Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Lễ hội Hoa Ban trong thực tiễn phát triển du lịch tỉnh Điện Biên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 101 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THANH BẮC

LỄ HỘI HOA BAN
TRONG THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH ĐIỆN BIÊN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 8310630

LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS LÊ VĂN TẤN

HÀ NỘI, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Lễ hội Hoa Ban trong thực tiễn phát triển du
lịch tỉnh Điện Biên hiện nay” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, nội
dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn hợp lệ, đảm bảo độ tin cậy, tính
chính xác và trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình./.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018
Tác giả luận văn


Trần Thanh Bắc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ....................................................................... 6
1.1. Khái quát về lễ hội và lễ hội du lịch về hoa ......................................................... 6
1.2. Khái quát về tỉnh Điện Biên và lễ hội của các dân tộc tỉnh Điện Biên ................ 8
1.3. Cây hoa Ban trong môi trường tự nhiên và văn hóa xã hội của người Thái ở
Điện Biên................................................................................................................... 17
Chương 2. LỄ HỘI HOA BAN Ở ĐIỆN BIÊN TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN
HIỆN ĐẠI ..................................................................................................................... 30
2.1. Lễ hội Hoa Ban truyền thống ............................................................................. 30
2.2. Lễ hội Hoa Ban hiện đại..................................................................................... 36
2.3. Sự giống và khác nhau giữa Lễ hội Hoa Ban truyền thống và hiện đại ............. 44
2.4. Lễ hội Hoa Ban Điện Biên với một số lễ hội về hoa khác trong nước .............. 48
Chương 3. ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN VỀ LỄ HỘI HOA BAN VÀ CÁC VẤN ĐỀ
ĐẶT RA ĐỐI VỚI DU LỊCH TỈNH ĐIỆN BIÊN HIỆN NAY ............................... 51
3.1. Đánh giá thực tiễn về Lễ hội Hoa Ban Điện Biên ............................................. 51
3.2. Lễ hội Hoa Ban đối với việc phát triển du lịch tỉnh Điện Biên hiện nay ........... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 79
PHỤ LỤC ẢNH ........................................................................................................... 81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hoá không thể thiếu trong đời sống của các
dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, sự phong phú và đa dạng của các lễ hội không
những đã góp phần tạo dựng nên hệ thống bảo tàng sống, sinh động về đời sống tinh

thần của cộng đồng các dân tộc mà còn đang góp phần vào việc thúc đẩy các hoạt
động du lịch của mỗi địa phương. Hiện nay, việc đánh giá vai trò, sự tác động của các
lễ hội trong phát triển du lịch nói riêng và kinh tế, văn hóa, xã hội địa phương nói
chung là một việc làm cần thiết mang tính đồng bộ và khoa học. Tuy nhiên, vấn đề này
đang đặt ra những yêu cầu mới, đặc biệt là đối với lễ hội mang tính hiện đại như lễ hội
về hoa.
Điện Biên là tỉnh miền núi biên giới Tây bắc Tổ quốc, có nhiều lợi thế phát
triển du lịch. Với những tiềm năng lớn có thể khai thác phát triển đa dạng các loại hình
du lịch như: du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa cộng đồng, du lịch lịch sử,
du lịch tâm linh... Tuy nhiên, du lịch Điện Biên hiện nay đang đứng trước nhiều khó
khăn, thách thức. Nhiều mặt hạn chế đã và đang làm giảm khả năng thu hút khách du
lịch, kết quả đạt được chưa tuơng xứng với tiềm năng; hiệu quả kinh doanh còn thấp;
chất lượng dịch vụ chưa cao; công tác quảng bá, xúc tiến chưa được chú trọng, đầu tư
đúng mức; cách thức tổ chức chưa đồng bộ và khoa học... Điều này đặt ra cho du lịch
Điện Biên vấn đề cần phải đẩy mạnh khai thác tổng thể các giá trị cũng như những tiềm
năng riêng biệt vốn có để thúc đẩy nhanh sự phát triển du lịch trong tương lai.
Hoa Ban – một biểu tượng thẩm mỹ tự nhiên của Tây bắc đã được tỉnh Điện
Biên khai thác vào phát triển du lịch bằng việc xây dựng thành “Lễ hội Hoa Ban”. Đây
là lễ hội tôn vinh vẻ đẹp, ý nghĩa và giá trị của hoa Ban gắn với các giá trị lịch sử, văn
hóa truyền thống mang tính biểu trưng cho vẻ đẹp của đất và người Điện Biên. Lễ hội
Hoa Ban đã được tỉnh Điện Biên tổ chức qua 5 kỳ (năm 2014, 2015, 2016, 2017,
2018) và đã gặt hái được nhiều thành công, qua đó tạo điểm nhấn thu hút khách du lịch
đến với vùng Tây Bắc nói chung và tỉnh Điện Biên nói riêng. Lễ hội Hoa Ban đã được Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi nhận, đánh giá là Lễ hội tiêu biểu trong việc quảng bá,
thúc đẩy phát triển du lịch trên phạm vi toàn quốc. Do đó, việc nghiên cứu “Lễ hội hoa

1


Ban trong thực tiễn phát triển du lịch tỉnh Điện Biên hiện nay” là hết sức cần thiết góp

phần thúc đẩy phát triển du lịch nói riêng và kinh tế, văn hóa, xã hội nói chung của tỉnh
Điện Biên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lễ hội nói chung, lễ hội về hoa nói riêng có vai trò và ý nghĩa to lớn trong đời
sống văn hoá tinh thần của các địa phương và mang tính quốc gia dân tộc. Những năm
gần đây, trước sự phục hồi nhanh chóng của các lễ hội truyền thống và sự phát triển có
tính chất bùng nổ của lễ hội hiện đại, vấn đề lễ hội được các nhà nghiên cứu dành
nhiều sự quan tâm, nghiên cứu, đánh giá mức độ khác nhau.
Qua thực tế tìm hiểu, vấn đề nghiên cứu Lễ hội Hoa Ban trong phát triển du
lịch Điện Biên mới chỉ có một số bài viết ở dạng báo chí, tin bài đề cập trên các
phương tiện thông tin đại chúng khi lễ hội được tổ chức hàng năm. Có thể kể ra một số
bài viết tiêu biểu như: “Lễ hội Hoa Ban, thương hiệu của du lịch Điện Biên” của tác
giả Thùy Dương; “Chú trọng trồng cây hoa Ban để phát triển du lịch” của tác giả
Khánh Toàn; “Lễ hội Hoa Ban – Điểm nhấn của du lịch thành phố Điện Biên Phủ” của
tác giả Đào Duy Trinh; “Hoa Ban – Biểu tượng của tình yêu mãnh liệt” của tác giả
Cao Mỗ; “Điện Biên đón trên 11.000 lượt khách dịp Lễ hội Hoa Ban” của tác giả Phan
Anh; “Về miền Hoa Ban” của tác giả Mai Hoa; “Lễ hội Hoa Ban của người Thái ở Tây
bắc” của tác giả Lê Dung... trước đó, viết về hoa Ban có “Hoa Ban trong đời sống văn
hóa của người Thái ở Điện Biên” của TS. Đặng Thị Oanh... các bài viết, tác phẩm viết
về hoa Ban và Lễ hội Hoa Ban mới chỉ nêu được tính nổi bật, vai trò và ý nghĩa của Lễ
hội Hoa Ban ở mức độ điểm nhấn, chưa có những đánh giá từ tổng thể đến cụ thể và
định hướng mang tính tầm nhìn để phát triển du lịch tỉnh Điện Biên.
Có thể khẳng định, nghiên cứu về Lễ hội Hoa Ban trong thực tiễn phát triển
du lịch Điện Biên cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu độc lập, cụ thể và
riêng biệt nào.
Đề tài “Lễ hội Hoa Ban trong thực tiễn phát triển du lịch tỉnh Điện Biên hiện
nay” được thực hiện là sản phẩm nghiên cứu, đánh giá một cách khách quan, khoa học
có tính thực tiễn cao, không trùng lặp với bất cứ đề tài nào khác về Lễ hội Hoa Ban ở
Điện Biên hiện nay.


2


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài giới thiệu và cung cấp các tư liệu về Lễ hội Hoa Ban. Tôn vinh vẻ đẹp,
ý nghĩa và giá trị của hoa Ban gắn với lịch sử, văn hóa truyền thống mang tính biểu
trưng cho vẻ đẹp của đất và người Điện Biên. Đồng thời, giới thiệu về tiềm năng, thế
mạnh phát triển du lịch của tỉnh nhằm thu hút đầu tư, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội.
Đề tài đánh giá thực trạng quá trình xây dựng, tổ chức và những vấn đề đặt ra
đối với Lễ hội Hoa Ban qua các kỳ tổ chức (từ năm 2014 đến năm 2018). Từ đó đưa ra
những phân tích cụ thể, khách quan về các khía cạnh của lễ hội nhằm hướng đến việc
khai thác tối ưu các yếu tố lễ hội vào phát triển du lịch của tỉnh Điện Biên.
Từ việc nghiên cứu về Lễ hội Hoa Ban, đề tài góp phần bảo tồn, gìn giữ và
phát huy giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc Điện Biên gắn với phát triển du lịch. Đồng
thời, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến, đầu tư, tăng cường hợp tác, liên kết, phát huy thế
mạnh các loại hình du lịch lịch sử, văn hóa, sinh thái và tâm linh gắn với hoa Ban để
xây dựng Lễ hội Hoa Ban trở thành thương hiệu du lịch đặc trưng của tỉnh Điện Biên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu, nghiên cứu về Lễ hội Hoa Ban ở Điện Biên.
- Đánh giá thực tiễn quá trình tổ chức các kỳ Lễ hội Hoa Ban từ năm 2014
đến năm 2018 ở Điện Biên.
- Đặt ra những vấn đề về Lễ hội Hoa Ban trong thực tiễn phát triển du lịch
tỉnh Điện Biên hiện nay và trong tương lai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Lễ hội Hoa Ban trong thực tiễn phát triển
du lịch ở Điện Biên hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Tìm hiểu Lễ hội Hoa Ban và các hoạt động diễn ra trong quá trình tổ chức
Lễ hội Hoa Ban hàng năm.

3


- Đề tài tập trung tìm hiểu, đánh giá quá trình tổ chức và đề xuất hướng phát
triển Lễ hội Hoa Ban trong thực tiễn phát triển du lịch tỉnh Điện Biên hiện nay và
những năm tiếp theo.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên một số phương pháp chủ yếu sau đây:
- Phương pháp liên ngành của chuyên ngành Việt Nam học.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp các dữ liệu.
- Phương pháp tìm hiểu qua các công trình nghiên cứu, các văn bản pháp quy.
- Phương pháp miêu tả, so sánh – đối chiếu
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài có ý nghĩa cụ thể trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước
và của tỉnh Điện Biên theo tinh thần Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) và Nghị quyết số 13-NQ/TƯ ngày
10/9/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Điện Biên về “Xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Điện Biên đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
- Trên cơ sở hệ thống hóa các nguồn tài liệu, tư liệu về các Lễ hội Hoa Ban đã
được tổ chức từ năm 2014 đến nay, luận văn góp phần bổ sung, cung cấp tư liệu nghiên
cứu về lễ hội, văn hóa, du lịch tỉnh Điện Biên. Từ đó có một cách nhìn hệ thống về quá
trình tổ chức lễ hội gắn với phát triển du lịch nói riêng và kinh tế, văn hóa, xã hội nói
chung của tỉnh Điện Biên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn góp phần đánh giá về vị trí, vai trò cũng như đề cập đến những vấn
đề đặt ra đối với Lễ hội Hoa Ban ở Điện Biên hiện nay.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp vào thực tiễn tổ chức lễ hội:
các giải pháp, qui mô, nội dung, hình thức tổ chức… từ đó đưa ra những đề xuất, kiến
nghị phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của lễ hội trong những năm tiếp theo.
- Luận văn góp phần giáo dục tinh thần tự hào về quê hương, về văn hóa
truyền thống của cộng đồng các dân tộc cũng như ý thức bảo vệ và làm đẹp cảnh quan
tự nhiên tỉnh Điện Biên.

4


- Luận văn dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về văn
hoá lễ hội, du lịch ở các trường học; làm tư liệu, cẩm nang tham khảo trong việc tổ
chức du lịch, văn hoá lễ hội tại tỉnh Điện Biên.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận. Trong đó, phần nội dung
có kết cấu 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Lễ hội Hoa Ban Điện Biên từ truyền thống đến hiện đại
Chương 3: Đánh giá thực tiễn về Lễ hội Hoa Ban và các vấn đề đặt ra đối với
du lịch tỉnh Điện Biên hiện nay.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái quát về lễ hội và lễ hội du lịch về hoa
1.1.1. Khái niệm Lễ hội
Đối với phần lớn các tộc người trên thế giới, đặc biệt là nhóm cư dân nông
nghiệp, lễ hội giữ một vai trò quan trọng. Lễ hội chứa đựng nhiều mặt của đời sống xã

hội, văn hoá, chính trị, tâm lý, tôn giáo, là loại hình sinh hoạt văn hoá tập thể, phản
ánh tín ngưỡng, các sinh hoạt của cộng đồng các dân tộc.
Từ lâu ở Việt Nam, lễ hội gắn bó với làng xã như một phần tất yếu trong đời
sống. Những năm gần đây, do chính sách đổi mới, do những biến đổi không ngừng của
đời sống xã hội, do đời sống vật chất của nhân dân từng bước được cải thiện, các hoạt
động lễ hội đã được quan tâm tổ chức. Việc tìm hiểu cũng như cắt nghĩa khái niệm lễ
hội được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Cho đến nay, có nhiều cách gọi và sự giải thích khác nhau về thuật ngữ “lễ
hội”. Có người gọi lễ hội là “hội lễ”, có người gọi là “hội hè”, hay “hội hè đình đám”...
Tuy cách gọi và diễn đạt khác nhau, nhưng các ý kiến đó không mâu thuẫn mà thống
nhất với nhau trong một nội dung: Lễ hội là sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật
truyền thống của cộng đồng. Có thể thấy, khái niệm lễ hội bao gồm hai yếu tố “Lễ” và
“Hội”. Hai yếu tố này luôn tồn tại song song, bổ sung, hỗ trợ và hoàn thiện lẫn nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì:
- Lễ: là những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm một sự việc, sự
kiện có ý nghĩa nào đó [16, tr.540]. Lễ còn mang ý nghĩa bao quát mọi nghi thức ứng
xử của con người với tự nhiên và xã hội. Các nghi thức của lễ toát lên sự cầu mong
phù hộ độ trì của các thần và giúp con người tìm ra giải pháp tâm lý mặc dù phảng
phất chất linh thiêng huyền bí. [10, tr.12]. Ở Việt Nam, lễ chủ yếu tập trung trong các
nghi thức, nghi lễ liên quan đến sự cầu mùa, người an, vật thịnh. Có thể nói, lễ là phần
đạo, tâm linh của cộng đồng, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và đảm bảo nề nếp, trật tự
cho hội được hoàn thiện hơn.
- Hội: là cuộc vui tổ chức cho đông đảo người tham dự, theo phong tục hoặc
nhân dịp đặc biệt [16, tr .443]. Các hoạt động trò vui trong hội nhằm đem lại lợi ích

6


tinh thần, sự phấn khích, hoan hỷ cho mọi thành viên của cộng đồng. Hội mang tính
cộng đồng ngay cả trong tư cách tổ chức lẫn mục đích của nó.

Qua thực tế tìm hiểu, giữa lễ và hội khó tách rời mà quyện lại với nhau. Hẳn vì
thế mà có người gọi là “lễ hội” có người gọi là “hội lễ”, tuỳ thuộc vào từng loại lễ hội
mà nhấn mạnh mặt này hay mặt kia. Từ góc độ trên, ta có thể đi tới một khái quát
chung: “Lễ hội là một cuộc vui lớn của cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí, tín
ngưỡng, thi thố tài năng, biểu dương sức mạnh, tái hiện cuộc sống con người trong
trường kỳ lịch sử. Nó là một loại hình tổng hợp bao gồm nhiều yếu tố văn hoá dân
gian”. [5, tr.38].
Nhận thức được xu thế phát triển của lễ hội, ngày nay, việc tổ chức các hoạt
động lễ hội tại các địa phương là hoạt động nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng,
Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”[13]. Thông qua việc tổ chức các
lễ hội góp phần gìn giữ, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, khai thác các tiềm
năng độc đáo thúc đẩy phát triển du lịch địa phương.
1.1.2. Khái niệm Lễ hội du lịch
Ở Việt Nam, cứ mỗi độ xuân về trên khắp đất nước không khí lễ hội tràn ngập.
Những năm gần đây, nhân dân các địa phương từ cấp xã đến cấp tỉnh đã cố gắng tìm
cách khôi phục các ngày lễ lớn, hội làng (cả hội chùa và hội lễ đền miếu), cho đến hội
về hoa, quả... để tổ chức các lễ hội. Theo xu hướng đó, việc khôi phục, tổ chức các lễ
hội là dịp để bảo tồn, phát huy những nét đẹp cổ truyền, tươi mới, những đặc trưng của
địa phương. Đây chính là yếu tố quan trọng, tạo cơ hội cho ngành du lịch khai thác các
khía cạnh của lễ hội để phát triển.
Thực tế cho thấy, loại hình lịch lễ hội đã trở thành một nét đặc sắc, phong phú
mang đậm yếu tố truyền thống và hiện đại, tô điểm thêm nét văn hóa của dân tộc. Việc
tổ chức loại hình du lịch lễ hội có ý nghĩa to lớn trong quá trình phát triển đa dạng hóa
du lịch của các địa phương và quốc gia dân tộc.
Ngày nay, trước sự phục hồi nhanh chóng và có tính chất bùng nổ của lễ hội
hiện đại, loại hình du lịch lễ hội không chỉ được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm
mà các nhà làm du lịch còn đẩy mạnh khai thác một cách triệt để trong các phương


7


diện tổ chức du lịch. Bởi khai thác các khía cạnh về lễ hội để phát triển du lịch, quảng
bá hình ảnh địa phương, quốc gia dân tộc đang là hướng đi mang lại nhiều lợi ích.
1.1.3. Lễ hội du lịch về Hoa
Đã từ lâu, hoa luôn là biểu tượng của sắc đẹp, tình yêu và hạnh phúc tràn đầy.
Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều lễ hội về hoa, những
lễ hội này ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, có nhiều cấp độ tổ chức khác nhau
và để lại những hình ảnh gắn với nét văn hóa tốt đẹp của các địa phương, quốc gia, dân
tộc và vùng lãnh thổ.
Hiện nay, trên thế giới và ở Việt Nam rất nhiều nơi đã tổ chức các lễ hội về
hoa, có thể kể ra đây một số lễ hội hoa đặc sắc như: Lễ hội hoa Tulip ở thung lũng
Skagit, Washington; Lễ hội Battaglia di Fiori, Ventimiglia, Italy; Lễ hội Batalla de
Flores, Tây Ban Nha; Lễ hội hoa Medellin, Colombia; Lễ hội hoa Tulip, Canada; Lễ
hội hoa hồng tại Pasadena, California, Mỹ; Lễ hội hoa Genzano Infiorata, Italy; Lễ hội
hoa Anh Đào, Nhật Bản...
Ở Việt Nam gần đây có một số lễ hội về hoa như: Lễ hội hoa Tam giác mạch ở
Hà Giang được tổ chức vào tháng 11 hàng năm, bắt đầu từ năm 2015; Lễ hội hoa Đà
Lạt được tổ chức hai năm một lần với các chương trình vui chơi đặc sắc và vô cùng ấn
tượng; Lễ hội phố hoa Hà Nội được tổ chức các năm 2009, 2010, 2012 tại phố Đinh
Tiên Hoàng vào dịp Tết.... ngoài ra còn rất nhiều các lễ hội về hoa khác được diễn ra
tại các địa phương trong cả nước.
Qua thực tế tìm hiểu, mỗi địa phương có những đặc trưng về các loại hoa tạo
nên bản sắc địa phương độc đáo. Theo xu hướng phát triển hiện nay, các địa phương
đã tranh thủ khai thác các loại hoa vốn có, đặc trưng vào phát triển du lịch bằng nhiều
hình thức nhằm thu hút, quảng bá hình ảnh địa phương góp phần quan trọng đáp ứng
nhu cầu thẩm mỹ, thị hiếu thưởng thức của người dân cũng như đông đảo du khách.
1.2. Khái quát về tỉnh Điện Biên và lễ hội của các dân tộc tỉnh Điện Biên
1.2.1. Điều kiện tự nhiên - xã hội

1.2.1.1. Vị trí địa lý
Điện Biên là tỉnh biên giới miền núi thuộc vùng Tây Bắc của Tổ quốc, có tọa
độ địa lý 20o54’ - 22o33’ vĩ độ Bắc và 102o10’ - 103o36’ kinh độ Đông. Nằm cách Thủ
đô Hà Nội 504 km về phía Tây, phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Sơn La, phía Bắc

8


giáp tỉnh Lai Châu, phía Tây Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), phía Tây và Tây
Nam giáp CHDCND Lào. Là tỉnh duy nhất có chung đường biên giới với 2 quốc
gia Lào và Trung Quốc hơn 400km, trong đó: đường biên giới tiếp giáp với Lào là 360
km; với Trung Quốc là 40,86 km; có đường giao thông đi các tỉnh Bắc Lào và tỉnh
Vân Nam của Trung Quốc, có đường hàng không từ Điện Biên Phủ đi Hà Nội với tần
suất bay bình quân 02 chuyến/ngày. Tỉnh có 10 đơn vị hành chính cấp huyện với 130
xã, phường, thị trấn (trong số đó có 29 xã biên giới); dân số gần 55 vạn người, gồm 19
dân tộc anh em. Trên tuyến biên giới Việt – Lào, ngoài các cửa khẩu quan trọng đã
được mở là Huổi Puốc và Tây Trang, trên tuyến biên giới Việt - Trung có cặp cửa
khẩu A Pa Chải - Long Phú, còn 3 cặp cửa khẩu phụ khác sắp tới sẽ được mở.
Với vị trí địa lý thuận lợi như trên, sẽ là điều kiện và cơ hội rất lớn để Điện
Biên đẩy mạnh phát triển du lịch, thương mại quốc tế, tiến tới xây dựng địa bàn trung
chuyển chính trên tuyến đường xuyên Á phía Bắc, nối liền vùng Tây Bắc Việt Nam
với khu vực Bắc Lào - Tây Nam Trung Quốc và Đông Bắc Mianma.
1.2.1.2. Địa hình
Do ảnh hưởng của các hoạt động kiến tạo nên địa hình của Điện Biên rất phức
tạp, chủ yếu là đồi núi dốc, hiểm trở và chia cắt mạnh. Được cấu tạo bởi những dãy núi
chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam với độ cao biến đổi từ 200m đến hơn
1.800m. Ở phía Bắc có các điểm cao 1.085m, 1.162m và 1.856m (thuộc huyện Mường
Nhé), cao nhất là đỉnh Pu Đen Đinh cao 1.886m. Ở phía Tây có các điểm cao 1.127m,
1.649m, 1.860m và dãy điểm cao Mường Phăng kéo xuống Tuần Giáo. Xen lẫn các
dãy núi cao là các thung lũng, sông suối nhỏ hẹp và dốc. Trong đó, đáng kể có thung

lũng Mường Thanh rộng hơn 150km2, là cánh đồng lớn và nổi tiếng nhất của tỉnh và
toàn vùng Tây Bắc. Ở Điện Biên, núi bị bào mòn mạnh tạo nên những cao nguyên khá
rộng như cao nguyên A Pa Chải (huyện Mường Nhé), cao nguyên Tả Phình (huyện
Tủa Chùa). Ngoài ra còn có các dạng địa hình thung lũng, sông suối, thềm bãi bồi, nón
phóng vật, sườn tích, hang động castơ... phân bố rộng khắp trên địa bàn, nhưng diện
tích nhỏ.
Với tính đặc thù như trên, Điện Biên có những thuận lợi đáng kể trong việc khai
thác phát triển các loại hình du lịch tham quan, nghỉ dưỡng, thể thao, nghiên cứu, sinh
thái... tạo động lực góp phần phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.

9


1.2.1.3. Khí hậu
Điện Biên có khí hậu nhiệt đới gió mùa núi cao. Mùa Đông tương đối lạnh và ít
mưa; mùa hạ nóng, mưa nhiều, phân hoá đa dạng, chịu ảnh hưởng của gió tây khô và
nóng. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 21o – 23oC, nhiệt độ trung bình thấp nhất
thường vào tháng 12 đến tháng 2 năm sau (từ 14o – 18oC), các tháng có nhiệt độ trung
bình cao nhất từ tháng 4 - 9 (25oC) - chỉ xảy ra các khu vực có độ cao thấp hơn 500m.
Lượng mưa hàng năm trung bình từ 1.300 - 2.000mm, thường tập trung theo mùa, mùa
khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Độ ẩm trung bình hàng năm từ 76 84%. Số giờ nắng bình quân từ 158 – 187 giờ trong năm; các tháng có giờ nắng thấp là
tháng 6, 7; các tháng có giờ nắng cao thường là các tháng 3, 4, 8, 9. Ở Điện Biên, một
ngày có thể diễn ra bốn mùa.
Đặc điểm khí hậu của Điện Biên thuận lợi cho việc phát triển và sinh trưởng
của các thảm thực vật, các loại thực vật đặc thù trong đó có cây ban. Ngoài ra, với đặc
trưng kiểu khí hậu này sẽ tạo điều kiện phát triển các loại hình du lịch, đặc biệt là du
lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, các hoạt động du lịch tham quan, trải nghiệm.
1.2.1.4. Dân cư, dân tộc
Về dân cư, tính đến năm 2016, dân số của tỉnh Điện Biên là 557.400 người với
mật độ dân số là 58 người/km². Trong đó, dân số thành thị đạt 84.000 người và dân số

nông thôn đạt 473.400 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số của Điện Biên là 13,3 ‰ [2]
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tính đến năm 2009, tỉnh Điện
Biên có 19 dân tộc sinh sống bao gồm: Thái, H'Mông, Kinh, Dao, Khơ Mú, Hà Nhì,
Giáy, La Hủ, Lự, Hoa, Kháng, Mảng, Tày, Nùng, Mường... Trong đó, dân tộc Thái là
dân tộc có dân số đông nhất với 186.270 người, chiếm 38,4% dân số toàn tỉnh. Dân tộc
Mông xếp thứ hai với 170.648 người, chiếm 29,6% dân số toàn tỉnh. Dân tộc Kinh có
dân số đông thứ ba với 90.323 người, chiếm khoảng 20% dân số tỉnh. [7]
Về dân tộc, theo kết quả nghiên cứu khảo cổ học cho thấy. Những bằng chứng
vật thể và phi vật thể tại đây đã chứng minh một cách thuyết phục về bề dày lịch sử cư
trú của cộng đồng cũng như chiều sâu văn hóa của các dân tộc tỉnh Điện Biên. Với sự
hội tụ của 19 dân tộc anh em đang sinh sống ở Điện Biên là tiềm năng du lịch nhân
văn vô giá cho những du khách muốn tìm hiểu về đời sống các dân tộc ít người. Mỗi

10


dân tộc có những nét riêng về ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hóa... trong đời sống,
tạo thành bức tranh đa sắc màu cho nền văn hóa Điện Biên.
1.2.2. Tiềm năng phát triển du lịch ở tỉnh Điện Biên
1.2.2.1. Tiềm năng phát triển loại hình du lịch văn hóa - lịch sử
Điện Biên là vùng đất cổ, có nhiều di tích lịch sử gắn với công cuộc dựng nước
và giữ nước của dân tộc, tiêu biểu là các di tích như: Tháp Mường Luân, Thành Tam
vạn, Thành Bản Phủ, Đền thờ Hoàng Công Chất...
Đặc biệt, Điện Biên Phủ là một địa danh không chỉ làm sáng ngời lịch sử Việt
Nam mà còn được cả thế giới biết đến bởi nơi đây là chứng tích vĩ đại của quân và dân
Việt Nam mùa xuân năm 1954, trong cuộc đọ sức với quân đội viễn chinh Pháp mạnh
hơn gấp nhiều lần. Điện Biên tự hào có di tích quốc gia đặc biệt – chiến trường Điện
Biên Phủ (1 trong 10 di tích quốc gia đặc biệt của cả nước) với các di tích tiêu biểu,
tập trung hầu hết tại thành phố Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm chiến đấu, bộ đội Việt
Nam tiêu diệt và bắt sống 16.200 quân địch; bắn rơi và phá hủy 62 máy bay các loại,

đánh bại kế hoạch Na Va của Pháp và Mỹ. Buộc Pháp phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ
thừa nhận quyền độc lập và hòa bình của Việt Nam [1]
Gần 65 năm đã qua đi, tại đây vẫn lưu giữ nhiều chứng tích nằm rải rác khắp nơi
trong vùng: các trận địa pháo, xác máy bay, xe tăng địch, cầu Mường Thanh bắc qua sông
Nậm Rốm... Sau đây là một số hạng mục di tích trọng yếu nhất:
- Đồi Him Lam, trận đánh mở màn chiến dịch vào ngày 13/3/1954; Đồi Độc
Lập, là trận đánh chiếm cứ điểm này vào ngày 15/3/1954; Các đồi C, D, E là những
quả đồi diễn ra các trận đánh ác liệt, giành giật nhau từng tấc đất. Từ tháng 5/2014,
trên đồi D1 đã khánh thành Tượng đài Chiến thắng Điện Biên.
- Đồi A1, là điểm cao quan trọng nhất có tính quyết định ở chiến trường Điện
Biên Phủ.
- Sân bay Mường Thanh và cứ điểm 206 năm xưa nằm ở vị trí trung tâm của
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Hiện nay, sân bay được cải tạo, nâng cấp thành Cảng
hàng không Điện Biên Phủ trong hệ thống đường bay nội địa của Hàng không Dân
dụng Việt Nam.

11


- Hầm Sở chỉ huy quân đội Pháp (tướng De Castries). Vị trí hầm, hình dáng,
kích thước, cấu tạo của hầm chỉ huy... vẫn nguyên như nó vốn có, nằm ở gần cầu
Mường Thanh, ngay cạnh sân bay.
- Sở chỉ huy chiến dịch của bộ đội Việt Nam, cách trung tâm Mường Thanh
30km, trong một khu rừng nguyên sinh thuộc địa phận xã Mường Phăng. Tại đây có
lán làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, các
cố vấn, bộ phận giúp việc... Gần đó, trên đỉnh núi Pú Huốt đặt đài quan sát của sở chỉ
huy trong những ngày chiến dịch ác liệt mùa xuân năm 1954. Từ đài quan sát có thể
nhìn rõ toàn cảnh trận địa dưới lòng chảo Mường Thanh bằng mắt thường.
- Nghĩa trang liệt sỹ Quốc gia A1 có 644 mộ; nghĩa trang Quốc gia Độc Lập có
2.432 mộ; nghĩa trang Quốc gia Him Lam có 986 mộ; nghĩa trang Quốc tế Tông Khao

có 2.978 mộ liệt sỹ đã anh dũng hi sinh trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là điểm
đến tâm linh, quan trọng đối với khách du lịch khi đến với Điện Biên.
- Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ, được thiết kế theo hình chiếc mũ nan
lưới - niềm kiêu hãnh, tự hào và là nét đẹp của Bộ đội Cụ Hồ chiến sỹ Điện Biên năm
xưa. Hiện nơi đây hiện lưu giữ rất nhiều hiện vật mô tả khái quát toàn bộ cuộc chiến
đấu cực kỳ gian khổ của quân và dân Việt Nam để làm nên chiến thắng vang dội của
dân tộc mùa xuân 1954.
Hiện nay, quần thể di tích được giữ gìn, bảo quản nghiêm cẩn để các thế hệ
người Việt Nam và bạn bè năm châu tận mắt chứng kiến những chứng tích lịch sử ghi
đậm chiến công của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở thế kỷ XX.
Có thể khẳng định, những tiềm năng về các di tích lịch sử gắn với những chiến
công chói lọi của lịch sử dân tộc trên chính là tiền đề vô cùng quan trọng để Điện Biên
thúc đẩy phát triển loại hình du lịch lịch văn hóa – lịch sử với các dạng sản phẩm về:
Du lịch tham quan nghiên cứu, tìm hiểu; Du lịch văn hóa lễ hội, sự kiện lịch sử; Du
lịch thăm lại chiến trường xưa...
1.2.2.2. Tiềm năng phát triển loại hình du lịch văn hóa cộng đồng các tộc người
Những bằng chứng vật thể và phi vật thể tại đây đã chứng minh một cách thuyết
phục về bề dày lịch sử cư trú của cộng đồng cũng như chiều sâu văn hóa của các dân
tộc ở Điện Biên. Với sự hội tụ và sinh sống của 19 dân tộc anh em, dễ dàng nhận ra
bức tranh văn hóa và con người Điện Biên được thể hiện sinh động. Mỗi dân tộc đều

12


có những nét văn hóa đặc trưng riêng, gồm cả văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể,
có thể kể ra đây hai dân tộc tiêu biểu:
Dân tộc Thái với những thiết chế văn hóa xã hội truyền thống bản mường dựa
trên lãnh thổ. Dân tộc H'Mông với những thiết chế văn hóa dòng họ riêng của mình.
Ngoài ra, những đặc sắc về bức tranh muôn mầu về các dân tộc thiểu số khác ở Điện
Biên còn được thêu dệt nên bởi đặc trưng vốn có của các dân tộc: Kháng, Mảng, Khơ

Mú, Hà Nhì, Giáy, La Hủ, Lự, Hoa, Tày, Nùng, Mường, Kinh, Dao... Từ lâu, dấu ấn
về những ngôi nhà sàn duyên dáng chênh vênh bên sườn núi; khuôn mặt tươi trẻ trong
sắc phục riêng của những cô gái Thái, H'Mông, Hà Nhì... tình cảm lưu luyến khi tay
nắm tay trong đêm hội vòng xòe, hương vị đậm đà của những chén rượu ngô... Tất cả
những yếu tố trên đã tạo nên sự độc đáo riêng hấp dẫn nhiều du khách phương xa khi
có dịp lên thăm Điện Biên.
Hiện nay, nhiều bản văn hóa đã xây dựng hình thức du lịch du lịch cộng đồng tại
bản như: Bản Mển, Bản Co Mỵ, Bản Khá, Noong Chứn, Bản Tà Lơi... với các hình thức
tham quan trải nghiệm, thưởng thức văn hóa ẩm thực, giao lưu văn hóa cộng đồng. Hình
thức tổ chức này đã được đông đảo du khách thập phương và du khách quốc tế thích thú.
Có thể khẳng định, văn hóa các dân tộc ở Điện Biên thật sự là một bức tranh vô
cùng đặc sắc. Đây chính là tiềm năng to lớn trong việc khai thác phát triển du lịch
nhân văn, văn hóa cộng đồng các tộc người rất hấp dẫn đối với du khách, nhất là du
khách quốc tế.
1.2.2.3. Tiềm năng phát triển loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng
Với đặc thù là tỉnh miền núi, Điện Biên có tiềm năng lớn về hệ sinh thái rừng, sông
suối, hang động, hồ nước, nước khoáng nóng... đó là các vùng sinh thái tự nhiên khá lớn
là tiềm năng để khai thác phát triển các sản phẩm du lịch tham quan nghiên cứu với các
điểm cảnh quan, đa dạng sinh học, hang động... ở các khu vực như Mường Phăng, Pá
Thơm, khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé, Thị xã Mường Lay, hồ thủy điện Sơn La, Pe
Luông, đèo Pha Đin, động Pa Thơm, hang Thẩm Púa, động Xá Nhè... Khai thác tiềm
năng về du lịch nghỉ dưỡng, nghỉ cuối tuần, chữa bệnh: các khu tắm nước nóng U Va,
Pe Luông, hồ Pá Khoang, Bản Sáng... Khai thác các tiềm năng về du lịch thể thao leo
núi mạo hiểm kết hợp với các khu nghỉ dưỡng, khu tắm nước nóng.

13


Có thể khẳng định, tiềm năng về phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng ở Điện
Biên là rất lớn. Nếu được khai thác một cách khoa học, có sự đầu tư tập trung thì nơi

đây sẽ là điểm đến thú vị đối với nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.
1.2.2.4. Tiềm năng phát triển loại hình du lịch thương mại, công vụ
Với quan điểm: “Phát triển du lịch của tỉnh phải đặt trong mối quan hệ với du
lịch các tỉnh lân cận trong vùng Trung du miền núi phía bắc, đặc biệt là với thủ đô Hà
Nội và các tỉnh biên giới nước bạn để tạo thị trường khách ổn định, phù hợp với sản
phẩm du lịch mà Điện Biên có thể phát triển. Phát triển du lịch đồng bộ, toàn diện cả
du lịch văn hoá, sinh thái và nhiều loại hình du lịch khác để góp phần đa dạng hoá các
sản phẩm du lịch”. [3]
Điện Biên có tiềm năng và lợi thế để khai thác các sản phẩm du lịch dựa trên
loại hình du lịch thương mại, công vụ. Với các hình thức như việc tổ chức các hội
nghị, hội họp của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp... bên cạnh đó việc
tổ chức các hội chợ đã thu hút đông đảo các đơn vị trong và ngoài nước đến giao
thương trong đó có các tỉnh bắc Lào, Thái Lan, Trung Quốc.
Việc khai thác du lịch từ những sự kiện đặc biệt như tổ chức các lễ hội cũng là
một lợi thế không nhỏ đối với Điện Biên. Tổ chức lễ hội truyền thống như: Lễ Hạn
Khuống của người Thái; Lễ hội Đền Hoàng Công Chất; Lễ hội Mừng Măng mọc của
các dân tộc Mảng, Kháng, Xinh Mun, La Hủ, Khơ Mú, Phù Lá... có thể nói các lễ hội
ngày càng được khôi phục và tổ chức phong phú, đa dạng. Đặc biệt, từ năm 2014, Lễ
hội Hoa Ban được tổ chức thường niên đã trở thành thương hiệu riêng, đặc sắc của tỉnh
Điện Biên thu hút đông đảo khách du lịch thập phương.
Ngoài ra, hằng năm vào các dịp lễ kỷ niệm, khách du lịch các nơi tới Điện Biên
có thể tham gia trực tiếp vào các sự kiện, các lễ kỷ niệm lớn của tỉnh như: Kỷ niệm
Ngày giải phóng Điện Biên 7/5; kỷ niệm Ngày Thương binh – liệt sỹ 27/7 tại các
nghĩa trang lớn; kỷ niệm tình hữu nghị Việt – Lào... đây là dịp để Điện Biên thắt chặt
hơn nữa tình cảm gắn bó giữa các dân tộc, khách du lịch trong và ngoài nước.
1.2.3. Lễ hội của các dân tộc tỉnh Điện Biên
1.2.3.1. Khái quát lễ hội của các dân tộc tỉnh Điện Biên
Lễ hội dân gian các dân tộc tỉnh Điện Biên là những lễ hội được nảy sinh, lưu
truyền trong dân gian, do đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên tự nguyện tổ


14


chức vào những thời điểm nhất định hàng năm hoặc theo định kỳ vài năm một lần.
Theo các tư liệu nghiên cứu, Điện Biên có khoảng 37 lễ hội còn lưu giữ, trong
đó có 22 lễ hội được tổ chức thường xuyên, đây là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian
độc đáo, có ý nghĩa quan trọng, không thể thiếu trong đời sống của đồng bào các dân
tộc tỉnh Điện Biên. Về tên gọi của lễ hội tỉnh Điện Biên được gọi theo tiếng dân tộc chủ thể của di sản lễ hội đó, tên gọi thường phản ánh nội dung, mục đích, ý nghĩa của
lễ hoặc lễ hội như Xên bản (Cúng bản) của người Thái, Ua Nếnh (cúng bản) của người
Mông, Sê Sừ Ba Hư Chà (Lễ mừng cơm mới) của người Si La, Uých bích giác (uống
rượu măng) của người Khơ Mú…
Về loại hình, các lễ hội ở tỉnh Điện Biên chủ yếu thuộc lễ hội lịch sử như lễ hội
đền Hoàng Công Chất và lễ hội truyền thống. Lễ hội truyền thống lại chia thành các
nhóm như: lễ hội gắn với tín ngưỡng tôn giáo (Lễ cúng bàn vương của người Dao, Gạ
Ma Thố (cúng gốc cây to) của người Si La, Lau Pỉnh Phù (Cúng rừng) của Phù Lá, lễ
cúng bản của dân tộc Thái, Lào, Khơ Mú…; lễ hội gắn với lao động sản xuất: lễ cầu
mùa (dân tộc Khơ Mú, Khơ Mú, Xạ Phang, Si La, Sán Chay), lễ cầu mưa (dân tộc Khơ
Mú, Thái), lễ mừng cơm mới (dân tộc Thái, Hà Nhì, Xinh Mun, Kháng); các lễ hội gắn
với dòng tộc như Tù Su, Giù Su, Dù Tàu của người Mông; các lễ hội mang tính giải
trí như Nọ Pay Chiều của người Mông, Kin Chiêng của người Thái…
Về quy mô, lễ hội các dân tộc tỉnh Điện Biên chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ,
diễn ra trong không gian bản làng, dòng họ. Mỗi bản làng tự tổ chức theo cách riêng,
phù hợp với điều kiện của bản, dòng họ đó như cúng bản, Tù Su, cúng cầu mùa… Lễ
hội đền Hoàng Công Chất là lễ hội duy nhất được tổ chức với quy mô lớn ở tỉnh Điện
Biên, lễ hội nhằm tưởng nhớ công lao to lớn của Hoàng Công Chất - Người đã có công
đoàn kết các dân tộc xuôi ngược đánh đuổi giặc Phẻ. Một số lễ hội tổ chức với quy mô
vừa như Xên bản của người Thái, lễ cầu mưa của dân tộc Khơ Mú, hội Gầu Tào của
dân tộc Mông…) Đây là đều là những lễ hội được tổ chức tại bản, thu hút đông đảo bà
con trong bản, dòng họ tham gia ví dụ như Lễ Xên bản là lễ hội dược duy trì phổ biến
nhất, thường được tổ chức vào tháng 2, tháng 3 âm lịch hàng năm nhằm dâng lễ cho

chủ đất, chủ nước cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, con người khỏe
mạnh. Các lễ hội tổ chức với quy mô nhỏ như lễ hội Tù Su, Giù Su, Xên Pang Ả… các
lễ này chủ yếu gắn với quy mô là dòng họ. Con cháu của các dòng họ sinh sôi, phát

15


triển rồi di cư đi các vùng khác nhau sinh sống, cư trú nhưng đến dịp cúng dòng họ thì
họ tập trung về nhà trưởng họ để cùng nhau đóng góp, chuẩn bị các lễn vật dâng lên tổ
tiên và cùng tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí.
Đến với lễ hội là đến với cội nguồn tâm linh, là nơi mà sức sống và tinh thần
quả cảm của cộng đồng các dân tộc nơi đây được nuôi dưỡng và biểu đạt. Tất cả tạo
nên một rừng hoa rực rỡ sắc màu, đang cùng tỏa hương khoe sắc khắp đất trời Điện
Biên – Tây Bắc.
1.2.3.2. Vai trò, ý nghĩa của lễ hội các dân tộc tỉnh Điện Biên
a) Lễ hội các dân tộc tỉnh Điện Biên góp phần bình ổn tâm lí, đáp ứng nhu cầu
vui chơi, giải trí của người dân.
Có thể thấy, lễ hội là nơi đồng bào các dân tộc thiểu số gửi gắm ước mơ, khát
vọng về một cuộc sống thái bình, thịnh trị và thể hiện tấm lòng tri ân: “Uống nước nhớ
nguồn, đền ơn đáp nghĩa”. Lễ hội là một trong những môi trường tồn tại, nuôi dưỡng,
nơi thỏa mãn như cầu tín ngưỡng lành mạnh của người dân: các tín ngưỡng về thiên
nhiên, phồn thực, tín ngưỡng vạn vật hữu linh… được biểu hiện thông qua các nghi lễ
cầu cúng, hoạt động vui hội, trò chơi văn nghệ, ẩm thực…
b) Lễ hội các dân tộc tỉnh Điện Biên là môi trường bảo tồn giáo dục, lưu truyền
văn hóa truyền thống.
Lễ hội là môi trường lưu giữ văn hóa truyền thống bởi đây là một hình thức
sinh hoạt dân gian nguyên hợp, lễ hội truyền thống các dân tộc tỉnh Điện biên bao gồm
nhiều thành phần khác nhau như tín ngưỡng, văn học dân gian (các truyền thuyết,
truyện cổ), trang phục cổ truyền, ẩm thực dân tộc, văn nghệ dân gian, diễn xướng (dân
ca, dân vũ), trò chơi, tri thức dân gian… các thành phần này có mối quan hệ mật thiết,

hữu cơ với nhau, cùng hỗ trợ nhau để tồn tại. Lễ hội các dân tộc góp phần giáo dục
lòng tự hào về văn hóa truyền thống các tộc người.
c) Lễ hội các dân tộc tỉnh Điện Biên tăng cường mối quan hệ đoàn kết, gắn bó
giữa các thành viên trong cộng đồng gia đình, bản làng, xã hội.
Lễ hội truyền thống được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài và là
phương tiện quan trọng để truyền tải các giá trị truyền thống đến thế hệ sau; là chất kết
dính của các thế hệ, các cộng đồng dân cư; là cầu nối cho việc đối thoại thông tin, trân
trọng các giá trị văn hóa. Lễ hội các dân tộc tỉnh Điện Biên là môi trường thuận lợi để

16


tăng cường, thắt chặt tình đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc cũng như các thành viên trong
gia đình và xã hội, góp phần quan trọng vào việc điều chỉnh, quản lí các quan hệ xã hội,
các hành vi, các nguyên tắc đạo đức, quan hệ gia đình, làng bản...
d) Lễ hội các dân tộc tỉnh Điện Biên góp phần phát triển kinh tế văn hóa, du
lịch; bảo vệ môi trường sinh thái, an ninh địa phương; xây dựng văn hóa các dân tộc
Điện Biên tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Lễ hội các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên là động lực, nền tảng để xây dựng
một xã hội công bằng dân chủ. Đồng thời, là cơ sở phương tiện để phát triển, sáng tạo
nền văn hóa hiện đại hài hòa với môi trường tự nhiên, bảo vệ sinh thái, là tiềm năng phát
triển du lịch văn hóa.
Như vậy có thể thấy, với sự phát hiện của xã hội hiện nay, nhiều yếu tố văn hóa
truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một thì lễ hội các dân tộc tỉnh Điện Biên
được xem là môi trường đã sinh ra, nuôi dưỡng và giữ gìn các phong tục tập quán đặc
trưng. Đặc biệt, các lễ hội là nền tảng, tiền đề tạo động lực để khai sinh các lễ hội mới,
độc đáo, trọn vẹn hơn.
1.3. Cây hoa Ban trong môi trường tự nhiên và văn hóa xã hội của người
Thái ở Điện Biên


1.3.1. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển của cây hoa Ban
Cây Ban Trắng có tên khoa học là Bauhinia variegata, là loại cây thân gỗ có thể
cao đến hơn chục mét. Cây hoa Ban thích hợp với mọi kiểu địa hình núi thấp, địa hình
núi cao, địa hình bị chia cắt từ đơn giản đến phức tạp. Loại đất phù hợp với cây hoa
Ban là: Đất Feralit màu nâu đỏ, nâu vàng, xám nhạt phát triển trên đá mẹ Granit, Phiến
thạch Mica và Phiến thạch sét với độ dầy tầng đất sâu trên 80cm; thành phần cơ giới
thịt nhẹ; Độ PH trên dưới 6,0; Thực bì khu vực cây hoa Ban sống có trạng thái IA thực
bì chủ yếu là cỏ Lào, Lau lách, Chít sinh trưởng, phát triển trung bình.
Khí hậu, thời tiết phù hợp với đặc điểm sinh trưởng của cây hoa Ban là vùng khí
hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9, mùa
này nóng, ẩm, mưa nhiều; mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, mùa này lạnh và
khô hanh. Nhiệt độ trung bình năm là 25oC (nhiệt độ cao nhất tuyệt đối là 38o C; nhiệt
độ thấp nhất tuyệt đối là 3oC). Lượng mưa bình quân/năm từ 1600 - 2000mm (lượng
mưa tháng cao nhất vào các tháng 7, 8, trung bình 400mm/tháng; lượng mưa tháng thấp

17


nhất vào các tháng 1, 12, lượng mưa từ 20 - 30 mm/tháng). Cây Ban chịu ảnh hưởng của gió
mùa Tây Nam (gió Lào), khô và nóng vào các tháng 3,4,5 cũng trong thời gian này
thường xuất hiện từ 2 - 3 trận giông kèm theo mưa đá.
Cây hoa Ban mọc nhiều ở một số nơi như: Đèo Pha Đin, dẫy núi Pú Minh (xã
Pú Nhung – Tuần Giáo), đồi bản Chăn (Quài Nưa – Tuần Giáo), xã Keo Lôm (Điện
Biên Đông), khu vực Thành phố Điện Biên Phủ và vùng lân cận…
Lá Ban rất xanh tốt, có hình móng chân bò. Mùa xuân cây Ban đâm chồi nẩy
lộc, nở hoa kết quả, mùa hè cây ban nhanh chóng hút khí ẩm của đất trời để xòe rộng
cành, xanh thêm lá. Vào cuối hè, lá Ban chuyển màu xanh sẫm hơn, sang thu lá ngả
dần sang màu vàng úa rồi theo những trận gió heo may lá rụng rơi đầy gốc.
Hoa Ban năm cánh, hình cánh bướm, màu trắng pha sắc tím. Gọi là hoa Ban vì
nó có vị ngọt (trong tiếng Thái, “Ban” có nghĩa là “ngọt”, “hoa Ban” là “hoa ngọt”).

Vị ngọt này được các loại ong bướm rất ưa chuộng. Hoa Ban có năm cánh, trong năm
cánh này có một cánh chủ, người Thái gọi là “cánh chúa”. Cánh chúa có cấu tạo hình
dạng giống bốn các kia nhưng nếu nhìn kĩ ta sẽ nhận ra thấy sự khác biệt rõ rệt.
Quả Ban giống như quả bồ kết, khi quả già khô, hạt được tách ra theo gió bay
xa, phát tán đi muôn nơi. Hạt Ban đậu ở đâu có thể nẩy mầm đâm rễ phát triển tốt ở
đó. Vì thế nên những người ở Điện Biên gọi cây Ban là loại cây tiên phong [14].
1.3.2. Vai trò của cây hoa Ban trong môi trường tự nhiên ở Điện Biên
Là tỉnh miền núi nên Điện Biên có tiềm năng lớn về rừng. Toàn tỉnh có
350.854,79ha đất lâm nghiệp có rừng (chiếm 48,46% diện tích đất nông nghiệp của
tỉnh). Trong đó: Rừng sản xuất chiếm 30,95%; rừng phòng hộ 55,31% và rừng đặc
dụng chiếm 13,74% [3]. Trong toàn bộ diện tích đó, rừng Ban có vai trò quan trọng
trong việc tạo nên cảnh quan và có tác động mạnh mẽ đến các yếu tố khí hậu, đất đai,
thành phần khí quyển trong vùng.
Cây hoa Ban xanh quanh năm, những lớp lá của cây Ban như một bộ phận
trong lá phổi siêu cấp của thiên nhiên Tây Bắc, nó góp phần làm sạch không khí và có
ảnh hưởng lớn đến vòng tuần hoàn các-bon trong tự nhiên. Các nhà khoa học đã khẳng
định rằng: “Rừng Ban nói riêng cũng như các loại rừng khác nói chung được xem như
nhà máy lọc bụi khổng lồ, trung bình mỗi năm 1 ha rừng có khả năng hút 36,4 tấn bụi
từ không khí [8].

18


Bên cạnh đó, rừng Ban có vai trò quan trọng trong việc tăng độ màu mỡ cho
đất. Những cây Ban đã tạo mùn cho đất: lá, hoa, quả ban rụng xuống đất, là cơ sở ban
đầu hình thành lớp mùn trên mặt đất. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, cây Ban hút
các chất khoáng từ trong lòng đất để nuôi cơ thể nhưng nó cũng không ngừng trả lại
chất cho đất dưới các hợp chất hữu cơ. Các chất này qua quá trình phân hủy (khoáng
hóa) đã tạo lại độ phì nhiều cho đất. Quá trình này tạo điều kiện khép kín vòng tuần
hoàn chất định dưỡng khoáng cho đất.

Việc trồng cây hoa Ban tại các điểm di tích lịch sử, một số tuyến đường tại
thành phố Điện Biên Phủ và các địa phương trong tỉnh góp phần tạo hệ thống cây xanh
làm cho môi trường sinh thái xanh, sạch, đẹp. Đặc biệt là quần thể cây hoa Ban tạo
điểm nhấn, gây ấn tương sâu sắc cho du khách trong nước và quốc tế về mảnh đất lịch
sử Điện Biên Phủ trong các dịp lễ hội.
1.3.3. Hoa Ban trong đời sống văn hóa xã hội của người Thái ở Điện Biên
1.3.3.1. Hoa Ban trong đời sống sinh hoạt của người Thái ở Điện Biên
Bên cạnh vai trò vô cùng quan trọng đối với môi trường tự nhiên, cây hoa Ban
còn có ý nghĩa, vai trò vô cùng đặc biệt trong sinh hoạt của người Thái ở Điện Biên.
Từ hoa, lá, vỏ, rễ, thân cây Ban… tất cả đều có rất nhiều ích lợi với đời sống hàng
ngày của người Thái.
Hoa, lá non, quả Ban già có thể chế biến thành món ăn vừa ngon vừa bổ, vừa có
lợi cho sức khỏe lại vừa có thể chữa trị một số bệnh, đặc biệt là bệnh đường ruột… Vỏ
Ban giã nhỏ vắt lấy nước đem nhuộm vải màu hồng rất đẹp, thân cây Ban có thể dùng
vào rất nhiều việc phục vụ cuộc sống. Vì Trọng Liên đã viết: “Vỏ cây hoa Ban để
nhuộm màu hồng tươi, lá Ban non làm rau ăn, quả già có hạt hình cúc áo màu vàng
rang ăn đượm vị lạc…”[11].
Trong quan niệm của người Thái, hoa Ban tượng trưng cho mơ ước hạnh phúc,
khát vọng yêu thương, ước mơ trường thọ của thiên nhiên, hoa Ban còn là hoa của
chàng rể hoa, của lòng biết ơn, đạo hiếu thảo, hoa của vẻ đẹp nhân nghĩa, bất khuất,
kiên cường, giàu lòng thủy chung… Vì thế trong đời sống tinh thần của người Thái,
hoa Ban có vai trò thật đặc biệt, nó có mặt trong rất nhiều phong tục, tập quán, lễ hội
của người Thái: “Hội hái hoa Ban”, “Hội xòe xuân”, “Lễ uống rượu măng”, “Cúng
bản, cúng mường”, “Cúng giổ tổ liên đầu năm”… Trong những lễ hội này, người Thái

19


thường dùng hoa Ban làm lễ vật dâng cúng để bày tỏ khát vọng sống, khát vọng lứa
đôi, tấm lòng kính yêu, biết ơn chân thành với tổ tiên, với các thế lực siêu nhiên.

Từ lâu, hoa Ban đã là một hiện tượng tự nhiên và thân thuộc trong thiên nhiên
Tây bắc. Mùa Ban nở rộ các cụ già người Thái thường có tập quán nhìn Ban nở để dự
đoán thời tiết mùa màng trong năm. Họ quan niệm rằng, năm nào vào đúng tuần cữ
hoa Ban nở rộ đều một lượt ngan ngát cả rừng, cả suối là năm ấy mưa không dai quá,
nắng không dữ quá, người ta không lo nhiều về lũ lụt, hạn hán chỉ cần tăng sức cần cù
là mùa Ban nở rộ sẽ gọi về một mùa lúa chín bội thu.
Trong văn hóa hái lượm rau rừng của người Thái, hoa Ban và lá non cũng đóng
một vai trò đáng kể. Thảm thực vật ở Tây Bắc nói chung, Điện Biên nói riêng vô cùng
phong phú và giàu có (lá, rễ, cù, quả, vỏ, măng, hoa, dong, rêu, chồi non, lộc, búp,
ngọn, nấm, mộc, nhĩ…), hoa Ban và lá Ban non, chỉ là một trong nhiều loại thức ăn
thực vật này. Với số lượng nhiều, chủng loại phong phú như vậy hoa ban cùng với các
loại thức ăn thực vật trên đã tạo ra và giữ lại lâu dài cho người Thái và bà con các dân
tộc Tây Bắc nét văn hóa hái lượm rau rừng. Trong các bữa ăn hàng ngày, người Thái
thường sử dụng các loại rau đã hái lượm được ở rừng. Việc trồng rau ở vườn nhà của
người Thái kém phát triển, họ chỉ trồng hành, rau thơm trong vườn và với diện tích
nhỏ hẹp hoặc trồng trên các máng đất đặt trên sàn nhà.
1.3.3.2. Hoa Ban trong đời sống tâm linh người Thái ở Điện Biên
Từ lâu, hoa Ban được xem là loài hoa biểu trưng và gắn liền với đời sống vật
chất cũng như văn hóa tâm linh của đồng bào dân tộc Thái. Mỗi dịp xuân về, khi hoa
Ban nở trắng núi rừng Tây Bắc, trai – gái trong những bản mường lại rủ nhau họp mặt
ca hát nhảy múa mừng mùa hoa Ban và bày tỏ tình yêu đôi lứa với ước mơ, hi vọng sẽ
có được một tình yêu thủy chung son sắc. Và tình yêu cũng chính là yếu tố đầu tiên
quyết định việc giải mã các vấn đề liên quan đến lịch sử, phong tục, sinh hoạt tín
ngưỡng, hay các điệu múa, bài hát, lễ hội gắn với hoa Ban trong truyền thuyết của một
dân tộc có truyền thống cư ngụ lâu đời ở khu vực Tây bắc.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có một nghiên cứu chính thức nào về đời sống, văn
hóa tâm linh, tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Thái gắn với hoa Ban, tất cả mới chỉ
dừng ở góc độ ghi chép, sưu tầm, thậm chí có rất nhiều thông tin không trùng khớp, dị
bản... Để tìm hiểu thực tế về hoa Ban trong đời sống tâm linh của người Thái, tôi có


20


dịp đến thăm nhà nghệ nhân ưu tú Mào Ết, ông hiện là Phó Chủ tịch Hội Văn học
Nghệ thuật Thành phố Điện Biên Phủ. Câu chuyện ngày đầu xuân không thể thiếu
chén rượu cẩm và khi men rượu thấm dần, nghệ nhân ưu tú Mào Ết như trút hết những
hiểu biết của mình về hoa Ban - loài hoa gắn liền với đời sống vật chất cũng như văn
hóa tâm linh của đồng bào dân tộc Thái mà ông là một đại diện tiêu biểu.
Yếu tố tâm linh của hoa Ban trong đời sống của người Thái thể hiện trong cách
chế biến món ăn từ hoa Ban: vị ngọt xen lẫn vị chát, có tính âm - dương hài hòa, và là
kết tinh của tình yêu đôi lứa do đó người dân tộc Thái quan niệm những món ăn chế
biến từ hoa Ban là mạch nguồn nuôi dưỡng sẽ giúp cho nòi giống của người Thái sinh
sôi, phát triển và cũng mong cho tình yêu sau này của con cháu họ được bền chặt,
không bị ngăn cản, gặp trắc trở và đôi lứa yêu nhau sẽ được ở bên nhau.
Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào nói đến rễ của cây hoa Ban có tác dụng
như thế nào, lý giải về điều này, nghệ nhân ưu tú Mào Ết chia sẻ thêm rằng: “Khi người
đồng bào dân tộc Thái phát nương làm rẫy họ tuyệt đối tránh động vào rễ loài cây này, khi
sử dụng trong ẩm thực cũng không động đến bộ rễ bởi cây ban có sức sống tiềm tàng,
mãnh liệt, dù là trên đất dốc, đất cằn hay đồi trọc ban vẫn có thể vươn mình sinh sôi vì thế
nếu có cháy rừng xảy ra, chỉ cần là bộ rễ còn thì đến mùa xuân núi rừng lại có thể trắng
muốt một màu hoa Ban” là vì lý do như vậy.
Trước kia, người Thái thường có tục thờ cúng hoa Ban vào mỗi dịp xuân về,
bởi họ cho rằng thưởng thức hoa Ban sẽ được hưởng lộc có thể sống hạnh phúc bên
người mình yêu, hay mùa xuân có thể tìm được bạn tình, bạn tri kỷ, tuy nhiên sau đó
phong tục này dần bị mai một, thay vào đó, giờ đây khi hoa Ban nở trắng, trai – gái
trong những bản mường lại rủ nhau đi hái hoa Ban hay họp mặt ca hát nhảy múa mừng
mùa hoa Ban và cũng là để bày tỏ tình cảm của mình với ước mơ, hi vọng sẽ có được
một tình yêu đôi lứa thủy chung son sắc như nàng Ban và chàng Khum khi xưa. Đây
cũng là một trong những yếu tố khi góp phần khai sinh lễ hội hoa Ban hiện đại.
1.3.3.3. Hoa Ban trong văn hóa ẩm thực của người Thái ở Điện Biên

Trong văn hóa ẩm thực của người dân tộc Thái ở Điện Biên, các món ăn được
chế biến từ hoa Ban đóng một vai trò đáng kể. Nó là một trong những loại thức ăn thực
vật tương đối đặc biệt trong thị hiếu ẩm thực của người dân nơi đây, bởi hoa Ban chỉ

21


nở duy nhất một lần trong năm vào mùa xuân, các mùa khác khó có thể tìm được món
ăn này (trừ một số vùng có nhiều hoa ban người dân hái về làm khô cất đi để ăn dần).
Người Thái thường sử dụng hoa và lá Ban để làm các món ăn như: hoa Ban
hầm móng giò, hoa Ban xào thịt lợn rừng, hoa Ban đồ, hoa Ban nộm vừng, canh hoa
Ban, đồ xôi hoa Ban, lá Ban non làm đồ chấm “chéo cá” (chéo pa)... các món ăn này
đều rất ngon, thú vị và dễ ăn, ở từng món có vị riêng rất khác nhau. Chẳng hạn: Món
hoa Ban hầm chân giò thì có vị hơi chát, hơn ngọt, rất bùi của hoa Ban dung hòa với vị
béo ngậy của thịt chân giò khiến bát canh hầm này ăn không bị ngấy, nước canh ngọt
đậm đà lại dễ ăn, trông lại rất đẹp mắt, hấp dẫn đến độ “me nai cai nả lưng tuộng”
(được ăn thứ ấy, mẹ vợ qua trước mắt cũng quên cả chào – Phương ngôn Thái)
Các món nộm hoa Ban thì vô cùng độc đáo. Vào giữa mùa xuân mà được ăn
món nộm hoa Ban vừa ngọt, vừa chua lại vừa bùi và thơm dịu mát thì thật thú vị, nhất
là đối với những người uống được rượu thì đây là món khoái khẩu đối với họ. Chẳng
thế mà các cô gái Thái thường dùng món nộm này để bày tỏ tình cảm với người mình
yêu và các chàng trai dù có đi xa đến đâu cũng vẫn nhớ về họ, nhớ về món ăn độc đáo
và thắm đượm tình nghĩa.
Bên cạnh món nộm hoa Ban thì món hoa Ban đồ là món ăn thông dụng thường
thấy trong gia đình người Thái. Món này rất hợp với nước chấm được chế biến từ quả
nhót chín (mùa ban nở rộ cũng chính là mùa nhót chín). Người Thái thường hái quả
nhót về giã lấy nước trộn với một chút muối, ớt, mì chính, tỏi để làm thành thứ nước
chấm, để chấm hoa Ban đồ thì độ ngon của món này sẽ tăng lên rất nhiều lần.
Lá Ban non có vị chát nên muốn ăn món lá Ban non đồ cho thật ngon thì phải
chấm món này với “chéo pa” - một thứ nước chấm rất đặc biệt của người Thái. Các món

ăn được chế biến từ hoa và lá Ban không chỉ là những món ăn ngon mà nó còn có tác
dụng điều trị một số bệnh, như bệnh đường ruột, giải nhiệt cơ thể. Phần rễ của cây Ban
đỏ là một trong những vị thuốc mà người Thái dùng để chữa bệnh về gan, bệnh dạ dày.
Tìm hiểu văn hóa ẩm thực với các món ăn chế biến từ cây hoa Ban sẽ thấy rõ
hơn cái độc đáo, cái tinh xảo, cái tao nhã trong “nghệ thuật ẩm thực” của người Thái.
Đồng thời ta cũng thấy rõ vai trò của cây Ban trong sinh hoạt, tập quán, tín ngưỡng
cũng như những kinh nghiệm dân gian trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe thông
qua ăn uống.

22


×