Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi khám phá khoa học ở trường mầm non nga yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.78 MB, 32 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 3 - 4 TUỔI KHÁM PHÁ
MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI QUA HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ
KHOA HỌC TẠI TRƯỜNG MẦM NON NGA YÊN

Người thực hiện: Phan Thị Linh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Nga Yên
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA, NĂM 2018

0


MỤC LỤC
Tên đề mục
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
2.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1. Tạo môi trường hoạt động phong phú hấp dẫn cho trẻ



Trang
1
2
2
2
2
2
2
3
4
4

2.3.2. Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu đối với từng hoạt
động học cụ thể.

6

2.3.3. Tổ chức khám phá khoa học về môi trường xã hội thông qua
hoạt động học

8

2.3.4. Tổ chức cho trẻ kham phám khoa học ở mọi lúc, mọi nơi.

11

2.3.5. Biện pháp đàm thoại giữa cô và các bé giúp trẻ khám phá môi
trường xã hội một cách toàn diện hơn


13

2.3.6. Sử dụng công nghệ thông tin trong hoạt động khám phá khoa
học về môi trường xã hội.

14

2.3.7. Tuyên truyền và phối hợp với các bậc phụ huynh
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
*. Hiệu quả trên trẻ
*. Hiệu quả cho bản thân
*. Đối với đồng nghiệp, nhà trường
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2 .Kiến nghị
* Tài liệu tham khảo

16
17
17
17
17
18
18
18
19

1



1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Giáo viên mầm non những người thầy đầu tiên trong hệ thống giáo dục,
chiếm vị trí quan trọng trong sự nghiệp trồng người. Bác Hồ kính yêu đã dạy
rằng “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người” vì
lợi ích của cả dân tộc, của cả quốc gia, vì trẻ em là hạnh phúc của mọi gia đình,
của mọi nhà việc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ không phải chỉ là trách nhiệm
của mọi người mà của toàn xă hội [1]. Vậy thì mỗi giáo viên mầm non chúng ta
cần chung tay gieo trồng chăm sóc và bảo vệ trẻ như thế nào?.Trẻ em như một
tờ giấy trắng làm quen với môi trường xung quanh chính là bắt đầu thích ứng
đến lĩnh hội và cải tạo môi trường. ca dao xưa có câu “Dạy con từ thủa còn thơ”
đã đúc rút ra từ kinh nghiệm “Dạy con rèn người” của ông cha ta. Mỗi chúng ta
đều được lớn lên từ những môi trường đầu tiên. Đó là những tiếng ru ngọt ngào
của bà, của mẹ. Những ngọn đèn cháy lung linh trong đêm, những ngôi sao nhỏ
lấp lánh trên cao. Môi trường âm thanh và hình ảnh xung quanh đó đều mang lại
nguồn biểu tượng vô cùng phong phú và theo trẻ cho đến hết cuộc đời, đã gợi
lên lòng yêu quê hương, đất nước ở mỗi con người. Khám phá môi trường xung
quanh trẻ có vốn hiểu biết những gì quanh mình và sẽ hình thành nên nhưng thói
quen tốt, xấu của trẻ. Đất nước ta ngày một phát triển do vậy con người cần phải
năng động sáng tạo để phù hợp với sự phát triển của nó. Muốn được như vậy trẻ
Mầm Non cần được tiếp xúc và khám phá khoa học quanh mình. Chính vì thế
nhiệm vụ của giáo viên mầm non là phải quan tâm trang bị cho trẻ những tri
thức khoa học và nhân cách toàn diện cho trẻ để theo kịp thời đại.Trong công tác
giáo dục trẻ mầm non thì việc cho trẻ khám phá khoa học là không thể thiếu
được, vì nó có tác dụng về mọi mặt đối với trẻ như: ngôn ngữ, đạo đức trí tuệ….
Khám phá khoa học là phương tiện để giao tiếp và làm quen với môi trường
xung quanh, môi trường xã hội để tìm hiểu, khám phá, giao lưu, bầy tỏ nguyện
vọng của mình, và đồng thời là công cụ của tư duy. Ngoài ra khám phá khoa học
về môi trường xung quanh sẽ phát trẻ ở trẻ kỹ năng nhận thức, kỹ năng xã hội
đồng thời giáo dục ứng xử và thái độ khoa học, trẻ biết cách học, cách nghĩ cách

khám phá môi trường xung quanh. [2]
Lứa tuổi mầm non là lứa tuổi thích khám phá tò mò về những gì, tại sao
đang sảy ra xung quanh trẻ với những câu hỏi liên tục là một phần của sự phát
triển vốn từ. Phải chăng trẻ nhỏ đang khao khát tìm hiểu về môi trường xung
quanh chúng ta và ham muốn được giao tiếp? Câu hỏi: tại sao? Thế nào? Tại sao
như vậy? thường được kết nối lần lượt để trẻ nắm bắt thông tin và những thông
tin này có thể thay đổi trong cách trẻ tìm hiểu thế giới xung quanh.
Khám phá khoa học về khám phá môi trường xã hội là hoạt động trải
nghiệm thực tế về cuôc sống đời thường xung quanh trẻ, giúp trẻ phát triển các
phẩm chất trí tuệ như tính ham hiểu biết, khả năng ghi nhớ có chủ định, tính tích
cực nhận thức làm nền cho sự phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ. Không
những thế khám phá xã còn hội còn góp phần phát triển ở trẻ tình cảm, đạo đức,
thẩm mỹ, khả năng tích lũy tri thức và kinh nghiệm cuộc sống, làm cơ sở lĩnh
hội những nội dung giáo dục của các hoạt động vui chơi, học tập và các hoạt
động khác.
1


Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động khám xã hội qua hoạt động
khám phá khoa học đối với trẻ mầm non như vậy, là một giáo viên đang phụ
trách trẻ 3 - 4 tuổi tôi luôn luôn trăn trở để tìm ra phương pháp như thế nào để
giúp trẻ ham thích môn học và tiếp nhận một cách nhẹ nhàng hơn. Chính vì vậy
tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 3 - 4 tuổi khám phá môi trường xã
hội qua hoạt động Khám phá khoa học” để nghiên cứu và tìm ra biện pháp
dạy học có hiệu quả cao.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Tôi nghiên cứu đề tài này để tìm ra một số biện pháp mới giúp trẻ làm
quen với môi trường xung nhằm thỏa mãn nhu cầu khám phá cái mới, cái lạ ở
trẻ.
- Đề tài thành công trẻ sẽ khám phá khoa học một cách hứng thú có tác

dụng giáo dục về mọi mặt: Ngôn ngữ, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ thể lực...
- Qua đề tài nghiên cứu giúp giáo viên có những định hướng phù hợp trong
công tác chăm sóc cho trẻ mầm non ở 3 - 4 tuổi. Sau khi vận dụng đề tài sẽ góp
phần đắc lực cho quá trình hình thành nhân cách cho trẻ.
1.3/ Đối tượng nghiên cứu
- Tôi chọn đối tượng nghiên cứu là trẻ Mầm Non 3 - 4 lớp tuổi Hoa Sen
trường Mầm Non Nga yên.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trước hết bản thân phải nhận định được tình hình chung của đối tượng
nghiên cứu, sau đó ứng dụng tìm ra các phương pháp như:
- Khảo sát và xây dựng kế hoạch nghiên cứu
- Đọc, phân tích, tổng hợp tài liệu tham khảo để nghiên cứu.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Môi trường xã hội bao gồm con người và xã hội loài người. Môi trường
xã hội do chính con người tạo ra. Trong môi trường xã hội con người được xã
hội hóa. Họ hoạt động và cải tạo xã hội phù hợp với nhu cầu của chính mình.
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học.
Mác và Ăngghen dựa trên thành tựu mới về sinh học của thế kỷ XIX và
đứng trên quan điểm triết học duy vật biện chứng đã nhìn nhận con người trong
tiến trình phát triển tiến hóa của loài và quá trình phát triển của lịch sử xã hội.
Theo hai ông người vừa là con vừa là người.
Trong tác phẩm nổi tiếng của Lutvic Phơ Băn và sự cáo chung của triết học
cổ điển Đức Mác và Awngghen đã đưa ra luận điểm nổi tiếng “Bản chất con
người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của mỗi cá nhân riêng lẻ.
Trong tính hiện thực của nó con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” [3].
Các mối quan hệ ở đây là giữa người vứi người, quan hệ kinh tế xã hội giành
cho lịch sử cụ thể xung quanh con người tạo nên. Con người tiếp nhận phản ứng
một cách có ý thức với những tác động của môi trường mà tạo nên cái riêng
trong mỗi con người.

2


Trẻ em cũng giống như con người, là sản phẩm của tự nhiên và sự phát
triển xã hội. Nhưng khác với người lớn trẻ là sản phẩm chưa hoàn thiện. Theo
PGS-TS Nguyễn Ánh Tuyết “Trẻ em là một thực thể đang phát triển để trở thành
một thành viên của xã hội một nhân cách” [4]. Trẻ em chỉ thành người trong quá
trình xã hội hóa.
Tuổi thơ là một giai đoạn rất đặc biệt của con người. Nơi bắt đầu của những
câu hỏi, tò mò và háo hức về thế giới xung quanh. Các nghiên cứu về thần kinh
và tâm lý học đều cho thấy bộ não của trẻ ở giai đoạn trước 16 tuổi đạt hầu hết
phát triển quan trọng và gần như định hình cho những năng lực trí tuệ về sau. Đó
cũng là thời gian rất phù hợp để trẻ có thể hoà mình với những trải nghiệm khám
phá khoa học thông qua trải nghiệm thế giới xung quanh trực quan sinh động.
Trải nghiệm khám phá khoa học đối với trẻ em có thể bắt đầu ngay từ khoảng 3
tuổi cho đến hết chương trình học phổ thông. Danh sách các hoạt động liên quan
đến khám phá khoa học thì dường như không có giới hạn, có thể diễn ra tại
trường học, tại gia đình, hay ngay bên ngoài xã hội. Có thể kể ra như những hoạt
động liên quan đến sinh học, hoá học, vật lý học, khoa học về môi trường, về vũ
trụ, địa chất… Từ những trò chơi đơn giản, như làm dùng kính lúp để tạo ra lửa,
hay những chuyến đi dã ngoại làm bộ sưu tập các loại lá cây và côn trùng, tất cả
đều tạo nên cho trẻ những trải nghiệm khám phá khoa học bổ ích. [5]
Chính vì vậy độ tuổi mầm non trẻ có tính tò mò thích khám phá, đặc điểm
ở độ tuổi 3- 4 tuổi trẻ bắt đầu biết ý thức về bản thân mình, và phân biệt được
mình với thế giới xung quanh và biết tìm hiểu thế giới xung quanh, nếu như
không được bồi dưỡng thêm trẻ sẻ bị hạn chế và xa lánh thế giới xung quanh
mình
Cho trẻ khám phá khoa học về môi trường xã hội là một điều hết sức cần
thiết. Nhưng không phải lúc nào trẻ cũng hứng thú và thích tham gia vào hoạt
động học, nếu giáo viên không tổ chức hoạt động học bằng nhiều hình thức thì

trẻ sẽ hoạt động trở nên đơn điệu và nhàm chán làm cho trẻ không phát huy
được khả năng tư duy sáng tạo của mình. Điều đó cho chúng ta thấy rằng không
phải cứ cho trẻ học thật nhiều, cung cấp kiến thức thật nhiều cho trẻ là được mà
phải dạy trẻ cách tư duy để khơi gợi tính tò mò ham hiểu biết của trẻ để làm nền
tảng cho sự phát triển trí tuệ sau này.
Chính vì vậy việc tổ chức cho trẻ khám phá khoa học về môi trường xã hội
là phương tiện không thể thiếu nhằm giải quyết mục đích phát triển toàn diện
cho trẻ 3 - 4 tuổi ở Trường mầm non.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
*Thuận lợi
- Cơ sở vật chất: Cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho các hoạt động
tương đối đầy đủ. Không gian trường, lớp rộng rãi, thuận tiện cho trẻ tham gia
trải nghiêm, khám phá. Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu nhà trường
cũng như đồng nghiệp luôn tạo điều kiện cho tôi xây dựng các hoạt động khám
phá về môi trường xung quanh
- Đối với bản thân: Bản thân là một giáo viên có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ,luôn yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình trong công việc,luôn năng cao vai
trò tự học tập, nghiên cưu, tìm tòi những phương pháp đổi mới trong quá trình
3


giảng dạy, chịu khó học hỏi, sách báo và ứng dụng công nghệ thông tin. Bản
thân tự trang bị cho mình phương tiện dạy học tốt: Máy tính xách tay, 3G
- Đối với học sinh: Các cháu cùng một độ tuổi nên nhận thức đồng đề.
- Về phía phụ huynh: Phụ huynh quan tâm đến bậc học mầm non nên
thuận tiên trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương giúp cho
việc sử dụng đồ dùng dạy học đạt hiệu quả cao.
* Khó khăn:
- Về cơ sở vật chất: Cơ sở vật chất của trường còn thiếu, đồ dùng đồ phục
vụ cho hoạt động học còn ít về số lượng và chưa phong phú về chủng loại. Các

thiết bị dạy học, giáo cụ trực quan phục vụ cho quá trình khám phá chưa phong
phú,hấp dẫn về chủng loại, màu sắc, chưa đáp ứng được nhu cầu của trẻ.
- Đối với bản thân: Bản thân chưa mạnh dạn xây dựng các hoạt động
khám phá vào kế hoạch hoặc nếu có xây dựng thì còn mang tính hình thức,
khuôn khổ, gò bó.
- Đối với học sinh: Trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều, một số trẻ
còn nhút nhát chưa tự tin giao tiếp với người lạ và chưa hứng thú khi tham gia
vào hoạt động khám phá trải nghiệm. Đa số trẻ chưa có nề nếp học tập vì chưa
qua học các nhóm trẻ nên khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động khám phá
về môi trường xung quanh.
- Về phía phụ huynh: Đa số phụ huynh đều làm nông nghiệp nên điều kiện
kinh tế còn gặp nhiều khó khăn
* Kết quả của thực trạng trên.
Năm học 2017 - 2018 tôi được phân công chủ nhiệm lớp mẫu giáo 3-4 tuổi
tôi nhận thấy hoạt động khám phá về môi trường xã hội của trẻ còn hạn chế trẻ
chưa thực sự tích cực tham gia hoạt động cùng cô. Vì vậy ngay từ đầu năm tôi
đã tiến hành khảo sát trẻ ở mọi lúc mọi nơi và có kết quả sau:
(Kèm theo các bảng khảo sát đầu năm ở phụ lục 1)
Qua khảo sát chất lượng trẻ với kết quả trên, trong quá trinh chăm sóc giáo
dục tôi mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi khám phá môi
trường xã hội qua hoạt động Khám phá khoa học” được tốt hơn.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Tạo môi trường hoạt động phong phú hấp dẫn cho trẻ
Quá trình khám phá khoa học có đạt đạt hiệu quả hay không phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, trong đó môi trường xung quanh trẻ giữ một vị trí quan trọng. Nó
chứa đựng các phương tiện cần thiết để tổ chức cho trẻ khám phá. Trẻ mầm non
phần lớn sống trong gia đình và trường lớp mẫu giáo vì vậy việc taọ môi trường
cho trẻ thực hiện các hoạt động khám phá là vô cùng quan trọng và cần thiết.
Đồ dùng, trực quan, đồ chơi phục vụ hoạt động khám phá khoa học như:
Bàn, ghế, bảng, tranh, mô hình, các từ gắn với mỗi hình ảnh, vật mẫu... Cần phải

đầy đủ cho cô và trẻ cùng hoạt động .
Đồ dùng của trẻ cũng phải đẹp, hấp dẫn, phong phú sinh động nhằm kích
thích hứng thú, tò mò lòng ham hiểu biết của trẻ, tôi thường sử dụng đồ thật, vật

4


thật hoặc hình ảnh động cho tiết học sinh động và có sự sáng tạo và đảm bảo an
toàn cho trẻ.
Xác định được môi trường rất quan trọng trong quá trình hoạt động của trẻ
ngay từ đầu năm học tôi đã chú trọng trang trí môi trường trong và ngoài lớp để
gây hứng thú cho trẻ.
Để khích thích tính tò mò của trẻ tôi căn cứ vào từng chủ đề để xây dựng
góc “Khám phá khoa học - thiên nhiên” để trẻ tham gia vào hoạt động trải
nghiệm môi trường xã hội.
Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề “Nghề nghiệp” nhánh “Một số nghề quen
thuộc” tôi chuẩn bị bộ tranh sưu tập về các nghề, các loại dụng cụ của nghề y
như thuốc, ống lắng, những bộ quấn áo bác sĩ, hoặc mô hình chăn nuôi của các
bác nông dân, những chiếc váy đẹp là sản phẩm của nghề dệt may… để trẻ được
quan sát cụ thể.
Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề “Bản thân” tôi đã chuẩn bị cho trẻ các hình
ảnh như: mắt, mũi, tai miệng và cả những bức tranh có khuôn mặt vui, buồn,
giận giữ, …để trẻ khám phá và nhận xét.
Ví dụ: Khi khám phá môi trường xã hội ở chủ đề “Quê hương đất nước
Bác Hồ” chủ đề nhánh “Bác Hồ kính yêu” Với đề tài “Quan sát tranh ảnh về Bác
Hồ đối với các cháu thiếu thiếu nhi” tôi cho trẻ xem một đoạn tư liệu kể về Bác
và các cháu thiếu nhi như hình ảnh (bác tặng quà cho các cháu thiếu nhi, cùng
vui chơi với các cháu, ôm hôn các cháu) để trẻ quan sát và trò chuyện. Tôi thấy
trẻ tỏ ra rất thích thú và trẻ yêu quý Bác giống người ông của mình.
(Hình ảnh minh hoạ kèm theo phụ lục 2)

Ngoài ra tôi đưa ra các nguyên vật liệu để trẻ cùng cô làm mô hình để phục
vụ vào hoạt động học như.
Ví dụ: Ở chủ đề “Quê hương đất nước - Bác Hồ” tôi cùng trẻ làm mô hình
(Chùa một cột, Văn miếu quốc tử giám) để trẻ khắc sâu thêm về cảnh đẹp của
Quê Hương đất nước.
*Xây dựng góc mở cho trẻ hoạt động.
Để khắc sâu hơn trong trí nhớ của trẻ tôi cho trẻ hoạt động trên góc mở với
tên góc “Bé khám phá khoa học - thiên nhiên”.
Ví dụ: Khi khám phá môi trường xã hội ở chủ đề “Giao thông” một trẻ lên
lấy hình ảnh chiếc xe đạp làm đề tài nghiên cứu bàn luận gắn vào cột “Bé Thích
Khám phá?” và khi khám phá ra đặc điểm và biết được nó là phương tiện giao
đường nào thì trẻ lấy lô tô tương ứng gắn vào cột “Bé khám phá được gì”.
Khi thực hiện khám phá chủ đề “Nghề nghiệp” một trẻ trong nhóm chơi
cũng thực tương tự ,trẻ lấy chiếc áo gắn vào ô “Bé thích khám phá gì” và lấy
bức tranh có hình ảnh cô dệt may gắn lên ô “Bé khám phá được gì” Như vậy từ
thực hiện ở góc mở đã giúp cho trẻ rèn luyện kỹ năng quan sát, tìm tòi, tự khám
phá, và khắc sâu trong trí nhớ của trẻ về từng công việc trong xã hội và qua đó
trẻ biết được đặc điểm, ý nghĩa, ích lợi của các nghề đối với cuộc sống con
người.
(Hình ảnh minh hoạ kèm theo phụ lục 2)

5


Ở lứa tuổi này trẻ luôn tò mò, quan sát và bắt đầu đưa ra suy nghĩ của mình
bằng những câu hỏi tại sao như vậy? Để làm gì? nên tôi quyêt tâm khơi gợi trí tò
mò thích phán đoán của trẻ bằng cách vẽ các bức tranh treo bên ngoài lớp theo
các chủ đề. Thông qua các bức tranh để khơi gợi nhân cách, trí tuệ đạo đức trong
con người trẻ.
Ví dụ:

+ Ở chủ đề “Gia Đình” tôi treo những bức tranh cả nhà cùng nhau nhổ củ
cải trong câu chuyện “Nhổ củ cải” để trẻ thấy được sức mạnh gắn kết của những
thành viên trong gia đình và từ đó biết yêu thương quý mến những người thân
trong gia đình mình hơn.
Ở chủ đề “Nghề nghiệp” tôi treo bức tranh về công việc của các nghề trong
xã hội như (Thợ cắt tóc đang cắt tóc, chú lái xe đang lái xe chở hàng, bác nông
dân đang làm việc…) để trẻ hiểu thêm được công việc của các nghề trong xã hội
Ngoài ra tôi còn vẽ những bức tranh “Trẻ nhặt rác bỏ vào thùng, trẻ rửa tay
dưới vòi nước sạch,…” Qua những bức tranh trẻ biết mình cần bảo vệ môi
trường, nhặt rác bỏ vào nơi quy định và biết vệ sinh cá nhân hàng ngày cho sạch
sẻ.
Kết quả: Khi thực hiện giải pháp này tôi thấy trẻ thích thú tham gia vào
hoạt động, trẻ không còn thấy nhàm chán
2.3.2. Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu đối với từng hoạt
động học cụ thể.
Đồ chơi được ví như chiếc chìa khóa giúp trẻ mở cánh cửa thế giới đầy thú
vị. Thông qua những món đồ chơi phù hợp với từng giai đoạn phát triển, trẻ có
thể học hỏi được rất nhiều điều tuyệt vời khi khám phá thế giới và cuộc sống
xung quanh mình. Đồ dùng đồ chơi có tác dụng lớn lao đến việc hình thành và
phát triển nhân cách trẻ. Chính những đồ chơi này giúp trẻ được thao tác, được
hoạt động, trải nghiệm, được thể hiện những nhu cầu cá nhân, được phát triển
cân đối hài hòa, từ đó giúp trẻ phát triển toàn diện.
Trẻ nhỏ cần rất nhiều cơ hội để học và khám phá thông qua việc chúng chơi
hàng ngày. Chơi là cách học phù hợp nhất khi chúng ta muốn trẻ tìm tòi khám
phá cho bản thân chúng. Qua chơi trẻ được phát triển hiểu biết, kỹ năng trong rất
nhiều tình huống khác nhau. Đồ chơi là yếu tố thúc đẩy trẻ em thực hiện nhiều
hành động và thao tác khác nhau có tác dụng rèn luyện thể lực cho trẻ.
Đối với trẻ em, đồ chơi mầm non cũng giống như cuốc cày đối với người
nông dân, máy móc đối với người công nhân, là phòng thí nghiệm đối với nhà
khoa học.

Đồ chơi hết sức cần thiết đối với trẻ, nó có tác dụng và ý nghĩa thật to lớn
và sâu sắc đối với trẻ độ tuổi mầm non, vì bất kể một trẻ em nào đều có nhu cầu
chơi và rất yêu quí đồ chơi, chúng sống và hành động cùng với đồ chơi. Đồ chơi
mầm non giúp trẻ em tìm hiểu, khám phá thế giới xung quanh, nó giúp các em
làm quen với những đặc điểm, tính chất của nhiều đồ vật, biết được công dụng
của chúng trong sinh hoạt và trong lao động của con người. Đồ chơi còn là
phương tiện giúp trẻ phát hiện ra những mối quan hệ của người với người trong
xã hội dần dần biết gia nhập vào các mối quan hệ đó. Hoạt động với đồ chơi vừa
6


làm thỏa mãn nhu cầu vui chơi, vừa làm cho đôi bàn tay khéo léo, đôi chân dẻo
dai cơ thể mềm mại, hình dáng phát triển cân đối hài hòa, giúp trẻ có thể tham
gia tốt vào cuộc sống xã hội sau này. Quá trình cho trẻ khám phá khoa học có
đạt hiệu quả cao hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó môi trường
xung quanh trẻ giữ một vị trí quan trọng, môi trường xung quanh chứa đựng các
phương tiện cần thiết để tổ chức cho trẻ khám phá như đồ dùng đồ chơi mua
sắm, đồ dùng đồ chơi tự tạo, mô hình vật thật gần gũi xung quanh trẻ.
Việc sử dụng đồ dùng, đồ chơi đối với từng hoạt động học đóng vai trò rất
quan trọng, giúp hoạt động học đó có kết quả cao và hiệu quả nhất. Nếu đồ dùng
sơ sài, cô giáo dạy chay thì trẻ sẽ nhàm chán, ít tập trung. Nhận rõ tầm quan
trọng của đồ dùng, đồ chơi với hoạt động học “Khám phá khoa học” nhất là
khám pha môi trường xã hội, trên cơ sở những đồ dùng đồ chơi sẵn có từ những
năm trước, tôi cải biến, tu sửa lại nhằm thu hút trẻ hơn. Bên cạnh đó để thu hút
trẻ hơn thì đồ dùng đồ chơi cần phải đẹp, mới, an toàn, hợp vệ sinh và đảm bảo
tính khoa học… Nguồn nguyên liệu một phần tôi được phụ huynh ủng hộ như:
Lịch treo tường, sách báo, tạp chí,bìa cát tông, vỏ lon, các đồ dùng đã hỏng như
máy sấy tóc, ống khám bệnh của bác sĩ, ống tiêm… một phần tôi tự tìm kiếm từ
bạn bè xung quanh tranh thủ những lúc rảnh rỗi vào giờ nghỉ trưa, vào những
ngày nghỉ cuối tuần, chúng tôi làm đồ dùng đồ chơi cho tiết học sắp tới.

Hình ảnh minh họa kèm theo Phụ lục 3a
Ví dụ:
+ Ở chủ đề “Giao thông” nhằm củng cố kiến thức giáo dục trẻ “Một số luật
lệ giao thông phổ biến” tôi làm đồ dùng đèn xanh, đỏ, vàng, biển báo cấm đi
ngược chiều, mô hình các chú cảnh sát giao thông, mô hình các phương tiện
giao thông ,cho trẻ xem băng hình và tham quan ngã tư đường phố để giáo dục
trẻ một số luật lệ giao thông phổ biến.
Hình ảnh minh họa kèm theo Phụ lục 3b:
+ Ở chủ đề “Bản thân” nhánh “Tôi cần gì lớn lên và khỏe mạnh” tôi làm
và sưu tầm những đồ dùng cung cấp chất dinh dưỡng cho trẻ như (tôm, cua cá,
rau, thịt, đậu, lạc… và bánh xà phòng làm bằng giấy để cung cấp kiến thức cho
trẻ để trẻ biết được ngoài ăn đủ các nhóm chất còn phải giữ gìn vệ sinh cá nhân
thì cơ thể mới khỏe mạnh được.
+ Ở chủ đề “Gia Đình” nhánh “Nhu cầu của gia đình” tôi làm những đồ
dùng phụ vụ cho gia đình bằng các nguyên vật liệu phế thải gồm lọ nước rửa
bát, vỏ chai đựng nước khoáng để tạo nên những cái bát, bộ ấm chén, cốc uống
nước, Từ những chai đựng nước cô ca tôi đã tạo nên những chiếc máy xay sinh
tố để trẻ hoạt động nhằm cung cấp kiên thức cho trẻ. Qua đây tôi giáo dục trẻ
biết giữ gìn các đồ dùng trong gia đình.
Ở chủ đề “Nghề nghiệp” từ những tờ bìa cát tông và giấy màu tôi và trẻ đã
làm ra những dụng cụ phục vụ các nghề trong xã hội như nghề làm ruộng, nghề
thợ xây. Gồm các dụng cụ cuốc, xẻng, bay xây, bàn xoa, lăn sơn, dao, kéo...để
trẻ quan sát trò chuyện trong hoạt động học cụ thể.
Hình ảnh minh họa kèm theo Phụ lục 3c

7


+ Còn ở chủ đề “Trường mầm non” lồng nghép Vui tết trung thu tôi cho trẻ
trò chuyện về ngày tết trung thu bằng cách tôi chuẩn bị phông treo có gắn hình

ảnh những ngôi sao, ông trăng, các bạn múa lân, ở phía dưới là mân hoa quả, và
đặc biệt cô giáo đóng vai chị hằng và cô phụ đóng vai chú cuội để cùng trẻ trò
chuyện về ngày hội trung thu, trẻ hoạt động, tôi thấy trẻ hào hứng, say sưa như
đang được hòa mình vào lễ hội vậy. Thông qua giờ học trẻ biết được các phong
tục tập quán, các lễ hội truyền thống của quê hương đất nước và biết giữ gìn các
giá trị trường tồn của nó.
Kết quả: Tôi thấy khi sử dụng đồ dùng đồ chơi, nguyên vật liệu phù hợp
vào hoạt động học trẻ lớp tôi hứng thú tham gia hoạt động hơn. trẻ hiểu biết
nhiều hơn, quan sát tốt, tìm rất nhanh các vật mẫu cô đề ra, trẻ so sánh và phân
nhóm cũng rất rõ ràng, rành mạch, ngôn ngữ phát triển.
2.3.3. Tổ chức khám phá khoa học về môi trường xã hội thông qua
hoạt động học
Bản thân sự vật, hiện tượng xung quanh luôn gây hứng thú cho trẻ, làm trẻ
có mong muốn tìm hiểu, khám phá. Nếu quá trình này diễn ra dưới sự điều khiển
của giáo viên thì hứng thú và tính ham hiểu biết của trẻ sẽ tăng lên.Việc tiếp xúc
trực tiếp với các sự vật, hiện tượng sẽ tạo ra sự rung động trước cái đẹp xung
quanh cho trẻ gắn bó hơn, tạo ra những xúc cảm, tình cảm tích cực và hành động
thiết thực để bảo vệ môi trường xung quanh chúng. Vì vậy trong quá trình cho
trẻ khám phá thế giới xung quanh trong tiết học, tôi đã sử dụng các phương pháp
như: phương pháp quan sát, phương pháp trò chuyện, phương pháp sử dụng trò
chơi... Trong tiết học tôi đã sử dụng vật thật cho trẻ khám phá, cho trẻ tiếp xúc
trực tiếp với vật thật bằng cách nhìn, sờ, nếm...và cảm nhận, qua đó trẻ trải
nghiệm bằng chính bản thân của mình sẽ giúp trẻ hứng thú, ham tìm hiểu và ghi
nhớ một cách có chủ định. Tùy từng tiết học theo từng chủ đề phù hợp giáo viên
càn tích cực chuẩn bị đồ dùng trực quan sinh động, thực tế để cho trẻ quan sát,
trải nghiệm hứng thú nhất. Tránh dạy vo, dạy lí thuyết sáo rỗng không hợp lứa
tuổi của trẻ sẽ làm trẻ không hứng thú, khắc sâu biểu tượng mờ nhạt. Bằng các
vật thật dễ tìm kiếm, sưu tầm, sẵn có trong thực tế giáo viên tận dụng tối đa sử
dụng trong các tiết học dạy trẻ trong các chủ đề: trường Mầm non, gia đình, bản
thân… sẽ giúp trẻ tham gia khám phá môi trường xung quanh đạt hiệu quả cao

nhất.
Ví dụ: Cho trẻ làm quen một số loại quả
* Mục tiêu:
- Trẻ biết được tên gọi, đặc điểm, mùi vị, màu sắc và lợi ích của một số loại
quả.Trẻ tham gia hoạt động và tham gia trò chơi một cách hứng thú
- Trẻ biết ơn những người trồng cây
2. Chuẩn bị: Một số loại quả thật, vườn cây ăn quả....
3. Tiến hành:
Ổn định tổ chức gây hứng thú:
Cho trẻ đến tham quan vườn cây ăn quả của bạn thỏ nâu
Hỏi trẻ trong vườn có những loại quả gì?

8


Bạn thỏ nâu tặng cho các con một giỏ quà.Các con cùng lên tàu về lớp học
của mình để cùng nhau khám phá món quà của bạn thỏ nâu nha !
+ Cô mời một trẻ lên sờ, đoán và đưa quả ra cô cho cả lớp cùng phát âm
Con có nhận xét gì về quả...? (hình dạng, màu sắc, mùi vị, vỏ quả như thế
nào?)
Cho trẻ sờ để biết vỏ của quả như thế nào?
Cô nêu kết luận chung về quả đó
+ Bạn nào muốn lên khám phá món quà tiếp theo của bạn thỏ nâu?
Giới thiệu cho trẻ các đạn thỏ nâu? (1 trẻ lên tìm và đưa quả ra cho cả lớp
cùng phát âm
Quả có hình dạng như thế nào?
Màu gì?
Vị của nó như thế nào?
Vỏ của nó như thế nào?
Cho trẻ sờ để cảm nhận được đặc điểm của quả đó.

Cô nêu kết luận chung của quả đó
+ Cô cũng muốn khám phá món quà của bạn thỏ nâu dành cho các con.
Các con có đồng ý để cô giúp không nào?
Cô thò tay vào trong hộp chọn quả, đoán tên sau đó đưa lên cho cả lớp
cùng phát âm
Cô hỏi trẻ về đặc điểm của loại quả đó bằng các câu hỏi tương tự(hình
dạng, màu sắc, mùi vị, vỏ)
Cô cho trẻ sờ để cảm nhận được đặc điểm của vỏ
Cô nêu nhận xét chung về loại quả đó
Trong giỏ còn có rất nhiều quả nữa đấy các con ạ,các con có muốn khám
phá xem đó là những loại quả gì không?
Cô tiếp tục đưa những quả khác trong hộp quà cho trẻ phát âm nhằm mở
rộng các loại quả cho trẻ
* Giáo dục trẻ về lợi ích của các loại quả và thói quen vệ sinh.
Hình ảnh minh họa kèm theo Phụ lục 4
3.Trò chơi củng cố:
* Trò chơi 1 “Nhanh tay lẹ mắt”:
Những món quà mà bạn thỏ nâu đã tặng cho các con cô đã chia đều vào các
rá rồi đấy.
Các con nhìn xem trong rá của các con có gì ?
Bây giờ cô muốn các con cùng tham gia với cô một trò chơi đó là trò chơi
“nhanh tay lẹ mắt”
Bây giờ nhiệm vụ của các con là khi nghe cô nói tên gọi hay đặc điểm của
quả nào thì con cầm quả đưa lên và đọc ta cho cô nha!
Cô tổ chức cho trẻ chơi 2-3 lần
9


Sau mỗi lần chơi cô nhận xét và động viên trẻ
* Trò chơi 2: Hái quả

Vườn cây ăn quả của nhà bạn thỏ nâu đã đến mùa thu hoạch rồi,để thể hiện
lòng biết ơn vì bạn đã tặng cho các con quà thì bây giờ các con sẽ giúp bạn thỏ
nâu hái quả nha,các con có dồng ý không nào?
Để hái quả được nhanh và nhiều thì bây giờ lớp mình sẽ chia thành 2 đội
chơi, một đội sẽ giúp bạn thỏ haí những quả có dạng dài còn dội kia sẽ hái
những quả có dạng tròn nha
Thời gian cho các con là một bản nhạc,khi nào bạn nhạc kết thúc mà đội
nào hái được nhiều quả thì đội đó sẽ chiến thắng .
Các con đã lao động mệt mỏi nên bạn thỏ nâu đã chuẩn bị các loại quả
trong vườn cây của bạn cho các con cùng thưởng thức đấy.
Các con cùng nhau nếm xem mùi vị của các loại quả đó như thế nào nha!
* Giáo dục trẻ
* Củng cố:
Vậy hôm nay các con được khám phá món quà gì của bạn thỏ nâu?
* Trong giờ hoạt động tạo hình để gợi ý đề tài cho trẻ hoạt động ở phần
giới thiệu bài tôi cũng chuẩn bị vật thật cho trẻ quan sát khám khá từ đó trẻ hiểu
rõ về đối tượng và khi vào hoạt động trẻ sẽ thực hiện tốt hơn.
Ví dụ: Cho trẻ hoạt động tạo hình ở chủ đề “Giao thông” với đề tài “Dán
đèn tín hiệu giao thông” tôi chuẩn bị mô hình ngã tư đường phố có các loại
phương tiện đang tham gia giao thông và đèn tín hiệu giao thông cho trẻ quan sát:
- Các con có nhận xét gì về ngã tư đường phố?
- Khi gặp đèn đỏ chúng mình phải làm gì?
- Gặp đèn xanh thì như thế nào?
Từ mô hình mà tôi chuẩn bị cho trẻ trải nghiệm, trẻ được đưa ra những ý
kiến của mình từ đó trẻ hiểu thêm về luật lệ an toàn giao thông và biết được tác
dụng của đèn tín hiệu giao thông để chấp hành nghiêm chỉnh luật giao thông.
Với đề tài “Tô màu chiếc váy” ở phần giới thiệu bài tôi cũng chuẩn bị vật
thật cho trẻ quan sát khám khá từ đó trẻ hiểu rõ về đối tượng quan sát và sự khó
nhọc của các cô công nhân đã may lên chiếc váy đó. Từ đó giáo dục trẻ biết giữ
gìn quần áo khi mặc và biết kính yêu, quý trọng tất cả các nghề trong xã hội

* Trong giờ hoạt động âm nhạc khi dạy hát bài “Cháu yêu bà” tôi đưa ra
bức tranh hai bà cháu đang âu yến nhau cho trẻ quan sát, tư duy để trả lời về nội
dung bức tranh và qua bức tranh giáo dục trẻ biết yêu thương những người thân
trong gia đình.
Với hoạt động làm quen với văn học khi dạy trẻ bài thơ “Bạn mới” tôi cho
trẻ quan sát hình ảnh bạn nhỏ mới đi học còn bẽn lẽn, nhút nhát, và hình ảnh các
bạn đang chơi với nhau để giáo dục trẻ biết giúp đõ khi bạn mới đi học đang còn
bẻn lẻn nhút nhát và khi chơi với bạn thì phải biết nhường cho bạn, không được
tranh dành đồ chơi, không được đánh bạn, phải biết giúp đở bạn.

10


Kết quả: Như vậy việc tổ chức cho trẻ khám phá khoa học về môi trường
xã hội thông qua các hoạt động học tôi đã tổ chức cho trẻ hoạt động tôi thấy trẻ
rất hứng thú hăng hái tham gia hoạt động và tôi thấy trẻ biết lễ phép, biết vâng
lời ,biết yêu thương mọi người và đặc biệt trẻ biết giữ gìn tài sản chung ở
trường, ở lớp, ở những nơi công cộng.
2.3.4. Tổ chức cho trẻ kham phám khoa học ở mọi lúc, mọi nơi.
Không chỉ dừng lại ở việc cho trẻ khám phá những sự vật,hiện tượng xung
quanh cuộc sống bằng những phương pháp thực hiện trên tiết học mà tôi tận
dụng tất cả các hình thức,ở mọi lúc mọi nơi mà tôi cảm thấy hợp lí để giúp trẻ
khắc sâu hơn,hiểu sâu hơn các sự vật hiện tượng mà trẻ chưa được khám phá và
trải nghiệm cụ thể :
Biểu tượng về thế giới xung quanh đã đến với trẻ qua nhiều hình thức khác
nhau như câu đố, bài hát, ca dao, tục ngữ, đồng dao, tranh ảnh, đồ vật, vật thật...
giúp trẻ không bị nhàm chán lại dễ tiếp thu để trẻ ghi nhớ và chính xác hoá
thành biểu tượngcủa mình. Chỉ đơn giản từ những câu đố, bài hát, các con vật
đợc hiện lên sóng động qua máy chiếu đa năng làm cho trẻ rất hứng thú. Qua đó
trẻ tích cực tham gia hoạt động cùng cô. Và hiển nhiên sự hiểu biết của trẻ, vốn

sống, vốn kinh nghiệm của trẻ sẽ được khắc sâu, phát triển hơn.
Trong giờ hoạt động góc: Trong thời gian hoạt động góc giáo viên tạo điều
kiện cho trẻ được hoạt động tích cực ở các góc như: góc thiên nhiên, góc trò
chơi xây dựng và trò chơi đóng vai theo chủ đề, góc truyện tranh, góc tạo hình…
Ví dụ: Sau khi đã quen với động vật nuôi ở bước 1 và bước 2 đến bước 3,
cô cho trẻ chơi trò chơi: xây dựng trang trai chăn nuôi, nấu ăn chế biến thịt, sữa,
trúng, chăm sóc các con vật ở góc thiên nhiên (nếu có), xem tranh, truyện tranh
về các con vật nuôi, vẽ nặn, xé dán các con vật…
Thông qua hoạt động góc mà chủ đạo là hoạt động đóng vai theo chủ để
được ví là “xã hội thu nhỏ” của trẻ, trẻ sẽ được hóa thân vào các nghề được thao
tác với kỹ năng của nghề trên đồ chơi thay thế, thay vì ai dạy trẻ thì trẻ sẽ được
chính mình hoạt động trải nghiệm khám phá với sự hướng dẫn đồng hành cua cô
giáo.
Ví dụ: Thông qua vai chơi : Bán hàng. Trẻ sẽ biết thao tác vai chơi, từ đó
trẻ biết khi là nhân viên bán hàng thì phải làm công việc gì, mời chào khách thế
nào là thân thiện…. từ đó trẻ sẽ nhận thức vô cùng nhanh nhẹn.
Đây cũng là một hoạt động cho trẻ khám phá khoa học. Là cơ hội cho trẻ
ứng dụng kiến thức kinh nghiệm vào các trò chơi như đóng vai, xây dựng, thiên
nhiên, thư viện, học tập, tạo hình… Đặc biệt trẻ được chơi với nhiều vật thật,
hoạt động với nhiều vật thật như được ngắm nhìn, sờ mó, ngửi... Từ đó hình ảnh
trọn vẹn về những gì xung quanh trẻ, không thể thế mà tôi còn phát huy sự sáng
tạo của trẻ bằng cách cho trẻ làm các bức tranh từ nguyên vật liệu thiên nhiên
như hoa, lá ép khô, võ cây, cọng rơm, tàu dừa, võ các con ốc.
11


Hình ảnh minh họa kèm theo Phụ lục 5a
*Giờ đón và trả trẻ
Tôi chào hỏi, trò chuyện với trẻ tạo tâm thế tốt cho trẻ. Đặc biệt là trò
chuyện về chủ đề đang tiến hành. Tạo điều kiện quan tâm tới các bạn về ăn mặc,

đầu tóc... Mở chủ đề tôi hướng trẻ vào quan sát, hỏi trẻ về chủ đề kích thích sự
khám phá tìm tòi của trẻ
Ví dụ: Trong chủ điểm thế giới động vật tôi trò chuyện cùng trẻ con biết
những con vật gì biết bay? Những con vật gì sống trong gia đình 2 chân, 2 cánh
và đẻ trứng? Tôi còn giao nhiệm vụ cho trẻ như các con về hỏi bố mẹ anh chị
xem những con vật nào trong gia đình có 4 chân và đẻ con? Trẻ trả lời và hứng
thú về trao đổi cùng gia đình.
Đối với phụ huynh tôi nhờ phụ huynh sưu tầm tranh ảnh, vật thật và tích
luỹ kiến thức cho trẻ về chủ đề đang học.
Hoạt động ngoài trời: Tôi cho trẻ quan sát cây hoa hồng, hướng cho trẻ
nhận xét về đặc điểm, mắc, thân, cành, hoa, lá. Sau đó cho trẻ sờ cánh hoa thấy
cánh hoa mịn màng hay nhẵn, các mép lá ì sao có răng cưa, ngữi hoa xem có
mùi vị như thế nào... Trẻ được quan sát kỹ, có được đầy đủ các đặc điểm của đối
tượng nên trẻ nêu ra các nhận xét, so sánh rất nhanh. Không những thế mà qua
các giờ đón và trả trẻ tôi cùng trò chuyện với trẻ về các loại cây, hoa lá, con vật
bằng cách nêu ra các câu đố vui, ngộ nghĩng, làm cho trẻ thích thú được cùng cô
giãi các câu đố đó. Với cách trò chuyện vui vẽ thân thiện mà đem lại kết quả cao
cho những tiết học.
Hình ảnh minh họa kèm theo Phụ lục 5b
Dạo chơi, tham quan: Với các nội dung về xã hội như hoạt động, lao
động của con người, các công trình công cộng hay về thế giới động vật, thực vật,
giáo viên có thể tổ chức đi tham quan. Hình thức thăm quan thường được tổ
chức cho trẻ mẫu giáo .Tuỳ điều kiện cụ thể của từng trường và mục đích tích
luỹ kiến thức về các đối tượng khác nhau, giáo viên có thể cho trẻ tham quan ở
gần hay xa trường mầm non trong khoảng thời gian thích hợp. Biện pháp tổ
chức cho trẻ đi tham quan là phương pháp vô cùng hiệu quả để giải quyết vấn đề
trẻ khám phá xung quanh bằng hoạt động thực tiễn. Hoạt động tham quan, dạo
chơi vô cùng phong phú gắn liền với cuộc sống nếu được tổ chức chu đáo trẻ sẽ
được tự mình trải nghiệm những điều thú vị từ cuộc sống muôn màu bằng vật
thật. Trong khi thăm quan giáo viên có thể tổ chức đàm thoại, thảo luận, trò

chuyện về nội dung của buổi tham quan hoặc sau đó một, hai ngày. Với các
trường thuộc nông thôn có thể tổ chức tham quan cho trẻ tham quan các di tích
lịch sử địa phương, khu trang trại, khu trồng hoa, khu làng nghề…. Trẻ sẽ được
học hỏi rất nhiều về cuộc sống xung quanh nơi trẻ sống bằng vật thật, con người
thật, điều quan trọng trẻ sẽ được trải nghiệm trực tiếp tìm hiểu mọi sự vật hiện
tượng xung quanh đó chứ không phải qua tranh ảnh, đàm thoại bằng lời nói.  Khi
tham quan, trẻ có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với môi trường xã hội. Các sự vật
hiện tượng, các danh lam thắng cảnh mà trẻ được tiếp xúc vừa phong phú, đa
dạng vừa phản ánh sinh động các mối quan hệ trong thực tiễn nên chúng rất có
12


giá trị đối việc cho trẻ khám phá môi trường xung quanh. Vì vậy, việc tổ chức
hoạt động tham quan sẽ giúp trẻ tiếp cận các sự vật, hiện tượng xung quanh một
cách có hiệu quả. Thông qua việc tiếp xúc với thiên nhiên và xã hội trong hoạt
động tham quan góp phần hình thành cho trẻ những biểu tượng ban đầu chân
thực về thế giới khách quan, giúp trẻ tích lũy kiến thức và ứng dụng chúng vào
thực tiễn, phát triển và rèn luyện cho trẻ các kỹ năng nhận thức như quan sát, so
sánh, phán đoánvà đưa ra nhận xét.Ngoài ra cho trẻ hoạt động tham quan còn
giúp trẻ tăng cường sức khỏe và thể lực cho trẻ thông qua việc tiếp xúc với
phong cảnh đẹp thiên nhiên, hít thở bầu không khí trong lành và những vận động
tích cực của trẻ trong một không gian rộng và thoáng đãng. Thông qua hoạt
động tham quan ngoài trời, ở trẻ hình thành những ấn tượng cảm xúc tích cực,
tạo điều kiện cho việc giáo dục tình cảm gần gũi, gắn bó với thiên nhiên và cuộc
sống xung quanh.Vì vậy tôi thường xuyên tổ chức cho trẻ khám phá môi trường
xung quanh thông qua hoạt động tham quan
Đối với trẻ mầm non có nhiều sự vật hiện tượng cần khám phá thì trẻ chưa
từng được nhìn thấy mà chỉ được nghe người lớn nói đến, kể đến mà thôi nên tôi
kết hợp cùng ban giám hiệu và hội phụ huynh ở lớp tổ chức cho trẻ đi tham quan
thực tế.

Ví dụ: Ở chủ đề “Quê hương đất nước - Bác Hồ” đề tài “Trò chuyện về di
tích lịch sử của địa phương”. Nga Yên quê tôi có di tích “Chùa đống cao” là di
tích văn hóa, nơi tâm linh được mọi người tôn kính nên tôi đã cho trẻ đi tham
quan và trò chuyện. Tôi đặt ra câu hỏi gợi mở kích thích óc suy luận phán đoán
của trẻ để trẻ trả lời các câu hỏi
+ Chúng mình đang được đi tham quan di tích nào của địa phương Nga
Yên?
+ Khu di tích chùa Đống Cao nằm ở xóm nào?
+ Khu di tích chùa Đống Cao có những đặc điểm gi?
+ Mọi người đến đây để làm gì?
+ Khi đến những nơi tâm linh các con phải làm sao?
+ Các con phải làm gì để bảo vệ di tích của quê hương?
Qua chuyến đi tham quan trẻ biết tôn kính gìn giữ nét đẹp văn hóa của quê
hương mình đang sống.
Hình ảnh minh họa kèm theo Phụ lục 5c
Ví dụ: Ở chủ đề “Nghề nghiệp” Đề tài “Tìm hiểu về nghề truyền thống ở
địa phương” Tôi cho trẻ đi tham quan xưởng dệt chiếu để trẻ được nhìn tận mắt
các nguyên vật liệu, công đoạn làm ra sản phẩm là những lá chiếu từ đó trẻ thấy
được sự vất vả của cô thợ dệt chiếu, đã dệt ra lá chiếu phục vụ cho con người và
qua đó trẻ biết được nghề dệt chiếu là nghề truyền thống từ xa xưa của ông cha
ta để lại cần phải giữ gìn và quý mến.
Hình ảnh minh họa kèm theo Phụ lục 5d

13


Qua giờ ăn, ngủ: Tôi khuyến khích trẻ chuẩn bị bàn ăn. Trò chuyện về tên
gọi, công dụng, chất liệu sự đa dạng của đồ dùng. Giới thiệu món ăn. Nhắc trẻ
hành vi thói quen văn minh trong ăn uống.
Tương tự giờ ngủ cũng hỏi trẻ tên gọi, công dụng của đồ dùng. Giải thích

vì sao phải sử dụng đồ dùng để ngủ. Hát ru cho trẻ ngủ hoặc tôi kể chuyện có
nội dung nhẹ nhàng lôi cuốn.
Kết quả: Khi trực tiếp tiếp xúc với không gian thiên nhiên, những đề tài
này luôn giúp trẻ hứng thú hoạt động và kiến thức trẻ nhận được rất cao, được
trự tiếp xúc khám phá trẻ dễ lĩnh hội kiến thức, kỹ năng và khả năng ghi nhớ.
Mặt khác giúp trẻ thoả mãn về nhu cầu vận động, nhu cầu học bằng chơi, chơi
mà học của trẻ.
2.3.5. Biện pháp đàm thoại giữa cô và các bé giúp trẻ khám phá môi
trường xã hội một cách toàn diện hơn
Thông qua biện pháp đàm thoại trẻ có thể hình dung được những đối tượng
mà trẻ chưa có điều kiện tiếp xúc trực tiếp nhờ hỏi - đáp với cô giáo mà trẻ chưa
có điều kiện đi biển thì cũng hình dung mình được đi biển như thế nào. Trẻ chưa
có điều kiện ra Hà Nội, chưa được đi viếng lăng Bác... nhưng trẻ cũng có thể
hình dung được qua sự trao đổi giữa cô với trẻ và giữa trẻ với trẻ, trò chuyện,
đàm thoại để giúp trẻ nhớ lại những kinh nghiệm và những kiến thức liên quan
đến việc khám phá khoa học. Hình thành ở trẻ một số nề nếp tốt trong học tập
như: Biết tập trung chú ý, biết làm theo chỉ dẫn của cô, biết trả lời và nói năng
mạch lạc... Biện pháp này giúp trẻ củng cố vốn từ và làm sâu sắc hơn những
biểu tượng mà trẻ đã tri giác được. Thông qua hình ảnh trực quan, tri thức của
trẻ lĩnh hội được còn thiếu chính xác, hời hợt và chưa có hệ thống nhưng nhờ có
lời giới thiệu, trò chuyện của cô với trẻ mà những tri thức này sẽ được chính xác
hóa, sâu sắc và có hệ thống hơn. Kích thích nhu cầu muốn tìm hiểu của trẻ khi
đã thu hút được sự quan tâm, chú ý, tạo ra được sự hứng thú của trẻ đối với hoạt
động này, giáo viên lần lượt đặt các câu hỏi, đưa ra các vấn đề mà trẻ chưa biết,
chưa trả lời được, chưa giải quyết được, để kích thích nhu cầu muốn tìm hiểu
nơi trẻ. Đồng thời đây cũng là cách giáo viên thăm dò những trẻ có lời nói rõ
ràng, ngôn ngữ mạch lạc và cũng phát hiện trẻ bị nói ngọng, nói đớt...
Trong quá trình đàm thoại, nếu giáo viên không có biện pháp và thủ thuật
xen kẽ thì không khí đàm thoại sẽ trở nên căng thẳng. Vì vậy, cô giáo phải tạo
tình huống, câu hỏi phải rõ ràng, lôgic.

Khi hỏi, không nên áp đặt trẻ trả lời “có” hoặc “không”, “ghét” hoặc
“thích”, nên cho trẻ xem hình ảnh chiếu rồi trẻ trả lời theo câu hỏi trên màn
hình.
Ví dụ: Trong chủ đề thế giới thực vật: Cô cho trẻ xem màn hình đã cài sẵn
hình ảnh của các loại trái cây. Khi cô click đến loại quả nào, trẻ sẽ tự nói tên loại
quả màu sắc, cách sử dụng,...
Đàm thoại trong lúc quan sát giáo viên phải dùng hệ thống các câu hỏi
trong quá trình quan sát. Đa số giáo viên sợ trẻ trả lời không được, thường nói
thay trẻ, và cho trẻ nhắc lại. Vì vậy những câu hỏi của cô có khi phải dùng thủ
thuật, vì nó có tác dụng kích thích sự tập trung chú ý tự giác đối tượng của trẻ.

14


Ví dụ: Cho trẻ làm quen với các động vật sống trong rừng: Cô hát những
bài hát có tính cách nổi bật của các con vật, sau đó trẻ đoán và nói tên. Cô có thể
làm cho quá trình đàm thoại gây hứng thú cho trẻ bằng cách nói về sự sinh sản,
ăn uống, trưởng thành của loài vật đó.
Hình ảnh minh họa kèm theo Phụ lục 6
Hoặc về chủ đề các con vật nuôi: Đối với lớp mẫu giáo lớn yêu cầu câu hỏi
của cô phải cao hơn, tạo cho trẻ sự suy nghĩ nhiều hơn. Ngoài việc cung cấp cho
trẻ những thông tin cơ bản của con vật như: có mấy chân? Sống ở đâu? Thuộc
giống gì?... cô cần nâng yêu cầu việc đàm thoại cao hơn.
Ví dụ: Những loài vật nào ăn cỏ? Thuộc tính gì? Những loài vật nào ăn
thịt? Thuộc tính gì?...
Hoặc cô đặc câu hỏi trẻ nói về tính chất của nước: Nước có màu gì? Mùi
gì? Có vị gì? Câu hỏi nâng dần từ dễ đến khó, tại sao nước lại bốc hơi? Nước ở
sông suối có bay hơi không? Nước mưa rơi xuống đất chẩy đi đâu? Để kích
thích thêm vốn từ của trẻ?.
Đối với tất cả các hình thức đàm thoại nói trên, tùy từng tình huống cụ thể,

giáo viên phải tạo điều kiện và khuyến khích trẻ đặt câu hỏi lại đối với cô và bạn.
Ví dụ: Về cây xanh, để phát triển thêm lời nói của trẻ, cô tổ chức vừa chơi
nhưng vừa phát triển được ngôn ngữ. Yêu cầu lúc này cao hơn. Cô có thể đặt
những câu hỏi: thế nào là cây dược liệu? Cây nào là cây lấy gỗ? Cây nào là cây
cảnh?...
Và để kích thích thêm vốn từ của trẻ, tình yêu của trẻ đối với cây xanh, cô
có thể cho trẻ đọc thơ “Cây Bàng”: Là cây xanh thân yêu và gần gũi với trẻ nhất
trong những giờ hoạt động ngoài trời
Hoặc khi đàm thoại về các mùa trong năm, cô kể cho trẻ nghe về mùa xuân và
mùa hè. Sau đó cô hỏi trẻ còn mùa nào trong năm mà cô chưa kể để phát triển thêm
tư duy, trí nhớ của trẻ và trẻ sẽ dùng lời nói để kể lại những gì mà mình biết.
Ngoài những biện pháp trên giáo viên cần chọn thêm những nội dung đàm
thoại về một câu chuyện, một bài hát, một bài thơ hoặc lời độc thoại của trẻ để
giúp trẻ biểu đạt ra bên ngoài những suy nghĩ, sự hiểu biết của mình về các đối
tượng nhằm củng cố tri thức và phát huy lời nói mạch lạc cho trẻ. [6]
Kết quả: Nhờ biện pháp đàm thoại giữa cô và trẻ mà sự hiểu biết của các
em về môi trường được củng cố, mở rộng và chính xác hơn, ghi nhớ lâu hơn, sự
chú ý có chủ định sâu hơn và ngôn ngữ cũng phát triển một bước cao hơn
2.3.6. Sử dụng công nghệ thông tin trong hoạt động khám phá khoa
học về môi trường xã hội.
Ngày nay lĩnh vực công nghệ thông tin phát triển với tốc độ nhanh
chóng, cung cấp nhiều thông tin hữu ích, hấp dẫn mà đôi khi ở trong sách vở
chúng ta không thể tìm thấy được. Tùy vào nội dung từng bài học mà tôi có thể
xem, tìm và download hình ảnh, video clip ứng dụng vào dạy trẻ. Trẻ được
chính xác hoá các biểu tượng, hấp dẫn, cuốn hút trẻ vào giờ hoạt động hơn. Khi
được tiếp cận với máy tính, khai thác sử dụng các tính năng của máy như làm
ảnh động, lồng âm thanh. Tôi thấy rất nhiều ưu việt giúp cho giáo viên tiết kiệm
được thời gian và kinh phí làm đồ dùng. Những hoạt động dạy trẻ với âm thanh
15



sống động, màu sắc hấp dẫn rất thu hút sự chú ý của trẻ và khuyến khích trẻ
tham gia hoạt động một cách tích cực, hứng thú. Bởi vì ta đã biết, không phải ở
tiết học nào cũng có thể cho trẻ trải nghiệm bằng vật thật mà có những tiết phải
sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin như một số bài dạy trong chủ đề Thế giới
động vật với bài khám phá “Sự ra đời của gà con”, “vòng tuần hoàn của
Bướm”.... Với những tiết dạy trên tôi phải cho trẻ khám phá thông qua những
hình ảnh sinh động tôi copy trên mạng để giúp trẻ hiểu rõ hơn về vòng tuần hoàn
của Bướm: Từ con tằm -> nhộng -> bướm -> đẻ trứng -> tằm -> nhộng ->
bướm,.... Qua việc sử dụng powerpoint tôi thấy trẻ thích thú say sưa khám phá
giúp giờ học đạt kết quả tốt hơn.
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, sự phát triển của hệ thống
mạng cùng với những tiện ích, ứng dụng phong phú đã tạo nên một cuộc cách
mạng trong mọi người, mọi ngành và đặc biệt là giáo dục. Chính vì vậy ngay từ
cấp học mầm non trẻ đã được làm quen với công nghệ thông tin như một phần
của hoạt động giáo dục không thể thiếu. Không chỉ với người lớn mà đối với trẻ
em mầm non thì công nghệ thông tin luôn mang lại nhiều điều kì thú và hữu ích
trong việc tiếp thu kinh nghiệm sống.
Hơn nữa trong việc giáo dục, truyền đạt kiến thức cho trẻ không phải sự vật
hiện tượng nào cũng có sẵn để trẻ được trực tiếp tri giác, nhất là với hoạt động
khám phá khoa học như tìm hiểu động vật sống dưới biển, quan sát máy bay, các
hiện tượng tự nhiên,.. hay chúng ta không thể có thời gian để chứng kiến những
hiện tượng trong tự nhiên xảy ra như tìm hiểu về cách sinh sản của một số loại
vật nuôi, …chính vì vậy để trẻ được tìm hiểu thế giới xung quanh một cách bao
quát nhất thì ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết học là một việc cần thiết.
Khi sử dụng công nghệ thông tin như các bài powerpoint vào các tiết học
khám phá khoa học. Tôi nhận thấy trẻ tỏ ra rất hào hứng, thích thú và cũng giúp
trẻ nhận biết sự vật- hiện tượng một cách rõ ràng hơn.
Ví dụ: Khám phá động vật sống trong rừng.
Vì điều kiện khó khăn và thiếu thốn nên nhà trường không thể đưa trẻ đến

vườn bách thú để trẻ quan sát thực tế các con vật đó. Tôi cho trẻ xem hình ảnh
các loài động vật rừng trên Powerpoint .Từ đó mà trẻ sẽ biết một số đặc điểm cơ
bản: tiếng kêu, cấu tạo bên ngoài, thức ăn, vận động, cách kiếm ăn của chúng...
Hình ảnh minh họa kèm theo Phụ lục 7
+ Ở chủ đề "Nghề nghiệp" với đề tài "Trò chuyện về một số nghề" tôi cho
trẻ chơi "Thi nói nhanh" Khi máy tính hiện hình ảnh nghề gì thì trẻ nói tên nghề
đó và chọn lô tô giơ lên.
+ Ở chủ đề "Gia đình" với đề tài "Trò chuyện về nhu cầu của gia đình" tôi
cho trẻ chơi trò chơi "Ô cửa bí mật" ô cửa mở ra là đồ dùng mào thì trẻ gọi tên
và nói công dụng của đồ dùng đó.
Với những hình ảnh sống động, đa dạng phong phú như thật càng lôi cuốn
trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động học.
Kết quả: Như vậy sử dụng công nghệ thông tin vào khám phá khoa học
đặc biệt là khám phá môi trường xã hội là hoạt động gây nhiều hứng thú cho trẻ.
Với trẻ lớp tôi các cháu rất hứng thú tích cực vào hoạt động và đạt kết quả cao.
16


2.3.7. Tuyên truyền và phối hợp với các bậc phụ huynh
Như chúng ta đã biết chăm sóc giáo dục trẻ là một nhiệm vụ vô cùng quan
trọng, không chỉ riêng của bậc học mầm non mà còn là nhiêm vụ chung của toàn
xã hội. Cho đến nay có rất nhiều hình thức và phương pháp chăm sóc giáo dục
trẻ khác nhau như phương pháp giáo dục trẻ theo hướng đổi mới, hay phương
pháp CSGD trẻ mầm non mới…Dù có thực hiện chăm sóc giáo dục nào? Nhưng
chỉ có nhà trường và giáo viên nỗ lực cố gắng mà không có sự phối hợp với gia
đình và các bậc phụ huynh về cách chăm sóc giáo dục trẻ thì hiệu quả giáo dục
sẽ không cao.
Vậy chúng ta phải phối hợp như thế nào? Hay công tác tuyên truyền hầu
như giáo viên nào cũng đã thực hiện, nhưng tuyên truyền như thế nào để đạt
đươc hiệu quả, khoa học và điều quan trọng là để trẻ ngày càng có nhiều nhận

thức tiến bộ và đúng đắn về tinh thần nhận thức, tình cảm, ngôn ngữ, giao tiếp…
ứng xử mới là điều quan trọng mà chúng ta cần phải quan tâm.
Qua công tác chăm sóc và áp dụng thực tế, công tác phối hợp với các bậc
cha mẹ trong việc chăm sóc giáo dục trẻ có tác dụng rất lớn, nếu làm tốt được
điều này sẽ:
- Tạo được sự thống nhất giữa gia đình và nhà trường về việc chăm sóc
giáo dục trẻ, tạo được sự thồng nhất về nội dung, phương pháp và cách thức tổ
chức CSGD trẻ ở lớp học cũng như ở gia đình. Tránh được những mâu thuẫn về
cách CSGD trẻ giữa gia đình và nhà trường tạo điều kiện cho việc hình thành
thói quen và các phẩm chất, nhân cách tốt ở trẻ.
- Bên cạnh đó các bậc phụ huynh nên sưu tầm các bài thơ, câu chuyện, bài
hát…có nội dung lễ giáo để giáo dục trẻ như: Lời chào, Cháu yêu bà, Bé
ngoan…Qua đó giáo dục trẻ về thói quen lễ giáo ở mọi lúc, mọi nơi.
- Để thực hiện tốt công tác phối kết hợp với các bậc cha mẹ, ngay từ đầu
năm học thông qua các buổi họp phụ huynh tôi thực hiện công tác tuyên truyền
tới các bậc phụ huynh và nội dung chương trình học của bé, thống nhất một số
biện pháp chăm sóc và dạy trẻ.
Hình ảnh minh họa kèm theo Phụ lục 8
- Phối kết hợp các bậc cha mẹ không chỉ giúp cha mẹ và giáo viên có kiến
thức chăm sóc trẻ một cách khoa học, mà còn giúp cha mẹ hiểu được thêm công
việc của giáo viên ở lớp cũng như giáo viên hiểu được hoàn cảnh và điều kiện
sống của trẻ ở gia đình. Để có biện pháp giáo dục phù hợp, tạo nên mối quan hệ
thân thiết, cởi mở, thân thiện giữa phụ huynh và giáo viên.
- Phối kết hợp với các cha mẹ trong việc thực hiện chương trình chăm sóc
và bảo vệ sức khỏe cho trẻ về kiến thức chăm sóc cũng như theo dõi sức khỏe
của trẻ theo định kỳ.
- Phối kết hợp với các bậc cha mẹ trong việc thực hiện chương trình giáo
dục trẻ, giáo viên cùng kết hợp với cha mẹ trẻ giúp trẻ thực hiện tốt chương trình
CSGD trẻ theo từng chủ đề.
- Sưu tầm giúp tranh ảnh, sách báo cũ có liên quan đến chủ đề đang học.

Ví dụ như chủ đề: Gia đình. Trẻ biết được các thành viên trong gia đình,
mối quan hệ, tình cảm và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình với
17


nhau. Trẻ tôn trọng lễ phép với ông bà, bố mẹ, yêu quý em nhỏ…biết công việc
hàng ngày của bố mẹ.
- Ngoài ra phối kết hợp với các ban phụ huynh của lớp, kết hợp với nhà
trường trong việc tổ chức ngày lễ, ngày hội và các sự kiện đặc biệt ở trường
mầm non như: tết thiếu nhi 1/6, tết trung thu…
Kết quả: Việc tuyên truyền đến cha mẹ học sinh để nhận sự phối hợp với
nhà trường trong các hoạt động, đã góp phần đẩy mạnh chất lượng giáo dục toàn
diện trong nhà trường. Điều này càng thể hiện rõ nét khi trường chuyển sang
hoạt động theo mô hình cung ứng dịch vụ, trình độ, chất lượng cao trong thời
gian tới. Nhà trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phối kết hợp
với cha mẹ học sinh, đổi mới các biện pháp thực hiện trong công tác phối kết
hợp giữa hai bên để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả chăm sóc giáo
dục trẻ toàn diện theo hướng tích cực và bền vững.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
* Đối với hoạt động giáo dục: Khích lệ được trí tưởng tượng, sự tò mò của
trẻ, trẻ có hứng thú học, tiếp thu kiến thức nhanh khám phá khoa học. Trẻ rất
thích tham gia làm đồ dùng đồ chơi từ các nguyên liệu vở ngao, sò, yêu lao
động, yêu quê hương, đất nước, thích tạo ra cái đẹp. Góp phần phát triển toàn
diện 5 mặt giáo dục: Đức, trí, thể, mỹ và lao động cho trẻ. Đáp ứng được yêu
cầu, đòi hỏi ngày càng cao của quá trình đổi mới giáo dục và những yêu cầu cấp
bách hiện nay về nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ ở trường mầm
non. Được thể hiện qua kết quả khảo sát như sau”
Phụ lục 9: Kết quả khảo sát cuối năm
* Đối với trẻ: Trẻ chủ động tham gia vào các hoạt động khám phá, điều đáng
nói ởđây trẻ thờng xuyên thảo luận cùng nhau, đa các câu hỏi đố nhau khi bắt

gặpmột hiện tợng lạ và một đối tợng nào đó và đặc biệt hỏi cô vì sao lại nh vậy hả
cô...Trẻ hoàn toàn chủ động trong các buổi thực hành và là một thành viêntuyên
truyền đến gia đình trong việc ăn uống hợp vệ sinh và thực hiện tốtluật an toàn giao
thông. Trẻ có thái độ đúng đắn với môi trờng sống xung quanh trẻ,có lòngmong
muốn tạo ra cái đẹp và bảo vệ môi trờng sống xung quanh trẻ.
* Đối với bản thân: Có nhiều kinh nghiệm, vững vàng, tự tin, trong quá
trình giúp trẻ khám phá môi trường xã hội thông qua hoạt động khám phá khoa
học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ.
* Đối với đồng nghiệp: Thành công sáng kiến kinh nghiệm của tôi đã được
hội đồng khoa học nhà trường đánh giá cao, được các đồng nghiệp ở trường áp
dụng rộng rãi trong quá trình tổ chức thực hiện chuyên đề và thu được kết quả
rất tốt. Giáo viên cũng đã có những kiến thức sâu hơn trong công tác tích hợp
các nội dung giảng dạy và nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Lồng ghép các bài
thơ, bài hát, câu chuyện, trò chơi học tập để giáo dục trẻ. Xây dựng kế hoạch
tích hợp các nội dung vào từng chủ đề, hoạt động phù hợp, lô gic.
* Đối với nhà trường: Chất lượng thực hiện chuyên đề có nhiều chuyển
biến mạnh mẽ, không ngừng được củng cố, nâng cao và duy trì thường xuyên.
Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường ngày càng
vững chắc.
18


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Trong sự nhận thức của trẻ ở lứa tuổi màm non, khám phá khoa học giữ
một vai trò quan trọng. Vì đây là hình thức cho trẻ phát hiện ra những thứ mới
mẻ, li kì xung quanh trẻ. Khám phá khoa học giúp trẻ hình thành các nhận thức
về các sự vật hiện tượng xung quanh, sự giáo dục thái độ ứng xử đúng đắn với
thiên nhiên, với xã hội cho trẻ. Khám phá khoa học thông qua các hình thức giúp
trẻ dễ nhớ, dễ hình dung, dễ tưởng tượng. Đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã

thực hiện trong qua trình giảng dạy để nâng cao tri thức cho trẻ trong đời sống
hàng ngày. Bản thân tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Ban giám hiệu,
của các bạn bè đồng nghiệp để giúp học khám phá khoa học đạt kết quả cao hơn
Như vậy, ta có thể nói rằng cho trẻ khám phá khoa học về môi trường xã hội
là việc làm không thể thiếu được ở độ tuổi mầm non bởi thông qua hoạt động
này làm tăng vốn hiểu biết cho trẻ, khả năng nhận thức của trẻ được nâng cao.
Để làm tốt được điều này giáo viên cần nắm bắt tâm lý và khả năng vốn có
của trẻ để có biện pháp phù hợp
Có biện pháp lôi cuốn trẻ vào hoạt động thoải mái nhẹ nhàng
Tạo điều kiện để trẻ thể hiện khả năng của mình trước bạn bè
Động viên khen ngợi trẻ kịp thời để trẻ hứng thú hoạt động hơn
Luôn lấy trẻ làm trung tâm sử dụng câu hỏi mở để phát triển tính tích cực
ở trẻ.
Giáo viên không ngừng học tập nghiên cứu tài liệu tham gia các lớp chuyên đề
Trao đổi với đồng nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
Như vậy để đạt được những kết quả tích cực trên trẻ, tôi càng lỗ lực học
hỏi, tìm hiểu và mong ứng dụng được nhiều hơn những tri thức về khoa học
trong công tác giảng dạy của mình. Những điều kì thú trong khoa học vô cùng
phong phú, song không phải bất cứ hiện tượng khoa học vui nào cũng có thể ứng
dụng trong việc dạy trẻ mầm non. Việc lựa chọn cũng như thực hiện những giải
pháp phải đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với lứa tuổi mầm non và đảm bảo an
toàn cho trẻ.
3.2. Kiến nghị
- Đối với nhà trường
Cần tham mưu với các cấp lãnh đạo đầu tư thêm về cơ sở vật chất giúp cho
việc chăm sóc và giáo dục trẻ được tốt hơn.
Tổ chức thao giảng, dự giờ thăm lớp thường xuyên hơn nữa để giáo viên có
thể học hỏi kinh nghiêm lẫn nhau.
Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn để rút ra bài học
kinh nghiêm sau mỗi tuần, mỗi chủ đề.

- Đối với phòng giáo dục.
Thường xuyên mở các lớp tập huấn, chuyên đề cho giáo viên nhằm tăng
hiệu quả trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ và nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ.
19


Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi giúp trẻ 3- 4 tuổi làm quên với
khám phá khoa học về môi trường xã hội rất mong được sự đóng góp ý kiến của
hội đồng khoa học nghành để tôi được hoàn thiện hơn khi áp dụng sáng kiến của
mình trong năm học mới.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Nga Sơn, ngày 5 tháng 4 năm 2018
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép.
NGƯỜI VIẾT
Mai Thị Liên
Phan Thị Linh

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bài nói của Bác Hồ đăng báo Nhân Dân, số1645, ra ngày 14/9/1958;
về sau đưa vào sách “Hồ Chí Minh - Tuyển tập”, tập II, NXB Sự Thật, Hà Nội1980, trang 93
[2]. Phương pháp hướng dẫn trẻ làm quen với môi trường xung quanh” của
tiến sỹ HOÀNG THỊ PHƯỢNG
[3] Đào Thanh Âm (2002), giáo dục mầm non tập 1 NXB Đại học sư phạm

[4] Nguyễn Ánh Tuyết (2005) giáo dục mầm non- những vấn đề lý luận và
thực tiễn NXB Đại học sư phạm
[5] Học viện khám phá science Made fun - Nguyễn Thành Hải - Viện
Nghiên Cứu Giáo Dục STEM - ĐH Missouri, Mỹ
[6] Kinh nghiệm của cô Ngô Ái Phượng - Giáo viên Trường mầm non 10/3
Thành phố Buôn Ma Thuột (Đăc Lăk).


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNH KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Phan Thị Linh
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường MN Nga Yên

TT

1
2

3

4

5

Tên đề tài SKKN
Nâng cao chất lượng giáo
dục bảo vệ môi trường cho
trẻ 5-6 tuổi

Một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng
tuổi thông qua lời kể chuyện
Một số biện pháp tổ chức
sinh hoạt tuổi nuôi dưỡng
nhằm góp phần nâng cao chất
lượng bữa ăn và phòng chống
suy dinh dưỡng cho trẻ tại
Trường mầm non Nga Yên
Một số kinh nghiệm nâng cao
chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi
làm quen chữ viết ở Trường
mầm non Nga Yên
Một số kinh nghiệm nâng cao
chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi
làm quen chữ viết ở Trường
mầm non Nga Yên

Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh…)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A,B hoặc
C)

Năm học

đánh giá xếp
loại

Phòng
GD&ĐT

C

2008 – 2009

Phòng
GD&ĐT

C

2012 – 2013

Phòng
GD&ĐT

C

2013 – 2014

Phòng
GD&ĐT

A

2014 – 2015


Sở GD&ĐT

C

2014-2015


PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Các bảng khảo sát
1.Kết quả thực trạng ban đầu qua khảo sát: (thời điểm từ tháng 9 năm học
2017-2018)
Bảng khảo sát chất lượng trên trẻ 28 trẻ
Nội dung khảo sát
Khả năng nhận biết tên gọi đặc
điểm của đối tượng
Khả năng so sánh nhận xét giữa
các đối tượng
Khả năng phân nhóm, phân loại
theo dấu hiệu rõ nét
Suy luận, giải thích được mối
liên hệ đơn giản của hiện tượng
sự vật xung quanh

Tổng
số trẻ

Số trẻ đạt

Tỉ lệ

%

Chưa
đạt

Tỉ lệ
%

13

46,4

15

53,6

14

50

14

50

15

53,6

13


46,4

12

42,8

16

47,2

28

Phụ lục 2: Hình ảnh minh họa giải pháp 2.3.1

a, Hình ảnh Bác Hồ với các cháu thiếu niên nhi đồng


×