Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ đề CƯƠNG ôn THI môn tác PHẨM KINH điển về KINH tế CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.65 KB, 68 trang )

Câu 1: Phương pháp trình bày của C.Mác trong bộ “Tư bản” là đi từ trừu tượng
đến cụ thể ( quyển 1)
C.Mác đã viết: “Cố nhiên, về mặt hình thức, phương pháp trình bày này phải khác
với phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu thì phải nắm lấy vật liệu với tất cả những chi
tiết của nó, phải phân tích những chi tiết của nó, phải phân tích các hình thái phát triển
khác nhau của nó và phải tìm ra được mối liên hệ bên trong của những hình thái đó, chỉ
sau khi hoàn thành công việc đó rồi mới có thể mô tả sự vận động thực tế một cách
thích đáng được” [C.Mác và Ăng nghen toàn tập, tập 23, tr 34].
Phương pháp trình bày, hay là mô tả sự vận động thực tế của phương thức sản xuất
TBCN, là phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể.
Phương pháp trừu tượng được Mác thể hiện trong quyển 1và quyển 2.
Quyển 1 Mác chỉ nghiên cứu quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa mà không tính đến
các nhân tố ảnh hưởng khác, mặc dù quá trình sản xuất TBCN là quá trình thống nhất giữa
sản xuất và lưu thông để thực hiện giá trị
“Trong quyển I, chúng ta đã nghiên cứu các mặt của quá trình sản xuất tư bản chủ
nghĩa, nghiên cứu riêng bản thân quá trình đó với tư cách là quá trình sản xuất trực tiếp
và trong sự nghiên cứu ấy, chúng ta đã không kể đến tất cả những ảnh hưởng thứ yếu do
những nhân tố ở bên ngoài quá trình ấy gây ra. Nhưng đời sống của tư bản còn vượt ra
ngoài quá trình sản xuất trực tiếp ấy. [C.Mác và Ăng nghen toàn tập, tập 25, tr 47].
Trong quyển 2 Mác nghiên cứu quá trình lưu thông như là một yếu tố của quá trình
sản xuất TBCN
“Quá trình sản xuất hoàn toàn dựa trên lưu thông và lưu thông chỉ đơn giản là một
yếu tố, một giai đoạn quá độ của sản xuất, lưu thông chỉ đơn thuần là sự thực hiện sản
phẩm đã được sản xuất ra với tư cách là hàng hóa và sự thay thế các yếu tố sản xuất của nó
đã được sản xuất ra với tư cách là hàng hóa”
Quyển III trình bày sự thống nhất giữa quá trình sản xuất và quá trình lưu thông
này với tư cách là một chỉnh thể, mô tả những hình thái cụ thể để từ quá trình vận động
hiện thực của tư bản.
Thí dụ: Xét phạm trù tư bản, việc giả định tư bản công nghiệp là một thể thống
nhất (Từ quyển I, quyển II đến phần thứ nhất, phần thứ hai và phần thứ ba của quyển
III) là một sự trừu tượng hoá. Phần thứ tư, quyển III, mới trình bày thái chuyển hoá của


một bộ phận tư bản lưu thông thành tư bản thương nhân, một loại tư bản đặc biệt. Đến


phần thứ năm quyển III, bàn thêm một loại tư bản đặc biệt nữa là tư bản sinh lợi tức,
phần thứ sáu, quyển III, đề cập tư bản đầu tư vào nông nghiệp.
Mở đầu quyển III “Tư bản”, C.Mác đã tóm tắt phương pháp trình bày đó như sau:
Trong thế giới hiện thực, quá trình sản xuất trực tiếp còn được bổ sung bằng quá
trình lưu thông,
Trong quyển III này, không thể nào cứ nói những điểm chung chung về sự thống
nhất ấy nữa. Trái lại, cần phải tìm ra và mô tả được những hình thái cụ thể đẻ ra từ quá
trình vận động của tư bản với tư cách là một chỉnh thể”[C.Mác và Ăng nghen toàn tập,
tập 25, tr 47-48]
Trình bày tách riêng quá trình sản xuất trực tiếp (quyển I) hay tách riêng quá trình
lưu thông (quyển II) là một sự trừu tượng hoá, vì trong sản xuất hàng hoá tư bản chủ
nghĩa, “quá trình sản xuất hoàn toàn dựa trên lưu thông và lưu thông chỉ đơn giản là
một yếu tố, một giai đoạn quá độ của sản xuất, lưu thông chỉ đơn thuần là sự thực hiện
sản phẩm đã được sản xuất ra với tư cách là hàng hoá”[C.Mác và Ăng nghen toàn tập,
tập 25, tr 500]
- Hay trong quá trình nghiên cứu phạm trù giá trị thặng dư. giá trị thặng dư là
phạm trừ trừu tượng, vì trong thực tế thì nó phải biểu hiện bằng lợi nhuận và lợi nhuận
bình quân mà nhà tư bản thu được.
Trong đời sống hiện thực giá trị thặng dư biểu hiện thành lợi nhuận thương
nghiệp, lợi nhuận doanh nghiệp, lợi tức, địa tô…
Đối tượng nghiên cứu của bộ tư bản là phương thức sản xuất TBCN với những
quan hệ trao đổi thích ứng với phương thức sản xuất ấy, mục đích cuối cùng là tìm ra
quy luật vận động của CNTb, cho nên với Mác đã sử dụng phương pháp đi từ trừu
tượng đến cụ thể từ đó khái quát thành quy luật vận động
Ngoài ra, trong bộ “Tư bản” C.Mác sử dụng nhiều thủ pháp nhận thức khác như
phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch, phương pháp hệ
thống, phương pháp thực chứng…những phương pháp và phạm trù về hệ thống luận,

luân lý học và tâm lý học… Tất cả những nội dung này, cùng cấu trúc thành hệ thống
phương pháp luận của bộ “Tư bản”.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu tác phẩm “Tư bản” trong giai đoạn hiện nay
Mặc dù tác phẩm “Tư bản” ra đời đã trên 100 năm, CNTB đã có những điều
chỉnh thích nghi cả về LLSX và quan hệ sản xuất, nhưng những quy luật về CNTB được


C. Mác trình bày vẫn còn nguyên giá trị thực tiển: quy luật giá trị thặng dư, quy luật gí
trị, cung cầu, quy luật lợi nhuận bình quân.... Với những tư liệu lịch sử được dẫn ra. nhờ
kết quả nghiên cứu đó tác phẩm vẫn mãi là kim chỉ nam cho việc xem xét, phân tích bản
chất và địa vị lịch sử của CNTB
Bộ “Tư bản” là một kho tàng lý luận về quy luật giá trị quy luật cơ bản của kinh
tế hàng hoá về các quy luật phát sinh của quy luật giá trị như quy luật cạnh tranh, quy
luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ…
Trung thành với lí tưởng XHCN, tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta phải
trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là về tư duy trong vận dụng các học
thuyết kinh tế của Mác – lênin
Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác – lênin là một học thuyết mở, vì vậy trong
quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải vận dụng một cách
sáng tạo tư duy kinh tế, trên cơ sở những nguyên lí, quy luật của kinh tế hàng hóa mà
chủ nghĩa Mác –Lênin đã trình bày
Một thực tế đã chứng minh tính đúng đắn trong học thuyết kinh tế của chủ nghĩa
Mác – Lênin đó là, sau những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới thời gian qua, các nhà
kinh tế đã quay trở lại nghiên cứu học thuyết kinh tế của c.Mác trong bộ tư bản
Câu 2. Tư bản cố định. TB lưu động? (Q2) (158-159; 161)
Tư bản cố định
Tư bản cố định: Là bộ phận tư bản mà quy mô hiện vật của nó tham gia toàn bộ
vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó chỉ chuyển dần từng phần vào sản phẩm
mới theo mức độ hao mòn trong quá trình sản xuất. Đó là bộ phận chủ yếu của tư bản
sản xuất (biểu hiện dưới dạng hiện vật là nhà xưởng, máy móc, thiết bị sản xuất).

C.Mác cho rằng, trong các bộ phận của tư bản, có một bộ phận tư bản bất biến
luôn giữ nguyên cái hình thái sử dụng nhất định trong suốt quá trình sản xuất và chúng
luôn thực hiện các chức năng giống nhau mà chẳng hạn như nhà xưởng, máy móc,v.v.1.
Đặc trưng của tư bản cố định:
- Giá trị sử dụng tồn tại dưới hình thái tư liệu lao động trong suốt thời gian mà nó
tham gia vào quá trình sản xuất.
- Giá trị của tư bản cố định chuyển dần vào sản phẩm. Giá trị chuyển vào sản
phẩm tỷ lệ nghịch với thời gian tồn tại của nó. Khi giá trị của nó được chuyển hết thì tư
1

Sđd, tr. 237 – 238.


bản cố định mới hết khấu hao
C.Mác cũng chỉ ra rằng, khi chuyển giá trị, thì giá trị tư bản cố định lưu thông
cùng sản phẩm. Giá trị tư bản cố định được thực hiện khi sản phẩm được thực hiện. Khi
thực hiện thì giá trị tư bản cố định được giữ lại dưới quĩ tiền tệ, chưa cần chuyển hóa
thành hình thái tự nhiên ngay, chỉ khi nào toàn bộ giá trị của tư bản cố định đã chuyển
hóa hết, thì lúc ấy mới đòi hỏi chuyển hóa trở lại hình thái tự nhiên của nó.
Tư bản lưu động: Là bộ phận tư bản khi tham gia vào quá trình sản xuất, giá trị
của nó được chuyển hết một lần vào sản phẩm mới. Tư bản lưu động bao gồm tư bản
khả biến và một bộ phận tư bản bất biến dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu...
Từ sự trình bày trên, C.Mác tóm tắt những đặc điểm khác nhau giữa tư bản cố định
và tư bản lưu động:
- Phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động chỉ bắt nguồn từ những sự khác nhau
trong chu chuyển của giá trị tư bản hoạt động trong quá trình sản xuất. Do đó, chỉ có tư bản
sản xuất mới có thể phân chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động
- Sự chu chuyển của bộ phận cấu thành cố định của tư bản và thời gian cần thiết cho
sự chu chuyển đó bao gồm nhiều vòng chu chuyển của các bộ phận cấu thành lưu động của
tư bản.

- Tư bản cố định được ứng ra toàn bộ trong một lần cho suốt thời gian hoạt động của
bộ phận tư liệu sản xuất cấu thành tư bản cố định. Giá trị này được đưa vào luôn một lần
trong lưu thông nhưng chỉ rút ra khỏi lưu thông dần dần.
Tư bản lưu động được rút ra toàn bộ một lần khỏi lưu thông và gia nhập vào quá
trình sản xuất trong suốt thời gian hoạt động của chúng.
- Muốn cho quá trình sản xuất được liên tục thì những yếu tố của tư bản lưu động
luôn luôn phải được cố định trong quá trình sản xuất2.
Việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động được căn cứ vào
phương thức chu chuyển của chúng. Vì vậy, những phạm trù kinh tế này tuy không chỉ
rõ nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản, nhưng chúng lại có ý nghĩa quan
trọng trong quản lý sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở phân chia đó, người ta tìm ra
phương thức sử dụng vốn cố định và vốn lưu động một cách tối ưu. Đặc biệt trong thời
đại cách mạng khoa học - kỹ thuật và tính chất cạnh tranh gay gắt của kinh tế thị trường,

2

Sđd, tr.251 – 254.


việc chống hao mòn vô hình, việc xác định tỷ lệ khấu hao và đổi mới tài sản cố định là
những vấn đề có tính thời sự của khoa học và nghệ thuật quản lý kinh tế.
Câu 3: Phương pháp trừu tượng hoá khoa học (quyển 1)
Mỗi ngành khoa học luôn có đối tượng nghiên cứu riêng, cho nên phương pháp
nghiên cứu cũng có sự khác nhau. Đối với khoa học kinh tế chính trị, đối tượng nghiên
cứu là nghiên cứu các quan hệ sản xuất trong mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau với
lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Khác với các ngành khoa học cụ thể khác, trong nghiên cứu quan hệ sản xuất, tức
là nghiên cứu mối quan hệ giữa người với người trong qúa trình sản xuất (mối quan hệ
sở hữu, quan hệ tổ chức quản lí và quan hệ trong phân phối sản phẩm làm ra). Quan hệ
sản xuất trong mối liên hệ với LLSX và kiến trúc thượng tầng thể hiện quá trình vận

động của phươn g thức sản xuất, và như vậy trong nghiên cứu sự vận động của một
phương thức sản xuất xã hội thì ko thể sử dụng các phương pháp cụ thể để cân đong, đo
đếm được mà phải sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học.
Trong “Lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất” quyển I bộ “Tư bản”, C.Mác
đã nhấn mạnh: “…khi phân tích những hình thái kinh tế, người ta không thể dùng kính
hiển vi hay những chất phản ứng hoá học được. Sức trừu tượng hoá phải thay thế cho
cả hai cái đó”. [C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 23, phần I, Nxb CTQG, Hà Nội,
1994, tr16]
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học:
Phải gạt bỏ khỏi đối tượng nghiên cứu những cái ngẫu nhiên, không thuộc bản
chất của đối tượng nghiên cứu, chỉ giữ lại những quá trình, những hiện tượng vững
chắc, ổn định, điển hình tiêu biểu cho bản chất của đối tượng nghiên cứu, để không bị
lầm lạc bởi những tình huống phụ, xa lại với tiến trình thật sự và làm rối loạn tiến trình
ấy.
Khi nghiên cứ phương thức sản xuất TBCN, C.Mác đã nghiên cứu phương thức
sản xuất của nước Anh, mà ko phải nước Đức,bởi vì lúc đó nước Đức- nền kinh tế vẫn
sản xuất theo phương thức sản xuất phong kiến điển hình ở Châu Âu, còn ở Anh (cuối
thế kỷ XVII đã xuất hiện tiền đề của cuộc cách mạng công nghiệp và nổ ra mạnh mẽ
vào giữa thế kỷ XVIII) là nước TBCN điển hình nhất, phát triển nhất thời đó. Tuy nhiên
trong xã hội Anh cũng không có CNTB dưới dạng thuần tuý mà vẫn còn những tàn dư


của các phương thức sản xuất tiền TBCN, như kinh tế tự nhiên và sản xuất hàng hoá
nhỏ.
Vì thế, để tìm ra những quy luật vận động của xã hội hiện đại, tức là xã hội
TBCN C.Mác đã vận dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học để gạt bỏ những tàn
dư nói trên màchỉ xét phương thức sản xuất TBCN dưới dạng thuần tuý, trong đó toàn
bộ của cải biểu hiện ra của nó là “một đống khổng lồ hàng hoá”, tất cả các yếu tố đầu
vào (kể cả sức lao động…) và đầu ra của sản xuất đều là hàng hoá, đều phải được mua
bán thông qua thị trường. Bởi vậy, khi phân tích tư bản công nghiệp, trong rất nhiều giai

tầng của xã hội tư bản Anh lúc, đó ông chỉ đề cập quan hệ giữa hai giai cấp cơ bản đối
lập nhau của xã hội tư bản là giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, chỉ khi nghiên cứu
sự chuyển hoá lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô TBCN trong quyển III mới xét thêm
quan hệ với chủ sở hữu ruộng đất.
Hay: Khi nghiên cứu quá trình sản xuất Mác đã xem các nhà tư bản là một bộ phận
trong quá trình sản xuất, là chủ sở hữu tư liệu sản xuất, mặc dù có thể các nhà tư bản ko
trực tiếp sản xuất
C.Mác không nghiên cứu từng nhà tư bản cụ thể mà “chỉ nói đến những con người
trong chừng mực mà họ là hiện thân của những phạm trù kinh tế, là kẻ đại biểu cho những
quan hệ và những lợi ích giai cấp nhất định”. [C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 23,
tr21]
- Phương pháp trừu tượng hoá khoa học được C.Mác thể hiện trong việc nêu lên
các giả định trong quá trình nghiên cứu
Về giá trị hàng hoá: Khi giả định chỉ xét quá trình sản xuất trực tiếp, tức là đơn
thuần chỉ là quá trình sản xuất một hàng hóa. (quyển I), thì: chỉ có lượng lao động xã hội
cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết quyết định giá trị sử dụng của hàng hóa
Nhưng khi xét quá trình tái sản xuất (đến quyển II), lại đi đến kết luận mới: “Giá
trị của mọi hàng hoá do giá trị của những hàng hoá cấu thành tư bản cũng vậy, không
phải là do thời gian lao động cần thiết chứa đựng trong bản thân hàng hoá đó quyết
định, mà là do thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra hàng hoá đó quyết
định. Việc tái sản xuất đó có thể tiến hành trong những điều kiện hoặc thuận lợi hơn,
hoặc khó khăn hơn, không giống như những điều kiện sản xuất ban đầu”. [C.Mác và
Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 23, tr213]
P3.

Sđd, tập 23, Nxb CTQG, Hà Nội, 1993, tr.21


Khi gắn với cạnh tranh trong nội bộ ngành và quan hệ cung cầu C.Mác lại chỉ ra:
giá trị thị trường, tức là giá trị trung bình của những hàng hoá được sản xuất trong một

khu vực sản xuất nào đó, mới là cái trục mà giá cả thị trường xoay quanh. Khi xét cả
cạnh tranh giữa các ngành lại đi đến kết luận mới: giá cả sản xuất (bao gồm chi phí sản
xuất cộng lợi nhuận bình quân), mới là trung tâm mà xung quanh nó giá cả thị trường
lên xuống (Quyển III)
Tức là giá trị hàng hóa ko phải do lao động cá biệt mà là do lao động xã hội cần
thiết quyết định, mức hao phí lao động trung bình của xã hội
Khi phân tích nhân tố ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá, như giá trị của hàng hoá,
giá tri của tiền (vàng), quan hệ cung cầu.
Giả định cung bằng cầu, giá trị của tiền không đổi, còn giá trị của hàng hoá thay
đổi, rút ra kết luận: giá cả hàng hoá biến đổi tỷ lệ thuận với giá trị của hàng hoá
Giả định cung bằng cầu, giá trị của hàng hoá không đổi, giá trị của tiền thay đổi cho
ta đi đến kết luận: Giá cả hàng hoá biến đổi về tỷ lệ nghịch với giá trị của tiền .
Cuối cùng giả định giá trị của hàng hoá và giá trị của tiền không đổi quan hệ cung
cầu biến đổi. Nếu cung lớn hơn cầu giá cả thị trường của hàng hoá thấp hơn giá trị thị
trường của nó; nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả thị trường của hàng hoá cao hơn giá trị
thị trường của nó.
Trong nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư:
Mác gải định: tư bản mua và bán đúng giá trị, toàn bộ tư liệu sản xuất chuyẩn hết
một lần vào sản phẩm, và nghiên cứu trong tái sản xuất giản đơn, nhưng rõ ràng trong
thực tế, quá trình tái sản xuất không thể thiếu lưu thông, tái sản xuất TBCN là tái sản
xuất mở rộng
Về quy luật lưu thông tiền tệ:
Khi chỉ xét riêng chức năng phương tiện lưu thông, với giả định “giá trị của vàng
là một đại lượng nhất định”, khối lượng tiền cần cho lưu thông lưu thông bằng tổng số
giá cả hàng hoá chia cho số vòng quay của những đồng tiền cùng tên gọi. Nhưng tiền
(vàng) là một loại hàng hóa nên giá giá trị của nó cũng thay đổi
Khi xét thêm chức năng phương tiện thanh toán, thì số tiền cần cho lưu thông lại
khác.
“Với một tốc độ chu chuyển nhất định của các phương tiện lưu thông và phương
tiện thanh toán tổng số tiền ấy sẽ bằng tổng số giá cả hàng hoá cần được thực hiện, cộng



với tổng số các khoản thanh toán đến hạn, trừ đi các khoản thanh toán đã bù trừ lẫn cho
nhau, và cuối cùng trừ đi tổng số vòng quay, trong đó cũng có những đồng tiền ấy lần lượt
khi thì làm chức năng phương tiện lưu thông, khi thì làm chức năng phương tiện thanh
toán”.
Hay khi nghiên cứu về địa tô tư bản chủ nghĩa:
Địa tô TBCN được C.Mác nghiên cứu xuất phát từ giả thiết cho rằng nông nghiệp,
cũng như công nghiệp chế tạo, đều bị phương thức sản xuất TBCN chi phối. Người lao
động nông nghiệp bị tước đoạt mất ruộng đất và phải phục tùng một nhà tư bản kinh
doanh nông nghiệp nhằm mục đích kiếm lợi nhuận, ở đây chỉ giới hạn trong việc đầu tư
tư bản vào nông nghiệp theo nghĩa hẹp, nghĩa là vào ngành sản xuất ra một sản phẩm
thực vật chủ yếu, nuôi sống cả một dân cư. tức là đã tách ruộng đất ra khỏi quyền sở hữu
ruộng đất và người chủ sở hữu ruộng đất chỉ nhận phần thuế độc quyền từ nhà tư bản.
Như vậy, để phân tích địa tô một cách khoa học, trên cơ sở phương thức TBCN,
C.Mác “Đã xét địa tô dưới cái hình thái thuần tuý của nó, gạt bỏ mọi cái pha tạp làm
xuyên tạc bản chất của địa tô đi và làm cho nó lu mờ đi”3
Tóm lại, những nguyên lý lý luận trên đều là trừu tượng dựa trên những giả định
nhất định. Khi vận dụng vào việc thực tiễn phải bám sát các giả định, xem xét hoàn
cảnh cụ thể có phù hợp với các giả định ấy không, nếu không thì không được máy móc
áp dụng nguyên xi những nguyên lý đó mà phải tính đến những điều kiện cụ thể trong
từng thời điểm, từng hoàn cảnh, điều kiện mỗi nước, mỗi khu vực.
Câu 4. TB bất biến, TB khả biến? (Q1) (52-54)
Phần thứ 3, quyển 1 ( quá trình sản xuất m)
C.Mác chỉ rõ, những nhân tố khác nhau của quá trình lao động tham gia một cách
khác nhau vào sự hình thành giá trị của sản phẩm.
Một mặt, bằng lao động cụ thể dưới một hình thái có ích nhất định, người công
nhân đã bảo tồn và di chuyển giá trị cũ của tư liệu sản xuất vào sản phẩm với tư cách là
những bộ phận cấu thành giá trị của sản phẩm ấy.
Mặt khác, với cái thuộc tính chung, trừu tượng của nó, với tư cách là một sự chi

phí sức lao động của con người, lao động của người công nhân đã gắn thêm được một
giá trị mới vào giá trị của tư liệu sản xuất.
C.Mác viết: “với cái thuộc tính chung, trừu tượng của nó, với tư cách là một sự
3

. Sđd, tập 25 phần II, tr. 239.


chi phí sức lao động của con người, lao động của người thợ kéo sợi đã gắn thêm được
một giá trị mới vào giá trị của bông và cọc sợi; còn với cái thuộc tính cụ thể, đặc thù, có
ích của nó, với tư cách là một quá trình kéo sợi, thì lao động của người thợ kéo sợi
chuyển giá trị của những tư liệu sản xuất đó sang sản phẩm và do đó đã bảo tồn giá trị
của chúng trong sản phẩm”4.
C.Mác khẳng định việc chuyển giá trị của những yếu tố sản xuất sang giá trị của
sản phẩm mới được biểu hiện theo những kiểu khác nhau.
Có những tư liệu tham gia vào toàn bộ quá trình lao động nhưng lại chỉ chuyển
từng phần vào quá trình hình thành giá trị ví dụ như máy móc, nhà xưởng, dụng cụ,
v.v… Ngược lại, có cái tham gia toàn bộ vào quá trình hình thành giá trị, mặc dù chỉ gia
nhập từng phần vào quá trình lao động.
Như vậy, giá trị tư liệu sản xuất được bảo tồn thông qua lao động sống của người
công nhân, còn cái bị tiêu dùng đi trong tư liệu sản xuất là giá trị sử dụng.
Tuy nhiên, đối với sức lao động thì hoàn toàn lại khác: lao động không những
chuyển giá trị của tư liệu sản xuất vào sản phẩm, bảo tồn giá trị đó mà còn tạo ra giá trị
mới trong đó có giá tri thặng dư.
Từ những phân tích đó, C.Mác đã đặt tên cho từng bộ phận của tư bản.
Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất, do không thay đổi đại lượng giá trị của
nó trong quá trình sản xuất C.Mác gọi là bộ phận bất biến của tư bản, hay tư bản bất biến.
Bộ phận tư bản biến thành sức lao động lại thay đổi giá trị của nó trong quá trình sản
xuất, nó không chỉ tái sản xuất ra vật ngang giá với bản thân nó, mà còn sản xuất ra giá trị
thặng dư, từ một đại lượng bất biến, bộ phận này lại không ngừng chuyển hóa thành đại

lượng khả biến C.Mác gọi là bộ phận khả biến của tư bản, hay tư bản khả biến.
Kết luận
Tư bản bất biến là tư bản tồn tại dưới dạng các tư liêu sản xuất, là bộ phận tư
bản dùng để mua tư liệu sản xuất, như máy móc, nhà xưởng, nguyên nhiên liệu phục vụ
cho sản xuất (ký hiệu là c).
Đặc điểm; tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất nhưng giá trị của nó chuyển từng
phần (máy móc, nhà xưởng..) hoặc chuyển một lần (nguyên, nhiên liệu) vào sản phẩm
Tư bản khả biến là bộ phận tư bản dùng để mua hàng hoá sức lao động (ký hiệu
là v).
4

Sđd, tr.299.


Đặc điểm: trong quá trình sản xuất tư bản khả biến tạo ra giá trị lớn hơn giá trị
bản thân nó
Tuy nhiên, theo C.Mác, khái niệm tư bản bất biến không có nghĩa rằng giá trị các bộ
phận cấu thành nó là bất biến. Giá trị của nguyên liệu, máy móc…được dùng trong sản
xuất có thể thay đổi lên xuống nhưng không bao giờ chúng chuyển nhiều hơn cái giá trị mà
nó có vào sản phẩm.
Mác là người đầu tiên phân chia tư bản bất biến và tư bản khả biến
Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến vạch rõ nguồn gốc
của giá trị thặng dư. Nó chứng minh rằng: không phải máy móc mà chỉ có sức lao động
của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ làm cho lực lượng sản
xuất có sự phát triển vượt bậc. Xuất hiện “ nhà máy không người”, Xí nghiệp nào sử
dụng máy móc, công nghệ mới thì năng suất lao động tăng lên, theo đó lợi nhuận tăng
lên..Tình hình đó đã xuất hiện nhiều ý kiến cho rằng “máy móc tạo ra giá trị thặng dư
cho nhà tư bản”. Tuy nhiên, theo nguyên lý lao động tạo ra giá trị thì máy móc không
tạo ra giá trị và như vậy cũng không thể tạo ra giá trị thăng dư cho nhà tư bản.

Đối với nước ta,
- Ưng dụng máy móc mới, tăng năng suất lao động
- Đào tạo nguồn lao động chất lượng cao
Câu 5: Hai nhân tố của hàng hoá và tính chất 2 mặt của lao động biểu hiện
trong hàng hoá (quyển 1, phần thứ nhất)
Trong chương này C. Mác tập trng nghiên cứu Hàng hóa và tiền tệ mà trước hết là
hàng hóa
Khi nghiên cứu sản xuất TBCN C. Mác bắt đầu nghiên cứu hàng hóa vì:
Nền sản xuất TBCN là sản xuất hàng hóa, quá trình sản xuất hàng hóa thể hiện mối
quan hệ bản chất của sản xuất TBCN, nó là cơ sở để nhận thức bản chất các phạm trù khác
1. Hai nhân tố của hàng hóa: Giá trị sử dụng và giá trị
Hàng hóa là sản phẩm của lao động thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông
qua trao đổi, mua bán
Như vậy đã là hàng hóa phải có hai thuộc tính,
Thứ nhất là giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu con người
Thứ hai là phải được đem ra trao đổi, mua bán


* Giá trị sử dụng:
C.Mác đã chỉ ra rằng, hàng hóa trước hết phải là một vật nhờ có những thuộc tính
của nó mà có thể thỏa mãn một loại nhu cầu nào đó của con người (nhu cầu vật chất hay
tinh thần, trực tiếp hay gián tiếp).
Chính tính chất có ích hay công dụng của một vật khiến cho nó trở thành một giá
trị sử dụng. Tính có ích của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên vốn có của vật thể hàng hóa
quyết định
“Tính có ích do thuộc tính của vật thể hàng hóa quyết định, nó không tồn tại bên
ngoài vật thể hàng hóa này”. [tập 23, tr63]
Giá trị sử dụng được thự hiện trong quá trình tiêu dùng, là nội dung vật chất,
không phụ thuộc vào hình thái kinh tế xã hội, do đó giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh
viễn.

Trong sản xuất hàng hóa, giá trị sử dụng đồng thời là vật mang giá trị trao đổi
Giá trị sử dụng, hay tính có ích của hàng hóa cũng được xét trên 2 mặt, chất và
lượng
Mỗi hàng hóa do nhiều thuộc tính quy định nên sẽ có nhiều công dụng khác nhau,
mặt lựong thể hiện ở chỗ nó được đo lường các loại thước đo khác nhau.
Như vậy, từ sự trình bày của Mác, thì giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng
của hàng hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
* Giá trị hàng hóa
Để hiểu giá trị hàng hóa trước phải xem xét giá trị trao đổi giữa các hàng hóa
Giá trị trao đổi trước hết là biểu hiện ra như là một quan hệ về số lượng, là một tỷ
lệ theo đó những giá trị sử dụng này được trao đổi với những giá trị sử dụng khác. [tập
23, tr63]
Chẳng hạn, a thóc được trao đổi với x vải, y vàng, z bạc, v.v. Như vậy thóc không
phải chỉ có một giá trị trao đổi, mà có nhiều giá trị trao đổi. Và cả x vải, y vàng, z bạc
đều là những giá trị trao đổi của a thóc, nên chúng cũng phải là những giá trị trao đổi
có thể thay thế được cho nhau, hay là có đại lượng bằng nhau.
Từ đó có thể kết luận rằng:
Một là, các giá trị trao đổi khác nhau của cùng một thứ hàng hóa đều biểu thị một
cái gì đó giống nhau,
Hai là, giá trị trao đổi nói chung chỉ có thể là một phương thức biểu thị một nội


dung nào đó khác mà thôi.
Tại sao các giá trị sử dụng khác nhau của hàng hóa lại có thể trao đổi được với
nhau, qua nghiên cứu C.Mác đi đến khẳng định: cái chung khiến cho hàng hóa có thể
trao đổi được với nhau, bởi vì chúng đều là sản phẩm của lao động
“Nếu gạt giá trị sử dụng của vật thể hàng hóa ra một bên, thì vật thể hàng hóa chỉ
còn có một thuộc tính mà thôi, cụ thể là: chúng là sản phẩm của lao động”5
Nhưng lạo động để sản xuất hàng hóa lại biểu hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau: lạo động của thợ mộc, lạo động của thợ may...tất cả các hình thức lao động này có

hình thức khác nhau, phương tiện khác nhau nhưng lại có điểm chung là sự hao phí thần
kinh, cớ bắp, đó chính là lao động trừu tượng của con người trong sản xuất hàng hóa
Từ đó C.Mác đã đi đến khẳng định sau khi gạt bỏ tất cả những biểu hiện bên
ngoài mà chúng ta có thể cảm nhận được bằng các giác quan thì chỉ còn lại “một sự kết
tinh đơn thuần, không phân biệt, của lao động của con người, tức là một sự chi phí về
sức lao động của con người không kể đến hình thức của sự chi phí đó. Tất cả những vật
ấy bây giờ chỉ còn biểu hiện một điều là trong việc sản xuất ra chúng, sức lao động của
con người đã được chi phí vào đấy, lao động của con người đã được tích lũy vào đấy. Là
những tinh thể của cái thực thể xã hội chung cho tất cả các vật ấy, cho nên các vật ấy đều là
những giá trị - những giá trị hàng hóa”6.
Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản suất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa.
Khi trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào lượng lao động đã kết tinh trong hàng hóa đó là
lượng giá trị hàng hóa.
* Lượng giá trị hàng hóa.
Để đo lường đại lượng giá trị hàng hóa, theo C.Mác phải sử dụng đúng cái “thực
thể tạo ra giá trị” chứa đựng trong hàng hóa, đó chính là lượng lao động đã hao phí làm
cơ sở để xác định.
Lượng lao động thì được đo bằng thời gian lao động nhưng, nhưng trong nền sản
xuất hàng hóa có rất nhiều người sản xuất một loại hàng hóa, mà mỗi người có phương
pháp, phương tiện, trình độ riêng. Vì vậy, không thể dùng lao động cá biệt của một
người nào đó để đo lường giá trị hàng hóa mà là thời gian lao động bình quân của toàn
bộ những lao động cụ thể đó gộp lại, hay nói cách khác đó chính là thời gian lao động
5
6

Sđd, tr.65
Sđd, tr.66



xã hội cần thiết để sản xuất ra hang hóa đó.
C.Mác viết “Mỗi một sức lao động cá thể ấy, cũng như bất cứ sức lao động cá thể
nào khác cũng là một sức lao động của con người, bởi vì nó có tính chất một sức lao
động xã hội trung bình và hoạt động với tư cách là một sức lao động xã hội trung bình
như thế; do đó để sản xuất ra một hàng hóa nhất định, nó chỉ dùng một thời gian lao
động trung bình cần thiết hay thời gian lao động xã hội cần thiết”7.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động để sản xuất ra một giá trị
sử dụng nào đó trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ thành
thạo trung bình và cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.
Kết luận: Lượng giá trị hàng hóa là số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết
để sản xuất ra hàng hóa đó
Lượng giá trị phụ thuộc thời gian lao động xã hội cần thiết,, thời gian lao động
lại phụ thuộc vào sức sản xuất của lao động, sức sản xuất của lao động càng lớn thì
thời gian lao động xã hội cần thiết càng ít, và giá trị hàng hóa càng ít
Các nhân tố ảnh hưởng lượng giá trị hàng hóa.
Năng suất lao động
Cường độ lao động
Tính chất lao động
Câu 6. Tính chất hai mặt của lao động biểu hiện trong hàng hóa
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính bởi vì lao động của người sản xuất hàng hóa có
tính chất hai mặt, lao động cụ thể và lao động trừu tượng
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những ngành
nghề chuyên môn nhất định
+ Mỗi lao động cụ thể đều có: Công cụ riêng, đối tượng riêng, phương pháp
riêng và sản phẩm riêng. Nó thể hiện sự phân công lao động xã hội.
+ Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa, nó biểu hiện tính chất tư
nhân của lao động sản xuất hàng hóa.
“Cái áo là một giá trị sử dụng thỏa mãn một nhu cầu nhất định. Muốn tạo ra nó
cần phải có một loại hoạt động sản xuất nhất định. Hoạt động này được quyết định bởi
mục đích, cách làm, đối tượng, tư liệu và kết quả của nó. Lao động mà tính chất có ích

7

Sđd, tr.67


biểu hiện ra như vậy... là lao động có ích”8.
Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, nó không phụ thuộc vào bất kỳ hình
thái xã hội nào mà nó tồn tại.
“Với tư cách là kẻ sáng tạo ra giá trị sử dụng, là lao động có ích, thì lao động là
một điều kiện tồn tại của con người không phụ thuộc vào bất kỳ hình thái xã hội nào"9.
Trong quá trình phân tcíh lao động cụ thể mác đã chỉ ra điều kiện tồn tại của sản
xuất hàng hóa (phân công lao động – lao động cụ thể và tính độc lập của lao động ko
phụ thuộc vào nhau
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ
những hình thức cụ thể chỉ còn lại sự hao phí về sức lực, thần kinh cơ bắp của con
người.
C.Mác viết “ nếu như không kể tính chất cụ thể nhất định của hoạt động sản xuất,
và do đó đến tính có ích của lao động, thì trong lao động ấy chỉ còn lại có một cái là sự
tiêu phí sức lao động của con người…một sự chi phí sản xuất về óc, bắp thịt, thần kinh
và bàn tay.v.v., của con người”10.
Giá trị hàng hóa có 2 mặt, chất và lượng
Xét về mặt chất đó là sự hao phí lao động của con người, sự kết tinh của lao động
Xét về mặt lượng, đó là số lượng lao động đã hao phí để sản xuất ra nó.
Nhưng sự hao phí sức lao động của những người sản xuất khác nhau là không
giống nhau. Có sản phẩm do lao động giản đơn làm ra, có sản phẩm do lao động phức
tạp, thậm chí cực kỳ phức tạp làm ra.
C.Mác đã phát hiện ra rằng, “Lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn nâng lên
thành lũy thừa, hay nói cho đúng hơn, là lao động giản đơn được nhân lên, thành thử
một lao động phức tạp nhỏ hơn thì tương đương với một lao động giản đơn lớn hơn”11.
Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một con người bình thường nào cùng

đều có thể làm được. Việc qui lao động phức tạp thành lao động giản đơn diễn ra một
cách thường xuyên, đằng sau lưng những người sản xuất. Vì vậy, một hàng hóa có thể là
sản phẩm của một lao động phức tạp nhất, nhưng giá trị của hàng hóa đó vẫn làm cho
nó ngang giá với sản phẩm của lao động giản đơn.
8

C.Mác và Ăngghen: Sđd, tr.71
C.Mác và Ăngghen: Sđd, tr.73
10
C.Mác và Ăngghen: Sđd, tr.74
11
C.Mác và Ăngghen: Sđd, tr.75
9


Về vị trí và ý nghĩa của lí luận giá trị - lao động trong học thuyết kinh tế C.Mác, có
thể khẳng định: Lý luận giá trị lao động là cở sở lý luận khoa học để C.Mác xây dựng
học thuyết giá trị thặng dư.
Nghiên cứu lý luận giá trị trong học thuyết kinh tế của C.Mác thực chất là nghiên
cứu hàng hóa, tiền tệ. Điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa học - cơ sở đề nghiên
cứu học thuyết giá trị thặng d, mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn kinh tế - xã hội. Đó là
vận dụng các quy luật của sản xuất và lu thông hàng hóa vào nền kinh tế thị trờng, thúc
đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Lí luận giá trị- lao động của Mác có ý nghĩa to lớn trong phát triển kinh tế thị
trường hiện nay
Sản xuất hàng hóa mục đích là thực hiện giá trị, muốn thực hiện được giá trị trước
hết phải có giá trị sử dung, cho nên cần:
Sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng
Ứng dụng khoa học công nghệ, kĩ thuật hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực có trình
độ tay nghề cao, thực hiện chuyên môn hóa, đổi mới cách thức quản lí.. nhằm tăng

năng suất lao động, hạ thấp giá trị sản phẩm để tăng tính cạnh tranh
Câu 7: hàng hóa sức lao động (chương 4 phần 2 quyển 1)
Khi nghiên cứu và giải quyết mâu thuẫn công thức chung của tư bản (T – H – T')
C.Mác đã chỉ ra chìa khóa giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản chính
là hàng hóa sức lao động.
Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể chất và tinh thần) tồn tại trong một
con người và được người đó sử dụng vào sản xuất hàng hoá.
“Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể
chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người
đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.”12
Trong mọi xã hội sức lao động đều là yếu tố quyết định của sản xuất, nhưng
không phải ở bất cứ chế độ xã hội nào sức lao động cũng trở thành hàng hoá. Sức lao
động chỉ trở thành hàng hoá khi có các điều kiện nhất định.
C.Mác đã chỉ ra các điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.
Điều kiện thứ nhất là: người lao động phải có khả năng chi phối được sức lao
12

Sđd, tr.251


động, do đó họ phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động và thân thể của mình và có nhu
cầu bán sức lao động ấy. Đồng thời anh ta gặp được người chủ tiền có nhu cầu mua sức
lao động, họ quan hệ với nhau với tư cách là những người chủ hàng hóa bình với nhau.
Điều kiện thứ hai, người chủ sức lao động không còn có khả năng bán những hàng
hóa trong đó lao động của anh ta được vật hóa, mà trái lại, anh ta buộc phải đem bán
chính ngay cái sức lao động của mình.
Tức là, người lao động mất hết tư liệu sản xuất, mặc dù có sức lao động nhưng
không thể tạo ra sản phẩm để bảo đảm cuộc sống, buộc phải bán sức lao động
Từ đó C.Mác đi đến kết luận về điều kiện chuyển hóa tiền thành tư bản: “Như vậy
là để chuyển hóa tiền thành tư bản, người chủ tiền phải tìm người lao động tự do trên thị

trường hàng hóa, tự do theo hai nghĩa: theo nghĩa là một con người tự do, chi phối được
sức lao động của mình với tư cách là một hàng hóa, và mặt khác anh ta không còn một
hàng hóa nào khác để bán, nói một cách khác là trần như nhộng, hoàn toàn không có
những vật cần thiết đê thực hiện năng lực lao động của mình”13
C. Mác cũng chỉ ra rằng, sự xuất hiện hai điều kiện trên là do qúa trình phát triển
kinh tế - xã hội, không tồn tại chung trong tất cả các hình thái KTXH. dưới CNT bản đó
là kết quả của cuộc cách mạng tư sản ( giải phóng nô lệ, tích lũy nguyên thủy)
Đi vào phân tích hàng hóa sức lao động, C.Mác chỉ ra rằng, cũng như bao hàng hóa
khác, khi sức lao động trở thành hàng hóa thì nó cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị
sử dụng.
Về thuộc tính giá trị, theo C.Mác, giá trị sức lao động cũng giống như mọi hàng
hóa khác được quyết định bởi số thời gian lao động cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra
sức lao động.
Vì sức lao động chỉ tồn tại như là một năng lực của con người sống, cho nên một
khi đã có sự tồn tại của con người, thì việc sản xuất ra sức lao động chính là việc duy trì
cuộc sống của chính con người đó. Mà muốn duy trì cuộc sống thì cần phải có một số tư
liệu sinh hoạt nhất định như thức ăn, quần áo, chất đốt, nhà ở,v.v,. Cho nên giá trị sức lao
động chính là giá trị các tư liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống của con người.
Do đó, giá trị sức lao động bao gồm: giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy
trì cuộc sống của người lao động; giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết cho con cái người
lao động; những chi phí đào tạo tùy theo tính chất phức tạp của sức lao động. Theo đó,
13

Sđd, tr.253.


C.Mác kết luận: giá trị của sức lao động được quy thành giá trị của tổng số những tư liệu
sinh hoạt nhất định.
Không giống như các hàng hóa thông thường, giá trị sức lao động bao hàm một yếu
tố tinh thần và lịch sử, tức là quy mô, phương thức thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu để

sản xuất và tái sản sức lao động phụ thuộc vào điều kiện, đặc điểm, trình độ văn minh của
mỗi nước, cũng như nhu cầu, thói quen sinh hoạt của người lao động.
Bản chất riêng biệt của hàng hóa sức lao động còn biểu thị ở chỗ, khi hợp đồng đã
được ký kết giữa người mua và người bán thì giá trị sử dụng của nó vẫn chưa thực sự
chuyển sang tay người mua.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động chỉ được thể hiện ra trong quá trình sử
dụng nó, tức là quá trình tiêu dùng sức lao động. Quá trình tiêu dùng sức lao động đồng
thời cũng là quá trình sản xuất hàng hóa và giá trị thặng dư.
Câu 8. Quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị trong sản xuất Tư bản chủ
nghĩa? (Q1) (49-52)
Quá trình lao động
C.Mác chỉ ra rằng tiêu dùng sức lao động, đó chính là quá trình lao động. Người
mua sức lao động tiêu dùng sức đó bằng cách bắt người bán nó phải lao động, tức là
phải sản xuất ra những giá trị sử dụng, hay của cải vì lợi ích của nhà tư bản và dưới sự
kiểm soát của nhà tư bản.
Như vậy, quá trình lao động là quá trình kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất
để tạo ra sản phẩm
C.Mác đi sâu phân tích các yếu tố của quá trình lao động.
Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sau khi mua sức lao động và tư liệu sản
xuất, nhà tư bản bắt tay vào việc tiêu dùng thứ hàng hóa mà hắn đã mua nghĩa là buộc
người công nhân phải tiêu dùng các tư liệu sản xuất bằng lao động của mình.
Mác chỉ ra đặc trưng của sản xuất TBCN “Người công nhân lao động dưới sự
kiểm soát của nhà tư bản, lao động của anh ta thuộc về nhà tư bản; sản phẩm là sở hữu
thuộc nhà tư bản, chứ không phải của người sản xuất trực tiếp, không phải của người
công nhân”.14
Quá trình làm tăng giá trị
C.Mác cho rằng, giá trị sử dụng chỉ được sản xuất ra là vì nó là thực thể vật chất
14

Sđd, tr.277.



và là vật mang giá trị trao đổi.
Từ đó C.Mác chỉ rõ mục đích của nhà tư bản là giá trị thặng dư, để thực hiện giá trị
phải trao đổi, muốn trao đổi thì vât phải mang giá trị sử dụng:
“Một là, hắn muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi, một vật
dùng để bán. Và hai là, hắn muốn sản xuất ra một hàng hóa có giá trị lớn hơn tổng số giá
trị những hàng hóa cần thiết để sản xuất ra nó, tức là lớn hơn tổng số giá trị những tư liệu
sản xuất và sức lao động mà hắn đã ứng trước tiền mặt ra để mua trên thị trường hàng
hóa”15.
Từ đó, C. Mác đi vào phân tích quá trình sản xuất với tư cách là quá trình tạo ra
giá trị. C. Mác lấy ví dụ về quá trình sản xuất sợi.
Muốn sản xuất sợi trước hết phải có nguyên liệu,
ví dụ 10 pao bông với giá: 10 si ling,
Tư liệu lao động (cọc sợi): 2 siling,
Tư liệu sản xuất 12 silinh hay 2 ngày lao động;
Giá trị hàng ngày của sức lao động là 3 si-ling hay ½ ngày lao động,
Tổng số tiền nhà tư bản bỏ ra là 15 siling
Giả định trong 6 giờ lao động người công nhân chuyển hóa 10 pao bông thành 10
pao sợi.
Theo đó, tổng giá trị sản phẩm của 10 pao sợi là 2,5 ngày lao động hay 15 si ling:
Do đó giá cả phù hợp với giá trị của 10 pao sợi là 15 si-ling.
Như vậy, sau 6 giờ tiến hành sản xuất, nhà tư bản đã thu về được số tiền đúng
bằng số triền mặt mà hắn đã ứng ra để mua các yếu tố sản xuất: 10 si-ling bông, 2 siling cọc sợi, 3 si-ling sức lao động.
Nhưng mục đích nhà tư bản bỏ tiền ra để thu về số tiền lớn hơn chưa hoàn tất
C.Mác đã đi sâu phân tích giá trị hay giá trị trao đổi của sức lao động và lao động
sống mà sức lao động có thể cung cấp để làm rõ cái thực chất của quá trình sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
C.Mác đã chỉ ra rằng, lao động quá khứ bao hàm ở trong sức lao động và lao động
sống mà sức lao động có thể cung cấp được,

Những chi phí hàng ngày để duy trì sức lao động và sự tiêu phí sức lao động ấy
trong một ngày là hai đại lượng hoàn toàn khác nhau.
15

Sđd, tr.279


Chi phí hàng ngày để duy trì sức lao động quyết định giá trị trao đổi của nó, còn
sự tiêu phí sức lao động trong một ngày tạo thành giá trị sử dụng của nó. Do đó giá trị
của sức lao động và giá trị được tạo ra trong quá trình sử dụng sức lao động ấy là hai đại
lượng khác nhau16.
Sau khi nhà tư bản đã trả cái giá trị hàng ngày của sức lao động cho người công
nhân, thì việc tiêu dùng sức lao động ấy trong một ngày, lao động cả ngày là thuộc về
nhà tư bản.
Quá trình sản xuất ở trên mới tiêu dùng hết nửa ngày lao độn, nhà tư bàn tiếp tục
sử dụng nửa ngày còn lại. và chỉ cần mua 12 silinh tư liệu sản xuất
Để sản xuất ra 20 pao sợi với giá là 30 si-ling, nhà tư bản chỉ bỏ ra 20 si-ling mua
bông, 4 si-ling hao mòn cọc sợi và 3 si-ling tiền thuê công nhân, tổng cộng là 27 si-ling,
nhưng thực tế, anh ta thu về 30 si-ling. Vậy là 27 si-ling đã chuyển hóa thành 30 si-ling.
Chúng đã đem lại một giá trị thặng dư là 3 si-ling. Tiền đã biến thành tư bản.
Điều cần phải đặc biệt chú ý rằng, trong toàn bộ quá trình diễn ra từ việc trao đổi
đến sản xuất hàng hóa của nhà tư đều tuân thủ những quy luật vốn có của sản xuất và
trao đổi hàng hóa. Nhà tư bản mua các hàng hóa đúng giá trị, tiêu dùng giá trị sử dụng
của những hàng hóa như mọi người mua hàng hóa khác và sau đó cũng trở lại lưu thông
bán hàng hóa cũng đúng giá trị, nhưng vẫn thu được từ lưu thông 3 si-ling nhiều hơn số
tiền đã bỏ ra lúc ban đầu.
Từ đó, C.Mác rút ra kết luận:
- Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị
thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hóa;
- Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị

thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
Câu 9: Giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối
1. Giá trị thặng dư tương đối
Các phần trước C.Mác giả định ngày lao động là một đại lượng bất biến. thực tế
nó là một đại lượng bất biến trong những điều kiện sản xuất nhất định, trong một giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Ngoài số thời gian lao động cần thiết ra, người
công nhân có thể lao động làm thêm giờ 2, 3, 4, 6 giờ, v.v. Đến đây, C.Mác giả định
ngày lao động cố định với việc chia thành lao động cần thiết và lao động thặng dư là đại
16

Sđd, tr.289 – 290.


lượng cho sẵn.
Vậy làm thế nào để việc sản xuất ra giá trị thặng dư có thể tăng được hay để cho
lao động thặng dư có thể kéo dài ra mà không kéo dài ngày lao động hoặc không phụ
thuộc vào nó.
C.Mác chỉ ra rằng, việc kéo dài số lao động thặng dư sẽ tương ứng với việc rút ngắn số
lao động cần thiết. Cái sẽ thay đổi không phải là độ dài của ngày lao động mà là sự phân chia
của sự lao động thành lao động cần thiết và lao động thặng dư. Khi độ dài của ngày lao động
đã có sẵn thì thời gian lao động thặng dư được kéo dài là do thời gian lao động cần thiết bị
rút ngắn.
Như vậy, giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian
lao động cần thiết trong khi thời gian lạo động trong ngày không đổi
(Lao động cần thiết là lao động tạo ra giá trị bù đắp lâi giá trị mà nhà tư bản đã bỏ ra
mua sức lao động)
Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ; 4 giờ lao động cần thiết; 4 giờ lao động thặng dư.
4
m = 4 (%) = 100%



Nếu rút ngắn thời gian lao động tất yếu từ 4 giờ xuống còn 3 giờ, thì thời gian
lao động thăng dư tăng từ 4 giờ lên thành 5 giờ.
6
3

m’= (%) = 160%
Muốn rút ngắn thời gian lạo động cần thiết thiết phải hạ thấp các giá trị sinh hoạt,
nghĩa là hạ thấp giá trị lao đông. Để hạ thấp giá trị sức lao động, phải nâng cao sức sản
xuất của lao động hay năng suất lao động ở những ngành công nghiệp mà sản phẩm
quyết định giá trị sức lao động, tức là những sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra
tư liệu sinh hoạt và những ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt. Bởi vì, nâng cao sức sản
xuất của lao động sẽ làm cho giá trị của các tư liệu sinh hoạt rẻ đi, điều đó cũng có
nghĩa là làm giảm giá trị sức lao động.
2. Giá trị thặng dư tuyệt đối
Theo C.Mác, sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối là việc kéo dài ngày lao động
quá cái điểm mà người công nhân chỉ sẽ sản xuất ra vật ngang giá với giá trị sức lao
động, và nhà tư bản chiếm lấy phần lao động thặng dư ấy. Sản xuất ra giá trị thặng dư
tuyệt đối tạo thành cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa và là điểm xuất phát của sự


sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao
động trong ngày trong khi thời gian lao động cần thiết không đổi.
Kéo dài thời gian lao động trong ngày trong khi thời gian lao động cần thiết
không đổi. Do đó, thời gian lao động thặng dư tăng lên.
Ví dụ: ngày lao động 8 giờ; thời gian cần thiết là 4 giờ; thời gian thặng dư là 4 giờ.
4
m = 4 (%) = 100%



Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa. Tức là thời gian lao động trong ngày là
10 giờ. Nếu giữ nguyên thời gian tất yếu là 4 giờ, thì thời gian lao động thặng dư sẽ tăng
lên là 6 giờ.
6
m = 4 (%) = 150%


Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là cơ sở chung của phương thức
bóc lột tư bản chủ nghĩa và thường được áp dụng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư
bản.
Tham vọng của nhà tư bản muốn kéo dài ngày lao động đến vô cùng. Nhưng
việc kéo dài ngày lao động không thể vượt quá giới hạn tâm sinh lý của công nhân. Vì
công nhân còn phải có thời gian nghỉ ngơi để tái sản xuất sức lao động. Mặt khác, ngày
tự nhiên có giới hạn xác định, hơn nữa công nhân luôn đấu tranh đòi giảm giờ làm. Vì
thế, nhà tư bản phải tìm phương pháp khác, phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương
đối.
Câu 10. Nguyên nhân ngăn trở tác dụng quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu
hướng giảm (Q3) (228; 233-237)
Chương này nghiên cứu bản chất của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm
xuống dưới hình thái chung nhất, tức là tạm gác lại tất cả những gì tác động ngược lại
quy luật và làm biến đổi quy luật đó. Quy luật này được nghiên cứu với tư cách là biểu
hiện chung nhất quy luật chung của tích lũy tư bản chủ nghĩa trong lĩnh vực lợi nhuận
và giá cả.
Những nguyên nhân ngăn trở tác dụng của quy luật
Như trên đã trình bày tỷ suất lợi nhuận hạ thấp là một xu hướng, và theo đó cùng


với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thì tỷ suất lợi nhuận đúng ra phải ngày càng thấp
xuống, những trên thực tế sự hạ thấp đó lại không nhiều và không nhanh. Tại sao C.Mác

chỉ ra rằng, nhất định phải có những ảnh hưởng ngược lại ngăn trở hay thủ tiêu tác dụng
của quy luật chung và làm cho nó chỉ mang tính chất là một xu hướng mà thôi. Cũng
chính vì vậy mà C.Mác gọi sự hạ thấp của tỷ suất lợi nhuận là xu hướng hạ thấp. Trong
các nguyên nhân thì phổ biến là các nguyên nhân: tăng mức độ bóc lột lao động; hạ thấp
tiền công xuống dưới giá trị sức lao động; những yếu tố của tư bản bất biến trở nên rẻ
hơn; nhân khẩu thừa tương đối; ngoại thương; và tư bản cổ phần tăng lên. Ở đây chúng
tôi tập trung vào một số nhân tố sau:
Thứ nhất: Tăng mức độ bóc lột lao động
C.Mác chỉ rõ: “Mức độ bóc lột lao động, sự chiếm đoạt lao động thặng dư và giá
trị thặng dư tăng lên đặc biệt là bằng cách kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao
động”. Thông thường có thể cho rằng khi kéo dài ngày lao động cấu tạo của tư bản về
mặt giá trị cũng không, hoặc hầu như không biến đổi. Do đó, việc tăng mức độ bóc lột
lao động do kéo dài ngày lao động làm cho giá trị thặng dư tăng lên và hầu như không
làm cho chi phí sản xuất biến đổi, đó là một nhân tố nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Chính
vì vậy, việc nâng cao mức độ bóc lột lao động là nguyên nhân ngăn cản sự giảm xuống
của tỷ suất lợi nhuận, trước hết khi nó là kết quả của việc kéo dài ngày lao động.
Thứ hai: Những nhân tố của tư bản bất biến trở nên rẻ hơn
Theo C.Mác, những ví dụ đã trình bày trong phần thứ nhất của Quyển III về
những nguyên nhân làm cho tỷ suất lợi nhuận tăng lên, trong khi tỷ suất giá trị thặng dư
không đổi, hay tăng lên độc lập với tỷ suất giá trị thặng dư...đã cho thấy, chính sự phát
triển đã làm cho khối lượng tư bản bất biến tăng lên so với tư bản khả biến , đồng thời
cũng làm cho giá trị của các yếu tố của tư bản đó hạ xuống do năng suất lao động tăng
lên và do đó khiến cho sự tăng lên về mặt giá trị của nó không cùng tỷ lệ với sự tăng lên
về mặt vật chất. Và chính điều đó là nguyên nhân thường xuyên ngăn cản sự hạ thấp tỷ
suất lợi nhuận. Và ở đây chúng ta lại thấy rằng những nguyên nhân để ra xu hướng hạ
thấp tỷ suất lợi nhuận lại cũng là những nguyên nhân làm chậm sự thực hiện xu hướng
ấy.
Thứ ba: Nhân khẩu thừa tương đối
Nhân khẩu thừa tương đối đã được C.Mác nghiên cứu trong quyển I. Ở đây
nghiên cứu nhân khẩu thừa tương đối tác động ngược chiều với tác động tích lũy. Tích



lũy làm giảm tỷ suất lợi nhuận còn nhân khẩu thừa tương đối lại làm tăng tỷ suất lợi
nhuận.
Nhân khẩu thừa tương đối là một nguồn dự trữ sức lao động để cung cấp cho các
ngành công nghiệp chậm tiến nhất. Nhưng trong chủ nghĩa tư bản việc nâng cao cấu tạo
kĩ thuật và nâng cao tương ứng cấu tạo hữu cơ của tư bản có tác dụng sa thải và tạo ra
số công nhân thừa ở một số ngành buộc họ phải di chuyển sang các ngành mà lao động
sống còn chiếm ưu thế. Ở đây, trở ngại chủ yếu là sự thừa thãi sức lao động rẻ mạt.
C.Mác đã miêu tả điều đó bằng sự sản xuất xa xỉ phẩm, nơi mà lao động sống chiếm ưu
thế trong thời gian dài. Nơi các ngành sản xuất lạc hậu về kĩ thuật có mức bóc lột quá
cao và khối lượng lợi nhuận thu được khá lớn nhưng do sự bình quân hóa tỷ suất lợi
nhuận mà số giá trị thặng dư trội lên ở các ngành chậm tiến được chuyển sang các
ngành phát triển hơn và tỷ suất lợi nhuận chung được nâng lên.
Thứ tư: Ngoại thương
Phân tích nhân tố này C.Mác cho rằng, thứ nhất ngoại thương cung cấp những
yếu tố tư bản bất biến rẻ hơn như nguyên liệu, vật liệu phụ…Thứ hai, ngoại thương
cung cấp vật liệu tiêu dùng rẻ hơn, và do đó giảm được giá trị sức lao động, giảm được
thời gian lao động tất yếu và tăng được tỷ suất giá trị thặng dư.
Do sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản mà các nước tư bản phát triển
hơn đã nhờ ngoại thương để thu được những lợi nhuận siêu ngạch trên thị trường thế
giới. Người thu được lợi nhuận siêu ngạch, trước hết là những chủ xí nghiệp sản xuất
hàng hoá cho thị trường bên ngoài. Nhưng do có cạnh tranh (giả sử không có độc
quyền) nên lợi nhuận siêu ngạch tham gia vào việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận
chung, làm nâng cao tỷ suất lợi nhuận chung lên. Do vậy, lợi nhuận siêu ngạch là một
nhân tố ngăn cản sự giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận.
Thứ năm: Tư bản cổ phần tăng lên
Sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển thì bộ phận tư bản được dùng làm tư bản
sinh lợi tức càng phát triển. Bộ phận tư bản này được đem đầu tư vào các xí nghiệp sản xuất
lớn dưới hình thức tư bản cổ phần và chỉ được hưởng lợi tức cổ phần. Các tư bản cổ phần

này không tham gia vào việc bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận chung, vì lợi tức cổ phần thấp
hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Song nó lại góp phần bù lại sự giảm sút của tỷ suất lợi
nhuận.


Câu 11: Chi phí sản xuất và lợi nhuận
Sự chuyển hóa của giá trị thành chi phí sản xuất và giá trị thặng dư thành lợi
nhuận, tỷ suất giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận.
Như đã giới thiệu trong chuyên đề 1, trong quyển III “Tư bản gồm có 7 phần, thì
phần thứ nhất, nghiên cứu bằng cách nào và do đâu mà cái bản chất là giá trị thặng dư
và tỷ suất giá trị thặng dư biểu hiện ra bên ngoài dưới hình thái lợi nhuận và tỷ suất lợi
nhuận.
Nhìn bề ngoài hao phí lao động thành chi phí sản xuất, và giá trị thặng dư được coi
là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, vì nó được thu về từ lưu thông dưới dạng tăng
thêm ngoài chi phí sản xuất.
* Sự chuyển hóa của giá trị thành chi phí sản xuất và giá trị thặng dư thành lợi
nhuận
Theo học thuyết giá trị lao động của Mác thì chi phí lao động xã hội thực tế để sản
xuất và tạo ra giá trị của hàng hoá bao gồm chi phí lao động sống và chi phí lao động quá
khứ. Và trong giá trị của bất cứ hàng hóa nào sản xuất theo kiểu tư bản chủ nghĩa cũng
đều biểu thị bằng công thức: W = c + v + m”17.
Nếu trong giá trị ấy, chúng ta đem trừ giá trị thặng dư đi, thì sẽ chỉ còn lại có cái
ngang giá, hay cái giá trị nằm trong hàng hóa bù lại giá trị tư bản c + v được chi ra dưới
hình thái các yếu tố sản xuất.
Nhưng đối với nhà tư bản, chi phí mà họ bỏ ra để sản xuất hàng hoá được do bằng
chi phí về tư bản, tức là lượng tư bản nhất định bỏ ra để mua tư liệu sản xuất (c) và sức
lao động (v). Chi phí đó gọi là chi phí sản xuất tư bản và ký hiệu là: k (Kost), k = c +
v”18. Theo đó, công thức W = c + v + m được chuyển thành W = k + m. Hay giá trị hàng
hóa = chi phí sản xuất + giá trị thặng dư.
Như vậy, chi phí mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hóa được đo bằng chi phí về

tư bản; còn chi phí thực tế của nó thì được đo bằng chi phí về lao động. Vì vậy, về mặt
lượng, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa của hàng hóa khác với giá trị của nó hay là khác
với chi phí sản xuất thực tế của nó; chi phí sản xuất ấy thấp hơn giá trị của hàng hóa, vì
rằng nếu W = k + m thì k = W - m.
Về mặt nguồn gốc của nó mà nói thì giá trị thặng dư chỉ là một sự tăng thêm của tư
17
18

C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 25, phần I, Nxb CTQG, H 1994, tr48.
Sđd, tr 51.


bản khả biến, nhưng khi quá trình sản xuất kết thúc, giá trị thặng dư lại hình thành cái
khoản tăng thêm của giá trị c + v, tức là của toàn bộ tư bản đã chi phí. Cho nên, giá trị
thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, mang hình thái chuyển
hóa là lợi nhuận.
Nếu chúng ta gọi lợi nhuận là p thì công thức: W = c + v + m = k + m chuyển thành
W = k + p, hay giá trị hàng hóa bằng chi phí sản xuất + lợi nhuận.
Vậy, cứ thoạt nhìn vào công thức này ta thấy rằng lợi nhuận và giá trị thặng dư cũng
là một: Lợi nhuận chẳng qua là hình thái thần bí hóa của giá trị thặng dư, hình thái mà
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tất nhiên phải đẻ ra.
Bởi vì: Trong sự hình thành chi phí sản xuất như nó thể hiện ra ở bên ngoài, người ta
không thể nào biết được sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến, cho nên
nguồn gốc của sự thay đổi giá trị được hiểu như là kết quả của toàn bộ quá trình sản xuất và
của toàn bộ tư bản, chứ không phải chỉ của riêng tư bản khả biến19.
Chúng ta thấy rằng, chi phí sản xuất của hàng hóa thấp hơn giá trị của nó. Vì giá trị
hàng hóa W = k + m, nên k = W - m. Nếu như m = 0 thì chi phí sản xuất k = W, trường hợp
này không bao giờ xảy ra trên cơ sở sản xuất tư bản chủ nghĩa, mặc dù trong những tình hình
đặc biệt nào đó của thị trường, giá bán hàng hóa đều có thể hạ xuống bằng chi phí sản xuất của
chúng và thậm chí còn thấp hơn.

Như vậy, nếu hàng hóa được bán theo giá trị của nó, thì người ta đã thực hiện được
một lợi nhuận, lợi nhuận đó bằng phần giá trị dôi ra ngoài chi phí sản xuất của hàng hóa,
tức là bằng toàn bộ giá trị thặng dư chứa đựng trong giá trị của hàng hóa. Nhưng nhà tư bản
có thể bán hàng hóa dưới giá trị của nó mà vẫn có lợi nhuận. Chừng nào giá bán của hàng
hóa còn cao hơn chi phí sản xuất của nó dù giá bán thấp hơn giá trị của nó thì bao giờ
cũng vẫn thực hiện được một bộ phận giá trị thặng dư chứa đựng trong nó.
Và trong môi trường cạnh tranh tư bản chủ nghĩa thì p không phải lúc nào cũng đúng
bằng m, thậm chí hiện tượng p = m chỉ là rất ngẫu nhiên và hiếm có, về cơ bản là p không
đồng nhất với m
Câu 12. Đánh giá của Mác về học thuyết TB cố định và TB lưu động trong
trường phái trọng nông và AdamSit (Q1) (164-166)
Những học thuyết về tư bản cố định và tư bản lưu động của phái trọng nông và
A.Xmít, Đ.Ricácđô
19

Sđd, tr.74.


×