Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

KHÓA LUẬN nâng cao hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.58 KB, 82 trang )

MỞ ĐẦU
Tên đề tài:“Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị cho
sinh viên các trường đại học đào tạo khối ngành kỹ thuật trên địa bàn thành
phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nội dung giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên là một phần không thể
thiếu trong tổng thể các nội dung thuộc chương trình đào tạo của tất cả các
trường đại học. Đây là một nội dung bắt buộc đối với tất cả các sinh viên dù học
ở khối ngành nào, lĩnh vực nào. Những nội dung đó bao gồm những kiến thức cơ
bản của chủ nghĩa Mác- Lê-nin (trong đó được chia thành các phân môn: Triết
học Mác - Lê-nin; Kinh tế chính trị Mác - Lê-nin; Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mác - Lê-nin); Tư tưởng Hồ Chí Minh; Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam và một số nội dung khác thuộc về lý luận chính trị.
Thời gian qua, công tác GDLLCT cho sinh viên đã có nhiều chuyển biến
tích cực. Tuy vậy, nhìn chung hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên
của các trường đại học, học viện chưa cao, nhất là đối với các trường đại học đào
tạo khối ngành kỹ thuật bởi đặc thù riêng của lĩnh vực, ngành nghề đào tạo này.
Nhiều trường thuộc khối ngành kỹ thuật thường tập trung vào việc giáo dục, đào
tạo về chuyên môn nghiệp vụ, về khoa học công nghệ, về kiến thức chuyên
ngành kỹ thuật… mà không tập trung vào công tác giáo dục lý luận chính trị cho
sinh viên dẫn đến hiệu quả của công tác này thường không cao. Nhận thức của cả
cán bộ, giảng viên và sinh viên về vị trí, vai trò của công tác giáo dục lý luận
chính trị còn chưa đầy đủ và chính xác nên dẫn đến việc lơ là, “bỏ quên” công
việc quan trọng này. Một số sinh viên có biểu hiện “sợ” các môn học lý luận
chính trị, một số khác thì học tập một cách thụ động, đối phó…

1


Sinh viên thuộc các khối ngành kỹ thuật là những người tiên phong trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong tương lai, họ chính là


những kỹ sư, những công nhân lành nghề, những chuyên gia kỹ thuật giỏi trong
thời kỳ đổi mới. Chính vì vậy, công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ
này càng trở nên quan trọng và cấp thiết để góp phần nâng cao hơn nữa trình độ
nhận thức chính trị, hình thành bản lĩnh chính trị vững vàng, xây dựng cho họ
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, và từ
đó thúc đẩy họ hiện thực hóa niềm tin ấy thành hành động, cống hiến trí tuệ,
công sức cho sự nghiệp cách mạng của Đảng. Chính vì ý thức được vị trí, tầm
quan trọng của công tác GDLLCT cho học sinh, sinh viên mà trong nhiều văn
kiện của Đảng, Đảng ta đã đề cập đến việc phải tăng cường hiệu quả công tác
GDLLCT cho đối tượng này. Trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ:
“Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh
viên. Cải tiến việc giảng dạy và học tập các bộ môn khoa học Mác - Lê-nin và
Tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề” [1,tr.110-111].
Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục lý luận chính trị
cho sinh viên của các trường đại học đào tạo khối kỹ thuật là một nhiệm vụ cần
thiết và cấp bách. Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu tìm hiểu rõ thực trạng, nguyên
nhân và đề ra những giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả GDLLCT và đáp
ứng yêu cầu trong thời kỳ mới của công tác này.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Vấn đề về nâng cao hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh
viên đã được đề cập đến nhiều trong các đề tài nghiên cứu trước đây qua các tác
phẩm khóa luận và luận văn, luận án của nhiều sinh viên, thạc sĩ và nghiên cứu
sinh. Các đề tài nghiên cứu đó đã đi sâu tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân và đề

2


ra giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh
viên các trường đại học, cao đẳng và đã thu được nhiều kết quả khoa học có ý

nghĩa quan trọng. Tuy vậy, có những đề tài nghiên cứu tập trung đi sâu vào đối
tượng là sinh viên nói chung và đề ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả công
tác này cho sinh viên. Nhưng, các đề tài ấy chưa đề cập đến đặc điểm riêng biệt
của từng nhóm đối tượng sinh viên thuộc các ngành học khác nhau, với những
nét đặc thù khác nhau. Chẳng hạn, đối với sinh viên thuộc khối ngành khoa học
xã hội nhân văn, họ có những đặc điểm riêng và phù hợp hơn với việc tiếp nhận
các tri thức lý luận chính trị, những lý thuyết trừu tượng. Mặt khác, đối với sinh
viên thuộc khối ngành khoa học tự nhiên, khối ngành kỹ thuật… lại có những nét
đặc thù riêng biệt ảnh hưởng đến hiệu quả công tác GDLLCT mà các đề tài ấy
chưa đề cập đến. Một số đề tài khác tập trung nghiên cứu đối tượng là sinh viên
của một trường đại học, học viện cụ thể nên những giải pháp đưa ra không mang
tính khái quát mà mang tính khu biệt, chỉ phù hợp với từng đơn vị cụ thể.
Có thể kể đến nhiều đề tài đã nghiên cứu đến công tác giáo dục lý luận
chính trị như:
- Đề tài của TS. Lương Ngọc Vĩnh (2012) nghiên cứu về “Hiệu quả công
tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên các học viện quân sự ở nước ta
hiện nay”. Đây là luận án tiến sĩ khoa học chính trị. Đề tài này là một nguồn tài
liệu tham khảo quan trọng đối với đề tài của em. Đề tài đã tập trung nghiên cứu
về hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng và khách thể nghiên cứu được
đề cập đến trong luận án là học viên các học viện quân sự. Khách thể này, về đặc
điểm, có nhiều nét khác biệt so với khách thể là sinh viên các trường đại học đào
tạo khối ngành kỹ thuật.
- Đề tài của PGS, TS. Trần Thị Anh Đào chủ biên, “Công tác giáo dục lý
luận chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay”, Nxb. Chính trị quốc gia (năm

3


2010), đề tài đã hệ thống hóa cơ sở lý luận cho việc nâng cao chất lượng công
tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên Việt Nam qua khảo sát thực tiễn một

số trường đại học ở Hà Nội. Từ đó, thấy được kết quả và hạn chế, nguyên nhân
của nó và tác giả đã đưa ra các phương hướng và giải pháp cho công tác giáo dục
lý luận đối với sinh viên đại học Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, phạm vi đề tài
là rộng và đối tượng mà đề tài tiếp cận là phạm vi đối tượng rất lớn. Trong số các
đối tượng đó, đối tượng là sinh viên đại học khối ngành kỹ thuật có những đặc
điểm khác biệt, cần phải được nghiên cứu đề cập riêng.
- Luận văn tiến sĩ của Ths. Quản Văn Sỹ về đề tài: “Nâng cao chất lượng
giáo dục lý luận chính trị cho học sinh, sinh viên các trường cao đẳng nghề ở
Hà Nội hiện nay” có nội dung và phạm vi nghiên cứu rất sát với đề tài của em,
nội dung của đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận, nghiên cứu thực trạng và đề ra giải
pháp nâng cao chất lượng GDLLCT cho sinh viên các trường cao đẳng nghề.
Khách thể này cũng rất sát với khách thể mà em nghiên cứu đó là “sinh viên các
trường đại học khối ngành kỹ thuật”, tuy vậy, hai khách thể này vẫn có sự khác
biệt về bậc học, về đặc điểm tâm lý, về trình độ nhận thức, về chương trình, nội
dung GDLLCT. Vì vậy, đề tài này chính là một nguồn tư liệu tham khảo quan
trọng đối với đề tài của em.
- Đề tài nghiên cứu của Ths. Nguyễn Thị Hà Thu (2014) “Đổi mới
phương pháp giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên
truyền hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Chính trị học. Đề tài cũng đã đề cập rất nhiều
đến công tác giáo dục lý luận chính trị và tìm ra những giải pháp để đổi mới
phương pháp của công tác này. Tuy nhiên, đề tài tập trung vào nghiên cứu đổi
mới phương pháp, là một khía cạnh trong rất nhiều yếu tố tác động đến hiệu quả
công tác GDLLCT.

4


Đối với sinh viên thuộc các trường đào tạo khối ngành kỹ thuật trên địa
bàn thành phố Hà Nội, đối tượng này có những nét đặc thù riêng về tâm lý cá
nhân, về nội dung đào tạo, về kiến thức chuyên ngành, về yêu cầu công việc sau

này… trong đó có những đặc điểm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác giáo dục lý
luận chính trị cho họ.
Những nội dung của các đề tài khoa học trước đó là những tài liệu quan
trọng và quí báu cho những người nghiên cứu sau như em.
Đối với đề tài của em, sự khác biệt và nét mới của đề tài là khách thể
nghiên cứu “sinh viên các trường đại học đào tạo khối ngành kỹ thuật trên địa
bàn thành phố Hà Nội”- là một khách thể rất ít khi được đề cập đến trong các đề
tài nghiên cứu trước đây và là một khách thể có nhiều nét đặc thù riêng biệt. Đề
tài sẽ tập trung nghiên cứu vào thực trạng hiệu quả của công tác này trong giai
đoạn hiện nay và nêu lên những vấn đề còn tồn tại để đề ra giải pháp nâng cao
hiệu quả GDLLCT trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận, tìm hiểu thực trạng hiệu quả công tác
giáo dục lý luận chính trị để từ đó đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này
cho sinh viên các trường đại học đào tạo khối ngành kỹ thuật.
3.2. Nhiệm vụ
- Xây dựng cơ sở lý thuyết của đề tài.
- Nghiên cứu phân tích thực trạng công tác giáo dục lý luận chính trị cho
sinh viên khối ngành kỹ thuật trên địa bàn TP Hà Nội hiện nay.

5


- Tìm hiểu nguyên nhân của những hạn chế trong công tác này và từ đó đề
xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các
trường đại học đào tạo khối ngành kỹ thuật trên địa bàn thành phố Hà Nội.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường
đại học khối kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay (năm 2016). Việc nghiên cứu,
khảo sát được tiến hành tại các trường đại học đào tạo khối ngành kỹ thuật trên
địa bàn thành phố Hà Nội. Đối tượng khảo sát là sinh viên của các trường đại
học này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các nghị quyết, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng
với đó là sự kế thừa những công trình nghiên cứu của những người đi trước, coi
đó là kinh nghiệm và vốn tri thức quí báu cho công tác nghiên cứu của đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

6


- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Dựa trên những tài liệu như các đề tài
khóa luận, luận văn, luận án, giáo trình, sách, tập trung nghiên cứu, tìm hiểu để
cung cấp những tri thức khoa học cần thiết cho công việc nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra xã hội học, tiến hành phát bảng hỏi tiến hành đối
với sinh viên các trường đại học đào tạo khối ngành kỹ thuật và thực hiện việc
tổng hợp số liệu, thu thập kết quả điều tra.
- Phương pháp quan sát: Sử dụng để thu thập những thông tin cần thiết cho
việc nghiên cứu thực trạng thông qua việc quan sát các tiết học của sinh viên.
- Phương pháp phỏng vấn (nếu có thể) đối với giảng viên giảng dạy các
môn lý luận chính trị tại các trường đại học.
- Một số phương pháp khác: phân tích, so sánh, tổng hợp, tổng kết thực

tiễn.
6. Điểm mới của đề tài
Đề tài nghiên cứu góp phần vào việc nghiên cứu thực trạng công tác giáo
dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường đại học đào tạo khối ngành kỹ
thuật và nghiên cứu cơ sở lý luận và các lý thuyết về công tác GDLLCT. Từ đó,
đưa ra những kiến nghị, những giải pháp mới trong thực tiễn, khắc phục những
điểm tồn tại, hạn chế, yếu kém của công tác này trong thời gian qua để góp phần
vào việc nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận, đề tài tập trung nghiên cứu về công tác giáo dục lý luận
chính trị để làm cơ sở cho việc vận dụng những tri thức lý luận đó vào giải quyết

7


vấn đề thực tiễn đó là đòi hỏi cấp bách về việc phải nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác GDLLCT cho sinh viên các trường đại học ngành kỹ thuật.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được vận dụng
trong thực tiễn công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường đại
học ngành kỹ thuật để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của công tác này
nhằm nâng cao trình độ nhận thức lý luận chính trị cho sinh viên, hình thành
niềm tin khoa học vào sự lãnh đạo của Đảng, về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng “tự diễn biến, tự
chuyển hóa” trong một bộ phận thanh niên, sinh viên hiện nay và giáo dục họ
cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa của các thế lực thù địch… Từ đó, thúc đẩy họ hành động cống hiến cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 3 chương, 11 tiết.


8


Chương 1:
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO SINH
VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHỐI NGÀNH KỸ THUẬT - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Giáo dục và giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường đại học
đào tạo khối ngành kỹ thuật
1.1.1. Giáo dục và giáo dục lý luận chính trị
Để tiếp cận khái niệm giáo dục lý luận chính trị, trước hết, ta cần phải tiếp
cận khái niệm Giáo dục.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, ngay từ khi loài người bắt đầu tồn
tại trên trái đất, họ đã phải lao động để tồn tại, lao động giúp con người không
những chỉ tồn tại mà còn tạo điều kiện, tiền đề để con người phát triển một cách
toàn diện. Cũng trong quá trình lao động ấy, con người truyền bá cho nhau
những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm lao động, sản xuất và chinh phục thiên
nhiên - quá trình ấy chính là nguồn gốc phát sinh của hiện tượng giáo dục.
Ban đầu, giáo dục xuất hiện như một hiện tượng tự phát, diễn ra đơn giản
theo lối quan sát để bắt chước, càng về sau, giáo dục càng trở thành một hoạt
động có ý thức. Trong quá trình nhận thức và cải tạo xã hội, để phát triển, con
người dần dần biết xác định mục đích, hoàn thiện nội dung, tìm ra phương pháp,
hình thức để giáo dục có hiệu quả. Ngày nay, hoạt động giáo dục đã trở thành
một hoạt động đặc biệt được tổ chức một cách khoa học và đạt tới trình độ cao,
có kế hoạch, nội dung phong phú, phương pháp, hình thức đa dạng, phù hợp,
phương tiện giáo dục ngày càng hiện đại. Hoạt động giáo dục đáp ứng ngày càng

9



tốt hơn nhu cầu học tập, hiểu biết của con người và trở thành một động lực quan
trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xã hội loài người.
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm giáo dục, song, nội
hàm bản chất mà các khái niệm đề cập đến khi nói về giáo dục đó là: Giáo dục
là một hiện tượng xã hội, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội những tri
thức, kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình lịch sử - xã hội của các thế hệ
loài người, nhờ có giáo dục mà trình độ nhận thức và cải tạo thế giới của con
người ngày càng được nâng lên từ thế hệ này đến thế hệ khác, nhờ đó mà xã hội
loài người không ngừng phát triển.
Lý luận theo nghĩa chung nhất là các khái niệm, phạm trù, quy luật được
khái quát từ nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn của con người trong quá
trình lịch sử. Lý luận là kết quả nhận thức chủ quan của con người về các sự
kiện, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc,
quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước; là sự
tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội; là hoạt động thực tiễn
của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện
đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích. (tr.7, Giáo trình
Chính trị học - HVBCTT)
Như vậy, lý luận chính trị chính là từ ghép giữa lý luận và chính trị, theo
đó, lý luận được giới hạn ở lĩnh vực chính trị và quan niệm về lý luận chính trị
được xem xét bởi sự hợp thành từ 3 phương diện sau:
Thứ nhất, lý luận là tri thức thu được từ kết quả nghiên cứu khoa học,
nghiên cứu về lý luận và thực tiễn chính trị.

10


Thứ hai, lý luận chính trị là hệ thống các tri thức khoa học của chính trị
học và các khoa học chính trị.

Thứ ba, lý luận chính trị còn được hiểu với nghĩa là phương diện chính trị
của các lĩnh vực hoạt động khác trong xã hội như kinh tế, văn hóa, xã hội.
Như vậy, có thể hiểu rằng: Lý luận chính trị là hệ thống tri thức về lĩnh
vực chính trị thể hiện thái độ và lợi ích của một giai cấp đối với quyền lực nhà
nước trong xã hội có giai cấp, được khái quát từ nghiên cứu khoa học và hoạt
động chính trị thực tiễn.
Giáo dục lý luận chính trị có sự khác biệt đặc thù so với giáo dục chuyên
môn, nghiệp vụ, đào tạo và dạy nghề…
Theo cuốn giáo trình “Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý
luận chính trị” của PGS. TS Phạm Huy Kỳ (chủ biên) thì giáo dục lý luận chính
trị trước hết là nói tới hoạt động dạy và học các môn khoa học về lý luận chính
trị trong hệ thống các trường đại học và cao đẳng, các trường đào tạo nghề
chuyên nghiệp mà vị trí nổi bật là việc đào tạo đội ngũ giáo viên lý luận chính trị
ở các bậc học từ đại học đến sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ). Trong hệ thống giáo
dục phổ thông, giáo dục lý luận chính trị mang hình thức một môn học đó là môn
học giáo dục công dân. Đây là khu vực giáo dục lý luận chính trị thuộc hệ thống
giáo dục Nhà nước, có cơ quan quản lý nhà nước đảm trách (Bộ Giáo dục - Đào
tạo).
Bên cạnh đó, giáo dục lý luận chính trị còn hàm nghĩa là các hoạt động
giáo dục diễn ra trong Đảng và trong các tổ chức chính trị - xã hội của hệ thống
chính trị. Đó chính là các hoạt động giáo dục, vận động, tuyên truyền rộng rãi
trong Đảng, trong dân về các vấn đề lý luận chính trị, về đường lối, chủ trương,
các nghị quyết của Đảng, về chính sách và luật pháp của nhà nước. Hoạt động
11


này có nội dung lớn, qui mô rộng khắp cả nước, đến với đầy đủ các đối tượng
đông đảo, các đối tượng từ trong Đảng đến trong dân. Hoạt động này nhằm tuyên
truyền, vận động, giải thích để thuyết phục người dân, tạo nên sự đồng thuận về
cả nhận thức và hành động, giữ vững hệ tư tưởng, phê phán chống lại các luận

điệu xuyên tạc, các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng và Nhà nước,
làm tổn hại tới lợi ích của nhân dân, của dân tộc.
Và từ những cách tiếp cận trên, theo Th.s Quản Văn Sỹ, khái niệm
GDLLCT đó chính là quá trình phổ biến, truyền bá một cách cơ bản, có hệ
thống nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách pháp luật của nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Theo từ điển tiếng Việt, khái niệm “công tác” được định nghĩa là: công
việc của Nhà nước hoặc của đoàn thể. Như vậy, công tác có nghĩa là công việc
chung, hoạt động chung, có nhiều người cùng tham gia để đạt một mục đích
chung.
Công tác giáo dục lý luận là thuộc về công tác chính trị - tư tưởng do cấp
ủy phụ trách và chịu trách nhiệm. Ở hệ thống nhà nước, còn do các cơ sở đào
tạo, do các nhà chuyên môn phụ trách, công tác GDLLCT vừa là công tác
chuyên môn lại vừa là công tác chính trị gắn với nội dung và phương thức lãnh
đạo của Đảng. Đối với công tác GDLLCT, người nghiên cứu đồng thời có thể là
giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên hoặc là một lực lượng chuyên nghiệp
chuyên làm công tác GDLLCT. Đây là một đội ngũ chuyên trách từng mảng
công việc theo chyên môn, có sự tham gia hỗ trợ của lực lượng cộng tác viên và
sự phối hợp của các lực lượng, tổ chức khác.
Tiếp cận tới khái niệm “Công tác giáo dục lý luận chính trị” theo hướng đề
cập đến nội dung, phương thức và các chủ thể tham gia công tác GDLLCT, trong

12


cuốn giáo trình “Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục LLCT”, PGS.TS
Phạm Huy Kỳ cho rằng: “Công tác GDLLCT là hoạt động truyền bá, giáo dục
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước, các tri thức khoa học chính trị… được tổ chức một cách khoa học,
theo một kế hoạch, chương trình nhất định nhằm nâng cao trình độ và năng lực

công tác cho cán bộ, đảng viên và nhân dân với sự tham gia của tất cả các tổ
chức: Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội và các lực lượng, phương
tiện của toàn xã hội, trong đó Đảng không chỉ đóng vai trò là cơ quan lãnh đạo,
chỉ đạo mà còn là cơ quan tổ chức thực hiện công tác GDLLCT một cách khoa
học và có hệ thống nhất.”
Tiếp cận theo một góc độ khác, theo hướng tiếp cận toàn diện tới cả chủ
thể, đối tượng, phương thức và mục đích của công tác GDLLCT, Th.s Quản Văn
Sỹ có đề cập đến khái niệm công tác GDLLCT: “Đó là quá trình phổ biến,
truyền bá một cách cơ bản, có hệ thống nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối
quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước cho cán bộ, đảng viên
và nhân dân. Nhằm nâng cao nhận thức lý luận, xây dựng thế giới quan, nhân
sinh quan cách mạng, phương pháp luận duy vật biện chứng, đạo đức, lối sống,
tạo nên bản lĩnh chính trị, mục tiêu lý tưởng của Đảng cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân”
Có thể thấy rằng, nói đến công tác GDLLCT đối với sinh viên không chỉ
là nói đến việc dạy học các môn học lý luận chính trị trên giảng đường. Phạm vi
của công tác GDLLCT là rất rộng, đó là những hoạt động chính trị - xã hội, là
các phong trào đoàn thể, là các hoạt động ngoại khóa, phong trào tình nguyện,
các hoạt động văn hóa - văn nghệ, hội thao, hội diễn… Những hoạt động này
cũng đóng vai trò quan trọng trong thực hiện công tác GDLLCT cho sinh viên.
Tuy vậy, trong phạm vi đề tài này, em chỉ tập trung nghiên cứu và đề cập tới

13


công tác này dưới góc độ là một hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, giảng dạy LLCT
của các trường đại học; là công tác dạy học các môn học lý luận chính trị cho
sinh viên các trường đại học đào tạo khối ngành kỹ thuật.
1.1.2. Giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường đại học đào tạo khối
ngành kỹ thuật

1.1.2.1. Sinh viên và sinh viên đại học khối ngành kỹ thuật
Thuật ngữ Sinh viên bắt nguồn từ gốc Latinh: “Students” với nghĩa là
người làm việc, học tập, tìm hiểu, khai thác tri thức. (Từ điển bách khoa thưTiếng Nga).
Hiểu theo nghĩa thông thường thì Sinh viên là những người đang học trong
các trường Đại học, cao đẳng.
Theo từ điển tiếng Việt, khái niệm ngành được hiểu theo nghĩa là: lĩnh vực
hoạt động về chuyên môn. Ví dụ: khoa học, kỹ thuật, giáo dục, y tế…
Cũng theo từ điển tiếng Việt, khái niệm kỹ thuật được hiểu theo 2 nghĩa đó
là:
- Tổng thể nói chung những phương tiện và tư liệu hoạt động của con
người, được tạo ra để thực hiện quá trình sản xuất và phục vụ các nhu cầu phi
sản xuất của xã hội. Ví dụ: Kỹ thuật quân sự, kỹ thuật công nghiệp…
- Tổng thể nói chung những phương pháp, phương thức sử dụng trong một
lĩnh vực hoạt động nào đó của con người. Ví dụ: kỹ thuật cấy lúa, kỹ thuật luyện
thép…
Như vậy, các trường đại học khối ngành kỹ thuật là những trường nằm
trong hệ thống giáo dục quốc dân, đào tạo các chuyên ngành liên quan đến kỹ
thuật cho sinh viên nhằm hình thành nên đội ngũ kỹ sư, chuyên viên, cử nhân
14


ngành kỹ thuật trong tương lai. Và, sinh viên đại học khối ngành kỹ thuật chính
là những người đang học trong các trường đại học khối ngành kỹ thuật. Họ được
đào tạo một cách bài bản, chuyên sâu về các ngành nghề kỹ thuật, phục vụ cho
công việc thực tế sau này.
1.1.2.2. Chủ thể giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên
Có nhiều chủ thể tham gia vào việc GDLLCT cho sinh viên và có thể chia
các chủ thể đó ra thành 3 nhóm chủ thể khác nhau: Nhóm chủ thể lãnh đạo, quản
lý; nhóm chủ thể truyền đạt kiến thức lý luận chính trị và nhóm chủ thể hỗ trợ,
phối hợp.

Nhóm chủ thể lãnh đạo, quản lý (đảng ủy, ban giám hiệu, phòng đào tạo,
ban chủ nhiệm khoa…) là nhóm chủ thể có vai trò quan trọng và quyết định đến
việc xây dựng chương trình, kế hoạch, biên soạn nội dung và tổ chức tiến hành
các hoạt động GDLLCT trong phạm vi đơn vị của mình. Mặc dù mỗi chủ thể
trong nhóm chủ thể này có vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ khác nhau
nhưng họ cùng có trách nhiệm đó là những người vừa tiếp nhận và hiện thực hóa
những thông tin lãnh đạo, quản lý từ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước mà trực tiếp là Chính phủ và Bộ Giáo dục - Đào
tạo nhưng họ cũng chính là những người trực tiếp quản lý sinh viên và điều hành
hoạt động dạy và học tại đơn vị mình.
Nhóm chủ thể truyền đạt kiến thức lý luận chính trị chính là đội ngũ cán
bộ, giảng viên trực tiếp tham gia giảng dạy các môn học LLCT tới sinh viên. Họ
chính là những chủ thể trực tiếp truyền đạt những nội dung kiến thức của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước… đến với sinh viên. Giúp sinh viên hình thành nên thế
giới quan khoa học, phương pháp luận biện chứng, hình thành tư tưởng chính trị

15


đúng đắn và bản lĩnh chính trị vững vàng cho sinh viên. Chính vì vậy, những chủ
thể này đóng vai trò rất quan trọng và quyết định đến hiệu quả công tác
GDLLCT cho sinh viên.
Nhóm chủ thể hỗ trợ, phối hợp bao gồm các tổ chức: Đoàn thanh niên, Hội
sinh viên, các câu lạc bộ sinh viên… những chủ thể này đóng vai trò hỗ trợ, phối
hợp để giúp các nhóm chủ thể khác có điều kiện thuận lợi để tổ chức ra nhiều
hình thức GDLLCT phong phú và đa dạng cũng như lồng ghép các nội dung
LLCT thông qua các hoạt động của các nhóm chủ thể này để công tác GDLLCT
diễn ra vừa sâu, vừa rộng trong sinh viên. Bên cạnh đó, không thể không nói tới
vai trò của gia đình trong việc GDLLCT cho sinh viên bởi gia đình chính là môi

trường giáo dục đầu tiên và thường xuyên đối với mỗi con người. Gia đình chính
là môi trường hiệu quả để giáo dục đạo đức, lối sống, truyền thống văn hóa,…
cho mỗi sinh viên, đó là những yếu tố tiền đề, khởi đầu cho việc tiếp thu những
kiến thức LLCT sau này của sinh viên.
1.1.2.3. Nội dung giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên
Thứ nhất, công tác GDLLCT hướng đến giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, tình hình thời sự - chính trị trong nước và quốc tế:
- Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng và làm kim chỉ nam cho mọi hành động, công tác tư tưởng nói
chung và công tác GDLLCT nói riêng phải hướng đến mục tiêu đó là đưa hệ tư
tưởng Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành hệ tư tưởng thống trị
trong đời sống xã hội. Vì vậy, công tác GDLLCT phải trang bị cho sinh viên
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

16


đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó, cần
hướng đến việc giúp sinh viên vận dụng những kiến thức đó vào thực tiễn.
- Giáo dục về ý thức, nghĩa vụ và trách nhiệm công dân, ý thức tuân thủ
luật pháp của Nhà nước, tinh thần yêu nước, niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng như việc hiện thực hóa niềm tin ấy thành
hành động thực tiễn, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Trong giáo dục lý luận chính trị mục đích quan trọng nhất là hình thành
và phát triển thế giới quan khoa học và nhân sinh quan Cộng sản chủ nghĩa cho
học sinh, sinh viên. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định trong suốt cuộc đời của
người công nhân trong tương lai. Vì vậy, giáo dục những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - Lênin với tư cách là khoa học về thế giới quan khoa học và phương
pháp luận trở thành nội dung cốt lõi nhất, trung tâm nhất của giáo dục lý luận

chính trị.
- Thông tin những nội dung về tình hình thời sự - chính trị trong nước và
quốc tế, hình thành tính tích cực chính trị cho sinh viên. Giúp sinh viên vững
vàng trước những biến động của đời sống chính trị quốc tế, tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng, đấu tranh với các biểu hiện của thói “thờ ơ chính trị”.
- Nghiên cứu, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, có ý thức đấu
tranh với các tư tưởng sai trái, thù địch, phản động, bảo vệ tính đúng đắn của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
- Giáo dục cho sinh viên có ý thức phòng ngừa, đấu tranh với những tư
tưởng chính trị sai trái, với chiến lược “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư
tưởng - văn hóa của các thế lực thù địch.

17


Thứ hai, giáo dục đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh, xây dựng nếp
sống văn hóa cho sinh viên góp phần vào xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa:
- Giáo dục cho sinh viên về lý tưởng sống, xây dựng lý tưởng sống tích
cực cho thanh niên. Giáo dục về tinh thần, thái độ, ý thức học tập và lao động
sản xuất, lòng yêu nghề, xây dựng tác phong công nghiệp cho sinh viên.
- Xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa góp phần hình thành nhân cách của
con người mới xã hội chủ nghĩa. Giáo dục cho sinh viên không ngừng tu dưỡng,
rèn luyện bản thân về mọi mặt (đức, trí, thể, mỹ) nhất là đạo đức, lối sống. Kịp
thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, lệch lạc về đạo đức, lối sống đang
diễn ra trong một bộ phận sinh viên.
- Giáo dục cho sinh viên về những tiêu chuẩn của con người mới xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta đang hướng tới xây dựng để hình thành ý thức tự rèn
luyện, phấn đấu của sinh viên theo các tiêu chuẩn ấy.

Thứ ba, giáo dục về truyền thống cách mạng, truyền thống dân tộc và
những giá trị tinh hoa của văn hóa dân tộc:
- Giáo dục cho sinh viên về lịch sử Đảng, về những truyền thống cách
mạng của Đảng, về những đóng góp lớn lao của Đảng đối với lịch sử phát triển
của đất nước, của dân tộc. Giáo dục về cuộc đời, sự nghiệp, những cống hiến và
tư tưởng lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
- Giáo dục cho sinh viên về truyền thống dân tộc như truyền thống yêu
nước, thương nòi, truyền thống hiếu học… giáo dục về tinh thần cách mạng, tinh
thần yêu nước, yêu chế độ, trung thành với sự lãnh đạo của Đảng.

18


- Giáo dục về những truyền thống, những tinh hoa văn hóa của Việt Nam
để sinh viên có ý thức bảo tồn, gìn giữ và phát huy nét đẹp văn hóa, thuần phong
mỹ tục của dân tộc. Phê phán những trào lưu văn hóa ngoại lai, phản văn hóa ảnh
hưởng tiêu cực đến sinh viên. Giáo dục về lịch sử văn hóa hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc.
1.1.2.4. Hình thức, phương pháp, phương tiện giáo dục lý luận chính trị
cho sinh viên
- Hình thức GDLLCT cho sinh viên tại các trường đại học đào tạo khối
ngành kỹ thuật trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay diễn ra chủ yếu với 2
hình thức đó là giáo dục chính khóa và giáo dục ngoại khóa. Giáo dục chính
khóa chủ yếu thông qua hoạt động giảng dạy và học tập các môn LLCT trên lớp
còn việc giáo dục ngoại khóa có thể thông qua nhiều hoạt động như các hình
thức văn hóa - văn nghệ - thể thao; các hội thi về kể chuyện tấm gương đạo đức,
thi kỹ thuật, thi tay nghề, thi sáng chế; các hoạt động của Đoàn Thanh niên, hội
sinh viên, câu lạc bộ sinh viên, các buổi học thời sự, nghị quyết…
- Phương pháp GDLLCT cho sinh viên khá phong phú, đa dạng như
phương pháp thuyết trình, giảng giải, phương pháp xêmina, phương pháp nêu

vấn đề… nhưng còn tồn tại một số hạn chế trong việc vận dụng một cách linh
hoạt, sáng tạo các phương pháp dẫn đến hiệu quả sử dụng các phương pháp trong
GDLLCT còn chưa cao.
- Phương tiện GDLLCT có sự đầu tư thích đáng, cơ sở vật chất kỹ thuật,
trường lớp, phòng học được xây dựng khang trang, hiện đại hơn. Các thiết bị
công nghệ cao, công nghệ thông tin và giáo án điện tử được ứng dụng ngày càng
sâu vào trong quá trình dạy học LLCT.

19


1.2. Hiệu quả và tiêu chí đánh giá hiệu quả GDLLCT cho sinh viên các
trường đại học khối ngành kỹ thuật
1.2.1. Hiệu quả công tác GDLLCT cho sinh viên các trường đại học đào tạo
khối ngành kỹ thuật
Hiệu quả là khái niệm được sử dụng phổ biến trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả lao động, hiệu quả quản lý… Nói đến
hiệu quả của một hoạt động, người ta thường đề cập đến các vấn đề sau:
Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả trước và sau khi tiến hành một hoạt
động, giữa kết quả đã có và kết quả sẽ có.
Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả đạt được và mục đích, là sự ăn khớp
một phần hay hoàn toàn của kết quả với mục đích và nhiệm vụ được đặt ra từ
trước.
Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí về vật lực, tài
lực…để đạt được kết quả đó.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc làm
mang lại.[28, tr.570]
Tựu chung lại, để đánh giá được hiệu quả đều phải gắn với kết quả, mục
đích và các nguồn lực để thực hiện hoạt động đó.
Trong lĩnh vực sản xuất tinh thần, bàn về hiệu quả, đặc biệt là “hiệu quả

công tác tư tưởng”, đã có một số công trình nghiên cứu đưa ra được định nghĩa
tương đối cụ thể. Tiêu biểu hiện nay có công trình nghiên cứu về hiệu quả công
tác tư tưởng của PGS.TS Lương Khắc Hiếu trong cuốn Nguyên lý công tác tư
tưởng II. Đây là công trình nghiên cứu khá hệ thống và toàn diện về công tác tư

20


tưởng nói chung và hiệu quả công tác tư tưởng nói riêng. Ở đây, tác giả đưa ra
khái niệm: “Hiệu quả công tác tư tưởng là sự tương quan giữa kết quả đạt được
do tác động tư tưởng mang lại với mục đích của công tác tư tưởng được đặt ra
và với chi phí để đạt được kết quả đó trong một điều kiện xã hội nhất định.”
Như vậy, cũng như hiệu quả nói chung, hiệu quả công tác tư tưởng nhấn
mạnh đến ba yếu tố: kết quả, chi phí và mục đích. Kết quả là cái đạt được do
hoạt động tư tưởng mang lại, là sự thay đổi trong nhận thức, thái độ, hành vi của
đối tượng sau một chu trình tác động tư tưởng nhưng chưa tính đến chi phí để có
kết quả đó. Cần phải phân biệt rõ giữa kết quả và hiệu quả trong công tác tư
tưởng.
Từ các quan niệm về hiệu quả trên, có thể đưa ra định nghĩa về hiệu quả
công tác giáo dục lý luận chính trị như sau: Hiệu quả công tác giáo dục lý luận
chính trị là sự tương quan giữa kết quả đạt được do tác động của công tác
GDLLCT mang lại với mục đích của công tác GDLLCT đã đặt ra và với việc sử
dụng nguồn lực để đạt được kết quả đó trong một điều kiện xã hội nhất định.
Nguồn lực ở đây được hiểu là những lợi thế, tiềm năng vật chất và phi vật chất
phục vụ cho mục tiêu nhất định: tiền bạc, cơ sở vật chất, con người, thời gian…
Cần phải phân biệt giữa hiệu quả và kết quả. Kết quả là cái đạt được do
hoạt động tư tưởng mang lại, là sự thay đổi trong nhận thức, thái độ, hành vi của
đối tượng sau một chu trình tác động tư tưởng nhưng chưa tính đến chi phí để có
kết quả đó. Còn hiệu quả là tương quan, là sự so sánh của kết quả với mục đích
và chi phí trong công tác tư tưởng. Nói cách khác, hiệu quả là sự so sánh giữa cái

đạt được (kết quả) với cái đặt ra (mục đích) và cái bỏ ra (chi phí). Không đồng
nhất hiệu quả với kết quả trong công tác tư tưởng.

21


1.2.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác GDLLCT cho sinh viên các trường
đại học đào tạo khối ngành kỹ thuật
1.2.2.1. Tiêu chuẩn tinh thần
Hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị đánh giá theo tiêu chuẩn tinh
thần thể hiện ở những tiêu chí: sự hứng thú, nhận thức, thái độ của sinh viên đối
với những tri thức lý luận chính trị mà biểu hiện cao nhất chính là niềm tin.
Sự hứng thú là mức độ thấp nhất của hiệu quả GDLLCT. Đó là sự quan
tâm chú ý của sinh viên khối kỹ thuật đối với những tri thức lý luận chính trị. Sự
quan tâm, chú ý những thông tin này xuất hiện do tính mới, tính thiết thực, gần
gũi, gắn với thực tiễn công tác và nghề nghiệp sau này của sinh viên. Nội dung
GDLLCT càng được khai thác cụ thể, thiết thực, gần gũi bao nhiêu thì sẽ càng
thuyết phục và thu hút sự nhận thức của sinh viên bấy nhiêu. Nội dung GDLLCT
có vai trò quan trọng, quyết định đến sự hứng thú của đối tượng nên nội dung
cần được khai thác sâu, có tính phân loại, có tính ứng dụng, vận dụng vào thực
tiễn để đáp ứng được mong muốn của đối tượng.
Bên cạnh đó, hình thức, phương pháp GDLLCT cũng là yếu tố quan trọng
quyết định đến sự hứng thú của đối tượng. Hình thức, phương pháp tuyên truyền
cần được đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, phải thật phong phú, đa dạng, phù hợp với
đặc điểm riêng của sinh viên đại học khối ngành kỹ thuật, đối tượng này có sự
đặc thù nhất định so với các đối tượng GDLLCT khác, vì vậy sự phù hợp với đối
tượng chính là điều kiện cần thiết để lựa chọn phương pháp và hình thức
GDLLCT sao cho hiệu quả. Có rất nhiều căn cứ để phân loại phương pháp cho
phù hợp nhưng trong phạm vi đề tài của mình, em khai thác vào căn cứ đó là
cách sử dụng các phương tiện, chủ thể GDLLCT có thể sử dụng: phương pháp

dùng lời nói; phương pháp đối thoại (sử dụng đàm thoại, vấn đáp, hỏi đáp, phỏng

22


vấn,…); phương pháp trực quan (thông qua các bài giảng điện tử, đa phương
tiện…); phương pháp độc thoại (thuyết trình, giảng dạy, diễn giảng)….
Mặt khác, để tạo được sự hứng thú cho đối tượng GDLLCT, cần lựa chọn
cách thức tổ chức, phối hợp hoạt động giữa chủ thể và đối tượng một cách phù
hợp. Nói cách khác, cần bố trí, sắp xếp các yếu tố bảo đảm các bước tiến hành
theo một trật tự nhất định nhằm thực hiện mục đích của công tác GDLLCT. Căn
cứ vào đặc điểm của đối tượng, chủ thể GDLLCT có thể đưa ra một số hình thức
như: giảng dạy trên lớp thông qua các bài giảng, đi tham quan dã ngoại thực tế,
tổ chức các hội thi tìm hiểu, thông qua các hoạt động ngoại khóa… trong đó,
việc giảng dạy các môn học lý luận chính trị trên lớp chính là hình thức quan
trọng và chủ yếu nhất.
Ngoài ra, cách viết, cách nói hấp dẫn của chủ thể GDLLCT cũng là yếu tố
tạo lập sự hứng thú cho đối tượng. Trong quá trình giảng dạy,giảng viên cần
khéo léo, sáng tạo, vận dụng linh hoạt các phương thức phù hợp để lôi kéo và thu
hút đối tượng, tạo được sự chú ý của người học.
Tiêu chuẩn tinh thần tiếp theo trong việc đánh giá hiệu quả công tác
GDLLCT chính là trình độ nhận thức của đối tượng. Nhận thức có vai trò quan
trọng trong sự phát triển của con người. Đối với công tác GDLLCT cũng vậy, cái
đích mà công tác này hướng đến trước tiên chính là nâng cao trình độ nhận thức
lý luận chính trị của sinh viên nói chung và sinh viên khối ngành kỹ thuật nói
riêng. Đó là sự nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tình hình
thời sự chính trị trong nước, quốc tế… Chỉ có nâng cao nhận thức lý luận chính
trị thì sinh viên mới hình thành được tư duy chính trị đúng đắn, nắm vững được
các tri thức cơ bản của lý luận chính trị để từ đó tạo nền tảng hình thành nên bản


23


lĩnh chính trị vững vàng và niềm tin đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng,
niềm tin vào chủ nghĩa xã hội để từ đó điều chỉnh hành vi của bản thân…
Tiêu chuẩn tinh thần cao nhất để đánh giá hiệu quả công tác GDLLCT
chính là thái độ mà biểu hiện cao nhất đó chính là niềm tin. Đó là niềm tin vào
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin vào sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng, tin vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội,là sự
hình thành nên thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, phương pháp
luận biện chứng, đạo đức và lý tưởng cách mạng cho sinh viên. Công tác
GDLLCT sẽ không chỉ dừng lại ở sự hứng thú, nhận thức mà cần phải hình
thành cho sinh viên được niềm tin… Khi mà niềm tin ấy trở nên vững chắc, sẽ
hình thành nên tâm thế hành động đúng đắn cho sinh viên, họ sẽ hành động để cụ
thể hóa niềm tin của mình, đó chính là hoạt động thực tiễn học tập và sau này là
công tác để cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Vì vậy,
niềm tin chính là tiêu chuẩn tinh thần cao nhất để đánh giá hiệu quả công tác
GDLLCT cho sinh viên.
1.2.2.2. Tiêu chuẩn thực tiễn
Một là, mức độ hành động tích cực, tự giác của sinh viên.
Sự tương ứng giữa nhận thức, thái độ, niềm tin của sinh viên với những
nội dung LLCT dẫn đến các mức độ tích cực khác nhau trong hành động, các
mức độ đó được thể hiện như sau:
Mức độ thứ nhất: Hoàn thành tốt các môn học lý luận chính trị trong
chương trình đào tạo, có thái độ học tập nghiêm túc, đúng đắn.
Mức độ thứ hai: do nhận thức được tầm quan trọng của các nội dung
LLCT mà chủ động, tích cực trong quá trình học tập, rèn luyện, phấn đấu của

24



mình. Học tập các môn học lý luận chính trị đạt được kết quả cao. Cơ bản nắm
được những nhận thức về thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận,…
Nắm được những nội dung cơ bản của LLCT và có khả năng liên hệ thực tiễn
vào công việc học tập hiện tại và công tác sau này của bản thân mình.
Mức độ thứ ba: sinh viên không chỉ chủ động, tự giác trong học tập LLCT
mà còn tham gia tích cực vào việc thực hiện công tác GDLLCT như tham gia
vào các hoạt động Đoàn, hoạt động tập thể, hoạt động ngoại khóa… Sinh viên
hình thành được cho mình một thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách
mạng, phương pháp luận biện chứng… Có khả năng vận dụng sáng tạo những tri
thức lý luận ấy vào thực tiễn công việc của mình. Quan tâm đến tình hình chính
trị trong nước, quốc tế. Có bản lĩnh chính trị vững vàng và biết đứng lên bảo vệ
cái đúng, lên án những cái hạn chế, tiêu cực…
Như vậy, hiệu quả công tác GDLLCT là kết quả của sự thống nhất chặt
chẽ giữa nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên, trong đó tự giác trong học tập
tri thức LLCT và vận dụng những tri thức LLCT ấy vào trong thực tiễn, cụ thể
hóa bằng hành động học tập, rèn luyện, công tác là hiệu quả cao nhất của công
tác GDLLCT.
Hai là, nhóm tiêu chí đánh giá việc sử dụng các nguồn lực trong công tác
GDLLCT.
Để đạt hiệu quả cao trong công tác GDLLCT cần có sự phối hợp đồng bộ
giữa các nguồn lực: nhân lực, tài lực và vật lực và tin lực. Sự phối hợp này được
thể hiện như sau:
Về nhân lực: Bao gồm đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục và đội
ngũ cán bộ, giảng viên trực tiếp tiến hành công tác GDLLCT.

25



×