưởi, quít, xoài, vú sữa, măng cụt, sầu riêng...Về thủy sản, tổng
sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản hàng năm khoảng 3 triệu tấn,
chiếm khoảng 58% sản lượng thủy sản cả nước. Kim ngạch xuất khẩu
thủy sản toàn vùng khoảng 2,5 tỉ USD, chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu
thủy sản cả nước.
-Cung cấp Lao động cho các ngành khác :
Năm 2013 ,dân số của vùng ĐBSCL có khoảng 17,478,9 ngàn người
chiếm 19,48% dân số cả nước . Mật Độ dân số trung bình của vùng đạt

431ng/km2 (gấp 1,98 lần mật độ dân số trung bình của cả nước ), dân số
nông thôn chiếm 75,47%.Đây là 1 phần dự trữ và cung cấp nguồn nhân
lực cho phát triển công nghiệp và đô thị trong giai đoạn đầu của thời kì,
công nghiệp hóa phần lớn dân cư sống bằng nghề nông và tập trung sống
ở nông thôn .Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa một mặt tao ra nhu


-

cầu thu hút lao động , mặt khác nhờ đó mà năng suất lao động nông
nghiệp tăng lên, lực lượng lao động nông nghiệp giải phóng ra ngày càng
nhiều .Số lao động này được dịch chuyển bố sung cho các ngành khác.
Là nguồn tích lũy vốn

Sự phát triển kinh tế của một nước luôn phải dựa vào nhập khẩu các loại
hàng hóa mà nó không sản xuất được , điều này càng đặc biệt hơn với các nước
đang phát triển như nước ta vốn rất cần nhập khẩu các loại máy móc nguyên vật
liệu để phát triển công nghiệp hóa. Cách tốt nhất để làm được điều này là tìm đc
nguồn thu ngoại tệ thông qua xuất khẩu mà :
Xuất khẩu trái cây: ĐBSCL đã phát triển tốt với sự thâm nhập và mở rộng
thị trường xuất khẩu trên khắp các châu lục. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu rau
quả đạt 1.040 triệu USD, tăng trưởng không dưới 10% so năm 2012. Nếu năm
2011, trái cây Việt Nam được xuất khẩu sang 63 quốc gia, thì hiện nay đã mở rộng
lên 76 quốc gia. Trong số những trái cây chủ lực có lượng xuất khẩu lớn, thu về
nhiều ngoại tệ có sự góp mặt của nhiều loại trái cây đặc sản vùng ĐBSCL như:
thanh long (chiếm trên 40% tổng kim ngạch xuất khẩu), dừa (chiếm 27,2% tổng
kim ngạch), dứa (trên 16% tổng kim ngạch),mít (3,5%), bưởi (chiếm 1,6%), xoài
(chiếm 1,5%)(6) …
Xuất khẩu thủy sản: Thủy sản cũng là ngành phát triển mạnh trong những
năm qua và trở thành vùng nuôi trồng thủy sản lớn nhất cả nước với gần 800.000

ha (tăng 500.000 ha so với 10 năm trước). Các mặt hàng tôm, cá tra đã trở thành
một trong những ngành kinh tế chiến lược của quốc gia. Sản lượng cá tra của
ĐBSCL đã vượt hơn 1 triệu tấn/năm, với kim ngạch xuất khẩu khoảng 1,4 tỷ USD.
Sản lượng tôm cũng chiếm 80% và đóng góp 60% kim ngạch xuất khẩu tôm của cả
nước . Hiện nay thị trường xuất khẩu thủy sản của ĐBSCL cũng như cả nước đã
được mở rộng không ngừng .EU , Mỹ , Nhật Bản luôn là những khách hàng chính
của Việt Nam với tỷ trọng đóng góp rất ổn định cơ cấu xuất khẩu qua các năm:
EU~27%-30% sản lượng và 24%-26% giá trị .Mỹ ~8%-11% sản lượng và 16%19% giá trị . Nhật ~10%-12% về lượng và 18% giá trị.Năm 2010 EU là thị trường
có giá trị thủy sản xuất khẩu lớn nhất Việt Nam tỉ lệ 23,5% tổng giá trị . tiếp theo là
thị trường Mỹ chiếm 19,5% giá trị, Nhật Bản 18% , Hàn Quốc 7,4% , Trung Quốc
4,8% .Asian 4,3% và các thị trường khác chiếm tỉ lệ 23,6% tổng giá trị .
Thị trường xuất khẩu cá tra basa tiếp tục được mở rộng. EU là thị trường
xuất khẩu cá tra basa hàng đầu của Việt Nam trong 2010.Hiện nay thị trường EU


chiếm 33,8% khối lượng cá tra, basa xuất khẩu 36,2% giá trị. Tiếp theo là thi
trường Mỹ Chiếm 8,1% khối lượng ,11,8% giá trị
Thị trường xuất khẩu tôm: Nhật Bản vươn lên trở thành thị trường xuất khẩu
tôm lớn nhất của Việt Nam trong 2010 chiếm 26,2% khối lượng, 26,9% giá trị. Tiếp
theo là thị trường EU chiếm 19.1% khối lượng , 16,1% giá trị .
Xuất khẩu lúa gạo: Hiện nay, kinh tế nông nghiệp vùng ĐBSCL đã hình
thành vùng sản xuất tập trung, chuyên canh với lợi thế có các sản phẩm
chủ lực của vùng là lúa gạo, thủy sản, trái cây. Khu vực nông nghiệp tăng
trưởng bình quân 6,9%/năm. Thu nhập mỗi hécta đất sản xuất nông
nghiệp từ hơn 20 triệu đồng trước đây nay tăng lên 39 triệu đồng. Năng
suất lúa từ 4,3 tấn/ha tăng lên 6,3 tấn/ha, sản lượng lúa từ 12,8 triệu tấn
(năm 1995) tăng lên 24,99 triệu tấn (năm 2013). Hàng năm, ĐBSCL xuất
khẩu trên 6 triệu tấn gạo, trị giá trên 3 tỷ USD.
3: Thực trạng biến đổi về kinh tế ở nông thôn và những vấn đề đặt ra
cần phải giải quyết

3.1:Những khó khăn và Hạn Chế :
Địa hình nơi đây thấp do có nhiều vùng trũng, thấp, dễ bị ngập nước trong mùa mưa. Còn
rất nhiều diện tích đất mặn, đất phèn cần phải cải tạo. Mùa mưa thường bị lũ lụt : thừa
nước sông nhưng thiếu nước sạch, đời sống nhân dân vùng lũ gặp nhiều khó khăn. Mùa
khô thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt, nguy cơ xâm nhập mặn thường vào sâu
đến 50km, nguy cơ cháy rừng có thể xảy ra. Rừng nước mặn đang dần bị cạn kiệt do
nhiều nguyên nhân như cháy rừng, phá rừng để nuôi tôm,...Ngoài ra, khoáng sản ở vùng
ĐBSCL rất ít, chủ yếu là than bùn và đá xây dựng.
Nhằm phát triển cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, chăn nuôi của vùng Đồng bằng sông
Cửu Long luôn được chú trọng phát triển nhưng do hạn chế bởi phương thức chăn nuôi
của hộ gia đình quy mô nhỏ, nhất là ở các khu vực ngập lũ, cộng với khả năng cạnh tranh
của các sản phẩm chăn nuôi không cao và bị ảnh hưởng dịch bệnh nên chăn nuôi phát
triển chậm và kém ổn định. Mặt khác, do giá cả một số sản phẩm trồng trọt tăng, dẫn tới
cơ cấu giữa trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ trước đây vốn đã dịch chuyển chậm đến nay
còn dịch chuyển chậm hơn.
Ngoài ra, trong những năm gần đây, tại các tỉnh ÐBSCL ngành nông nghiệp và nông dân
luôn bức xúc vì giá vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp không ổn định, biến động tăng
cao ở các vụ mùa. Bên cạnh đó, tình trạng 'được mùa mất giá' xảy ra hằng năm làm ảnh
hưởng không nhỏ đến thu nhập, đời sống của nông dân. Phần lớn nông dân Nam Bộ bán


lúa tươi cho thương lái tại ruộng ngay sau khi thu hoạch. Thói quen tích trữ lúa của nông
dân hầu như không còn.
Tình trạng nông dân bán lúa tươi tại ruộng có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân
chủ yếu là áp lực phải trả nợ mua chịu phân bón, thuốc bảo vệ thực vật... trong cả mùa vụ.
Mặt khác, diện tích ruộng bình quân của mỗi hộ nông dân không nhiều, chỉ từ 5.000 đến
7.000 m2. Ngoài ra, thiên tai, dịch bệnh thường xuyên xảy ra cũng là những khó khăn lớn
trong sản xuất nông nghiệp của toàn vùng. Tại tỉnh Bến Tre, tuy hệ thống thủy lợi đã được
quan tâm đầu tư, nhưng nhìn chung vẫn chưa đồng bộ, tiến độ thi công một số công trình
chậm, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Bên cạnh đó, việc cung ứng

giống chất lượng cao, nhất là giống cho nuôi thủy sản thâm canh, vẫn chưa đáp ứng đủ.
Tình trạng phát triển tự phát, không theo quy hoạch khá phổ biến, nông dân chưa chú
trọng bảo vệ môi trường.
Việc sản xuất cây ăn quả ở ÐBSCL cũng trong hoàn cảnh tương tự. Tại Tiền Giang, vùng
sản xuất trái cây lớn nhất Nam Bộ, nhà vườn, khi thu hoạch, dù sản lượng lớn cũng chỉ có
phuơng tiện hết sức thô sơ, phần nhiều là trèo lên cây, hái quả. Phân loại chất lượng cũng
theo kinh nghiệm, cảm tính. Phương tiện, thu hái vận chuyển đến nay vẫn không có gì
khác ngoài cây cù nèo và những giỏ cần xé.
Một trong những nguy cơ và khó khăn chính của vùng ĐBSCL là thiếu hụt nguồn nước.
Khó khăn này ảnh hưởng trực tiếp tới ngành nông nghiệp, gây ra những tổn thất lớn như :
thiếu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, trồng cây ăn quả và dân sinh ; thiếu nguồn
nước ngọt phục vụ cho nuôi thủy sản ; đặc biệt, theo dự báo, trong những năm tới, mực
nước biển ngày một dâng cao, khả năng xâm nhập mặn sẽ rất lớn. Lượng nước thượng
nguồn về bị giảm sút sẽ không đủ lưu lượng đẩy nước mặn, khiến nước mặn xâm nhập
sâu vào nội địa sẽ gây khó khăn lớn tới sản xuất nông nghiệp và cả đời sống của người
dân.
3,2:Thức trạng những vấn đề đặt ra hiện nay.
Những lợi thế của vùng để phát triển nông nghiệp:
ĐBSCL có một nền nhiệt cao và ổn định trong toàn vùng, là một trong những lợi thế để
phát triển một nền nông nghiệp nhiệt đới với nhiều chủng loại cây trồng, vật nuôi, tạo nên
sự đa dạng trong sản xuất và trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Nguồn nước mặt ở
ĐBSCL khá dồi dào với khoảng 2.500 km sông rạch tự nhiên, khoảng 3.000 km kênh đào
và khoảng 1 triệu ha bề mặt ngập nước theo mùa, mang nguồn nước dàn trải hầu như rộng
khắp đồng bằng, mà lớn nhất, chủ yếu nhất là hệ thống sông Cửu Long, đã hình thành
nhiều hệ sinh thái đa dạng, là nơi sinh trưởng và cư trú của nhiều hệ động, thực vật thích
nghi với cả môi trường nước ngọt và mặn, trong đó nhiều đối tượng cho hiệu quả kinh tế
cao có thể hướng tới sản xuất tốt. Thủy triều biển Đông theo sông Tiền, sông Hậu, sông


Vàm Cỏ xâm nhập sâu vào đồng bằng và ảnh hương lên phần lớn diên tích của ĐBSCL,

gồm toàn bộ vùng tả sông Tiền, vùng giữa sông Tiền và sông Hậu, phần lớn vùng Tứ Giác
Long Xuyên và phần lớn vùng BĐCM. Sự xâm nhập của thủy triều kéo theo sự xâm nhập
của mặn cho khoảng 1,7 triệu ha đất vùng ven biển, làm ảnh hưởng đến sản xuất nông
nghiệp nói chung, nhưng lại mở ra một tiềm năng lớn phát triển nuôi trồng thủy sản nước
mặn và nước lợ để lấy sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Do chế độ thủy
văn có tính chu kỳ hàng năm, nên có gần 2 triệu ha, trải rộng trên lãnh thổ của 9 tỉnh (An
Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Tp Cần Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long, Tiền Giang, Long
An và Bến Tre) bị ngập lũ kéo dài từ tháng VIII đến tháng XII với các cấp độ ngập khác
nhau. Lũ mang nguồn phù sa bồi đắp cho đồng ruộng, dòng chảy lũ có tác dụng tốt trong
việc cải tạo môi trường nước và cải tạo đất, vệ sinh đồng ruộng; mặt khác, cung cấp
nguồn nước ngọt quan trọng cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, kinh tế dân
sinh và tạo nên một vùng sinh thái nước ngọt rộng lớn cho đồng bằng. Nông nghiệp vùng
đồng bằng sông Cửu Long thực trạng, cơ hội và thách thức... 225 Đất đai ở ĐBSCL có
nhiều loại, phục vụ đa dạng cho phát triển kinh tế và có nhiều thuận lợi cho phát triển sản
xuất nông nghiệp: bao gồm: 1,2 triệu ha đất phù sa tốt (chiếm 29,7%), 1,6 triệu ha đất
phèn (chiếm 40%), 744 ngàn ha đất mặn (chiếm tỷ lệ 16,7%), 134 ngàn ha đất xám
(chiếm 3,4%). Nhóm đất phù sa bồi và không bồi là những loại đất tốt, không có hạn chế.
Nhóm đất phèn, đất mặn và đất xám, có những hạn chế nhất định cho sản xuất, nhưng
nông dân đã có nhiều kinh nghiệm đối phó qua việc dùng nước như là một thứ vũ khí để
chế ngự phèn, nên đã tạo ra được hệ cây trồng thích ứng. Lao động xã hội hiện có khoảng
9 triệu người (48% dân số), mức tăng BQ hàng năm gần 3% tương đương với khoảng 200
ngàn người. Lao động ở ĐBSCL đã tiếp cận với nền sản xuất hàng hóa, nên có ý thức cao
trong kinh doanh và chuyển đổi sản xuất nông nghiệp.
-Thực trạng và quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
của vùng .
Giai đoạn từ 2001 đến nay:
Cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của vùng chuyển đổi theo hướng khai thác
lợi thế của từng tiểu vùng, nhất là ở các tỉnh ven biển đã có sự chuyển mạnh từ sản xuất
nông nghiệp sang NTTS. Kết quả là GTSX nông nghiệp đã giảm nhanh từ 77,8% xuống
còn 63,6% và thủy sản tăng từ 20% lên 34,8%, cao hơn 2,5 lần mức bình quân 5 năm của

các giai đoạn trước, tạo đà cho tăng trưởng toàn ngành đạt 9%/năm, cao nhất từ trước tới
nay và tăng đều ở cả ba lĩnh vực, nông nghiệp tăng 6,3%/năm, lâm nghiệp tăng 5,1%/năm
và thủy sản tăng 16,2%, trong đó NTTS tăng 18%/năm. 226 Nguyễn Thế Bình Đối với
ngành nông nghiệp, nhằm phát triển cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, chăn nuôi của
vùng luôn được chú trọng phát triển, nhưng do hạn chế bởi phương thức chăn nuôi ở hộ
gia đình quy mô nhỏ, nhất là ở các khu vực ngập lũ, cộng với khả năng cạnh tranh của các


sản phẩm chăn nuôi không cao và bị ảnh hưởng dịch bệnh nên chăn nuôi phát triển chậm
và kém ổn định. Mặt khác, do giá cả một số sản phẩm trồng trọt tăng, dẫn tới cơ cấu giữa
trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ trước đây vốn đã chuyển dịch chậm, đến giai đoạn trước
2007 chuyển dịch còn chậm hơn, trong đó trồng trọt tăng từ 78,3% lên 78,5% (cả nước là
76,5%), chăn nuôi tăng từ 14,4% lên 14,8% (cả nước là 21%) và dịch vụ giảm từ 7,1%
xuống 6,7% (cả nước là 2,1%).
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp của vùng có những điểm nổi
bật:
+Đầu tiên, sản xuất lương thực có xu hướng giảm về diện tích, nhưng năng suất và hiệu
quả được nâng lên rõ rệt.
+Thứ hai, sản xuất cây ăn trái của vùng tăng mạnh cả về diện tích và năng suất, nhưng
chất lượng chậm cải thiện và thị trường xuất khẩu hạn chế, dẫn tới thu nhập bình quân
trên một ha không cao.
+Ba là, hệ số đa dạng hóa đất sản xuất nông nghiệp tăng liên tục từ 23% năm 1995 lên
24% năm 2000 và 26% năm 2007, nhưng hệ số đa dạng hóa trên đất trồng cây hàng năm
lại tăng không đáng kể và đang ở mức thấp.
+Bốn là, kim ngạch xuất khẩu bình quân ha đất nông nghiệp tuy có tăng nhưng còn ở
mức thấp, chỉ xấp xỉ bằng 20% kim ngạch xuất khẩu bình quân ha NTTS.
+Năm là, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp có biểu hiện giảm sút và chiếm tỉ trọng nhỏ.
-- Đối với ngành lâm nghiệp:
Diện tích rừng trồng tăng và gần đây một số hộ có diện tích canh tác lúa ở vùng Đồng
Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên đã chuyển một phần sang trồng tràm và bạch đàn.

Bên cạnh đó, các mô hình lâm nghiệp kết hợp với nuôi tôm, cá và động vật rừng có chiều
hướng gia tăng, dẫn tới GTSX trồng, chăm sóc rừng và lâm sản khác tăng từ 6,9% và
5,9% năm 2001 lên 8,6% và 7,5% năm 2007. Ngược lại, sản lượng khai thác rừng hàng
năm không lớn và giảm từ 87,2% còn 84,2%. GTSX bình quân một ha đất có rừng và tỉ lệ
đất có rừng trong đất nông, lâm nghiệp có xu thế tăng.
-Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản có những điểm nổi bật.
+Một là, NTTS tăng nhanh về quy mô diện tích gắn lợi thế của từng Nông nghiệp vùng
đồng bằng sông Cửu Long thực trạng, cơ hội và thách thức... 227 tiểu vùng, bước đầu
hình thành các vùng sản xuất nguyên liệu khá lớn.
+Hai là, GTSX bình quân một ha NTTS tăng nhanh từ 39 triệu năm 1995 lên 71 triệu năm
2000 và lên 87 triệu năm 2007, cao hơn 285% so với một ha đất nông nghiệp.


+Ba là, kim ngạch xuất khẩu bình quân một ha đất NTTS tăng nhanh ở giai đoạn 1996 2000, sau đó giảm dần nhưng vẫn cao hơn 7 - 8 lần so với một ha đất sản xuất nông
nghiệp. Thủy sản là lợi thế lớn của vùng, đã được phát triển toàn diện cả về khai thác,
nuôi trồng và chế biến, nên đã trở thành ngành hàng mũi nhọn sau sản xuất lúa.
------Trong trồng trọt:
Diện tích canh tác lúa không tăng mà có xu hướng giảm đi, nhưng sản lượng lúa vẫn có
xu thế tăng do thâm canh tăng năng suất lúa hiệu quả. Do có điều kiện tự nhiên và xã hội
đặc trưng, nên sản xuất lúa gạo vẫn là lợi thế số một của vùng, mặc dù những năm qua,
diện tích canh tác lúa giảm trên 250 ngàn ha do chuyển sang các mục đích khác, nhưng
sản lượng vẫn tăng (năm 2007 đạt trên 18,7 triệu tấn, chiếm 52% tổng sản lúa cả nước và
cao hơn sản lượng năm 2000 trên 2 triệu tấn), nên vẫn đảm bảo mục tiêu an ninh lương
thực quốc gia và hàng năm xuất khẩu 4,5 - 5,0 triệu tấn gạo. Cây ăn quả có thế mạnh thứ
2 sau lúa, xu thế hiện nay một mặt chuyển đổi theo hướng tăng diện tích, tăng sản lượng,
mặt khác chuyển đổi cơ cấu chủng loại theo hướng phát triển các cây ăn quả đặc sản, chất
lượng cao. Sản xuất rau, hoa, các cây công nghiệp ngắn ngày đều có bước tăng trưởng
khá. Nhiều mô hình đã áp dụng TBKT mới để nâng cao năng suất và chất lượng sản
phẩm. Hoa, cây cảnh đáp ứng tốt yêu cầu trong vùng, cho Tp HCM và bước đầu xuất
khẩu thu ngọai tệ.

-Về Chăn nuôi
Chăn nuôi phát triển, nhưng chưa vững chắc và bị chi phối bởi dịch bệnh và phương thức
chăn nuôi nhỏ, phân tán theo hộ gia đình, Tuy nhiên, cơ cấu và chất lượng gia súc, gia
cầm đang chuyển đổi theo hướng gắn với thị trường. Đã xuất hiện những mô hình tổng
hợp trồng trọt và chăn nuôi, chăn nuôi và thủy sản... cho giá trị cao.
Đánh giá chung
Trên phạm vi của đồng bằng, bước đầu đã hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập
trung ứng dụng công nghệ sản xuất mới để tăng năng suất, giảm giá thành, tăng chất
lượng sản phẩm, tăng tính cạnh tranh và tăng thu nhập cho người sản xuất. Ở các tỉnh và
các tiểu vùng sinh thái nông nghiệp, mặc dù mức độ có khác nhau do điều kiện cụ thể của
từng nơi, nhưng đều đã xuất hiện nhiều mô hình chuyển dịch sản xuất luân canh trên nền
đất lúa, các mô hình chuyển đất lúa sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn trái… cho hiệu
quả kinh tế cao

3.Những biện pháp nhằm phát triển nhanh kinh tế vùng đồng
bằng sông cửu long


Xuất phát từ thực trạng phát triển kinh tế vùng đồng bằng sông cửu long giai
đoạn vừa qua, căn cứ chiến lược phát triển kinh tế xã h ội th ời kỳ 2011-2020
đã được đại hội lần thứ XI của Đảng xác định là “ phấn đ ấu đến năm 2020
nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, quy ết đ ịnh s ố
1581/QD-ttg của thủ tướng chính phủ về việc quy định xây dựng vùng đ ồng
bằng sông cửu long giai đoạn 2011-2020 cần tập trung vào một số gi ải pháp
chủ yếu sau:
Một là, tiến hành “ Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch và có c ơ ch ế,
chính sách phù hợp,...” để vùng ĐBSCL và cả n ước cùng phát tri ển.V ới
mục tiêu quy hoạch , xây dựng , phát triển vùng ĐBSCL phát huy vai trò,
vị thế và tiềm năng của cả vùng trong theo mô hình đa cực, tập trung
kết hợp các hành lang kinh tế đô thị với tp.Cần Thơ là đô th ị h ạt nhân

của vùng; đồng thời phát triển các đô thị mới có tính chất, ch ức năng
dịch vụ phát triển công nghiệp gắn với các đặc thù toàn vùng; xây d ựng
hệ thống đô thị trên toàn vùng , liên kết hỗ trợ giữa các vùng đô th ị
trung tâm và các trục hành lang kinh tế , đô thị; phát triển cân bằng, hài
hòa giữa đô thị và nông thôn đã được chính phủ phê duy ệt. Theo đó, đ ẩy
nhanh tiến độ quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL gồm An
Giang, Kiên Giang , Cà Mau và Tp.Cần Thơ.Đây là vùng kinh tế gi ữ vai trò
quan trọng không chỉ đối với vùng ĐBSCL mà còn đối với c ả n ước. Ban
hành cơ chế, chính sách đặc thù, linh hoạt về chất xám, nguồn v ốn đ ầu
tư, tín dụng thuế... để đầu tư cho các công trình quan tr ọng có liên quan
đến phát triển vùng và có tác động lan tỏa với các vùng lân c ận , nh ắm
tạo đòn bẩy cho sự liên kết phát triển kinh tế mạnh mẽ của vùng
ĐBSCL
Xây dựng cơ chế sử dụng các nguồn vốn khác nhau t ừ ngân sách nhà
nước của trung ương và địa phương, ODA,FDI, doanh nghiệp và dân
cư...Công khái chính sách ưu tiên cho hạ tầng giao thông ,thủy l ợi, y t ế,
giáo dục..
Hai là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơ cấu lại các ngành s ản xu ất,
dịch vụ phù hợp với quy hoạch phát triển vùng ĐBSCL, tạo ra thay đổi căn
bản trong nông nghiệp và phi nông nghiệp, thu hút lao đông, phân công l ại lao
động xã hội theo hướng tăng lao động trong khu vực dịch vụ và công nghi ệp.
Chuyển dịch cơ cấu vùng ĐBSCL được xác định là phát triển có tr ọng đi ểm,
tạo ra các vùng động lực, các trung tâm phát triển mạnh


Đối với khu vực nông, lâm, ngư nghiệp: xây dựng chiến lược, quy ho ạch
phát triển nông, lâm, ngư nghiệp phù hợp với xu h ướng bi ến đổi khí
hậu hiện nay.Tiếp tục thâm canh để giữ ổn định. Hình thành vùng sản
xuất chuyên canh nhất là chuyên canh cây ăn quả gắn với công nghiệp
chế biến. Triển khai các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho phát

triển kinh tế trang trại để có thể phát triển nhanh và bền vững, th ật s ự
trở thành động lực thúc đẩy sản xuất hàng hóa nông nghiệp trong vùng.
Mặt khác chú trọng phát triển khu vực lâm nghiệp, dây là một ch ỉ tiêu
bắt buộc về môi trường như gia tăng độ che phủ, bảo vệ sản xuất,
nguồn lợi sinh vật vùng ven biển
Ba là, đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai cùng với việc thu hút nguồn nhân
lực chất lượng cao để họ vừa có thể là nhà quản lý vừa là ng ười nghiên
cứu khoa học và triển khai ứng dụng. Hợp tác chặt chẽ với các vi ện nghiên
cứu, trường đại học trong vùng, trong và ngoài nước đề nghiên c ứu và đ ề
xuất các giải pháp phù hợp với tình hình kinh tế xã hội cũng nh ư nhu c ầu
cấp thiết trong thực tế sinh hoạt và sản xuất ở vùng ĐBSCL.T ập trung đầu
tư xây dựng hệ thống và nâng cao chát lượng nguồn nhân lực được coi là
chìa khóa thành công trong hệ thống các giải pháp đồng bộ cho phát tri ển
nhanh và bền vững vùng ĐBSCL.
4. Giải Pháp:

4.1 Những biện pháp nhằm phát triển nhanh kinh tế vùng
đồng bằng sông cửu long
Xuất phát từ thực trạng phát triển kinh tế vùng đồng bằng sông cửu long giai
đoạn vừa qua, căn cứ chiến lược phát triển kinh tế xã h ội th ời kỳ 2011-2020
đã được đại hội lần thứ XI của Đảng xác định là “ phấn đ ấu đến năm 2020
nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, quy ết đ ịnh s ố
1581/QD-ttg của thủ tướng chính phủ về việc quy định xây dựng vùng đ ồng
bằng sông cửu long giai đoạn 2011-2020 cần tập trung vào một số gi ải pháp
chủ yếu sau:
Một là, tiến hành “ Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch và có c ơ ch ế,
chính sách phù hợp,...” để vùng ĐBSCL và cả n ước cùng phát tri ển.V ới
mục tiêu quy hoạch , xây dựng , phát triển vùng ĐBSCL phát huy vai trò,
vị thế và tiềm năng của cả vùng trong theo mô hình đa cực, tập trung



kết hợp các hành lang kinh tế đô thị với tp.Cần Thơ là đô th ị h ạt nhân
của vùng; đồng thời phát triển các đô thị mới có tính chất, ch ức năng
dịch vụ phát triển công nghiệp gắn với các đặc thù toàn vùng; xây d ựng
hệ thống đô thị trên toàn vùng , liên kết hỗ trợ giữa các vùng đô th ị
trung tâm và các trục hành lang kinh tế , đô thị; phát triển cân bằng, hài
hòa giữa đô thị và nông thôn đã được chính phủ phê duy ệt. Theo đó, đ ẩy
nhanh tiến độ quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL gồm An
Giang, Kiên Giang , Cà Mau và Tp.Cần Thơ.Đây là vùng kinh tế gi ữ vai trò
quan trọng không chỉ đối với vùng ĐBSCL mà còn đối với c ả n ước. Ban
hành cơ chế, chính sách đặc thù, linh hoạt về chất xám, nguồn v ốn đ ầu
tư, tín dụng thuế... để đầu tư cho các công trình quan tr ọng có liên quan
đến phát triển vùng và có tác động lan tỏa với các vùng lân c ận , nh ắm
tạo đòn bẩy cho sự liên kết phát triển kinh tế mạnh mẽ của vùng
ĐBSCL
Xây dựng cơ chế sử dụng các nguồn vốn khác nhau t ừ ngân sách nhà
nước của trung ương và địa phương, ODA,FDI, doanh nghiệp và dân
cư...Công khái chính sách ưu tiên cho hạ tầng giao thông ,thủy l ợi, y t ế,
giáo dục..
Hai là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơ cấu lại các ngành s ản
xuất, dịch vụ phù hợp với quy hoạch phát triển vùng ĐBSCL, t ạo ra thay
đổi căn bản trong nông nghiệp và phi nông nghiệp, thu hút lao đông,
phân công lại lao động xã hội theo hướng tăng lao động trong khu v ực
dịch vụ và công nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu vùng ĐBSCL được xác đ ịnh
là phát triển có trọng điểm, tạo ra các vùng động l ực, các trung tâm phát
triển mạnh
Đối với khu vực nông, lâm, ngư nghiệp: xây dựng chiến lược, quy ho ạch
phát triển nông, lâm, ngư nghiệp phù hợp với xu h ướng bi ến đổi khí
hậu hiện nay.Tiếp tục thâm canh để giữ ổn định. Hình thành vùng sản
xuất chuyên canh nhất là chuyên canh cây ăn quả gắn với công nghiệp

chế biến. Triển khai các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho phát
triển kinh tế trang trại để có thể phát triển nhanh và bền vững, th ật s ự
trở thành động lực thúc đẩy sản xuất hàng hóa nông nghiệp trong vùng.
Mặt khác chú trọng phát triển khu vực lâm nghiệp, dây là một ch ỉ tiêu
bắt buộc về môi trường như gia tăng độ che phủ, bảo vệ sản xuất,
nguồn lợi sinh vật vùng ven biển


Ba là, đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai cùng với việc thu hút nguồn
nhân lực chất lượng cao để họ vừa có thể là nhà quản lý vừa là người
nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng. Hợp tác chặt chẽ v ới các
viện nghiên cứu, trường đại học trong vùng, trong và ngoài n ước đề
nghiên cứu và đề xuất các giải pháp phù hợp với tình hình kinh tế xã
hội cũng như nhu cầu cấp thiết trong thực tế sinh hoạt và sản xuất ở
vùng ĐBSCL.Tập trung đầu tư xây dựng hệ thống và nâng cao chát
lượng nguồn nhân lực được coi là chìa khóa thành công trong h ệ th ống
các giải pháp đồng bộ cho phát triển nhanh và bền vững vùng ĐBSCL.
Kết Luận:
Nhìn chung, cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có bước chuyển dịch tích cực
theo hướng đẩy mạnh sản xuất các loại nông sản hàng hóa có nhu cầu thị trường và có giá
trị kinh tế cao. Tiếp tục bảo đảm tốt an ninh lương thực quốc gia, tuy diện tích trồng lúa
giảm (khoảng hơn 300 nghìn ha), để chuyển sang nuôi trồng thủy sản và các cây trồng
khác có giá trị cao hơn, nhưng sản lượng lương thực vẫn tăng. Trình độ khoa học, công
nghệ trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản từng bước được nâng cao theo hướng sử dụng
giống mới, công nghệ sinh học, phương thức canh tác tiên tiến để nâng cao năng suất chất
lượng nông sản, thủy sản. Về cơ cấu vùng kinh tế, trong những năm vừa qua kinh tế nông
thôn cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế
chung của Đất nước. Hình thành các vùng kinh tế dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng,
gắn với nhu cầu của thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Xoá bỏ tình trạng chia cắt về thị trường giữa các vùng; xoá bỏ tình trạng tự

cung tự cấp, đặc biệt là tự cung, tự cấp về lương thực của từng vùng, từng địa phương.
Mỗi địa phương cần đặt mình trong một thị trường thống nhất, không chỉ là thị trường cả
nước mà còn là thị trường quốc tế, trên cơ sở đó xác định những khả năng, thế mạnh của
mình để tập trung phát triển, tham gia vào quá trình phân công và hợp tác lao động có
hiệu quả.



×