Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng quỹ đất công ích trên địa bàn huyện mộ đức, tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH MINH HẢI

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ,
SỬ DỤNG QUỸ ĐẤT CÔNG ÍCH TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN MỘ ĐỨC, TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH MINH HẢI

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ,
SỬ DỤNG QUỸ ĐẤT CÔNG ÍCH TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN MỘ ĐỨC, TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
:
838.01.02



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp
nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng quỹ đất công ích trên địa bàn huyện Mộ
Đức, tỉnh Quảng Ngãi” là công trình nghiên cứu độc lập, do chính tôi hoàn
thành. Các tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực
và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào, các thông tin trích dẫn
trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Vậy tôi viết lời cam đoan này kính đề nghị Học viện khoa học xã hội
xem xét cho phép tôi được bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Đinh Minh Hải


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
QUẢN LÝ, DỤNG QUỸ ĐẤT CÔNG ÍCH.................................................. 6
1.1. Khái niệm và vai trò của quản lý, sử dụng quỹ đất công ích ..................... 6
1.2. Chủ thể, nội dung và phương thức quản lý quỹ đất công ích .................. 14

1.3. Chủ thể, nội dung, yêu cầu sử dụng quỹ đất công ích ............................. 21
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG QUỸ ĐẤT
CÔNG ÍCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MỘ ĐỨC, TỈNH QUẢNG
NGÃI .............................................................................................................. 34
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và thực trạng quản lý, sử dụng quỹ
đất công ích trên địa bàn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi ........................... 34
2.2. Đánh giá thực trạng quản lý quỹ đất công ích trên địa bàn huyện Mộ
Đức, tỉnh Quảng Ngãi ..................................................................................... 44
2.3. Đánh giá thực trạng sử dụng quỹ đất công ích trên địa bàn huyện Mộ
Đức, tỉnh Quảng Ngãi ..................................................................................... 52
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ, SỬ
DỤNG QUỸ ĐẤT CÔNG ÍCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MỘ ĐỨC,
TỈNH QUẢNG NGÃI ................................................................................... 57
3.1. Các giải pháp chung nâng cao hiệu quả quản lý quỹ đất công ích .......... 57
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ đất công ích trên địa bàn
huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi .................................................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.3. Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp năm 2015 của huyện Mộ
Đức .................................................................................................................. 38
Bảng 2.1. Cơ cấu đất công ích trên địa bàn huyện Mộ Đức năm 2015 .......... 41
Bảng 2.2. Diện tích đất công ích của các xã trên địa bàn huyện Mộ Đức
năm 2015 ......................................................................................................... 42

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu sử dụng đất năm 2015 tại huyện Mộ Đức ...................... 38
Biểu đồ 2.2. Cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp năm 2015 tại huyện Mộ Đức . 39



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất là một bộ phận hợp thành quan trọng của môi trường sống, không chỉ
là tài nguyên thiên nhiên mà còn là nền tảng để định cư và tổ chức hoạt động
kinh tế, xã hội, không chỉ là đối tượng của lao động mà còn là tư liệu sản xuất
đặc biệt không thể thay thế trong sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp là một
hoạt động có từ xa xưa của loài người và hầu hết các nước trên thế giới đều
phải xây dựng một nền kinh tế trên cơ sở phát triển nông nghiệp dựa vào khai
thác tiềm năng của đất, lấy đó làm bàn đạp cho việc phát triển các ngành khác.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, nhu cầu sử
dụng đất ngày càng đa dạng và trở nên là vấn đề cấp thiết, cần có một cơ chế
quản lý hiện đại, thích hợp và sử dụng tiết kiệm hơn nguồn nguyên liệu quý giá
này. Tuy nhiên, với diện tích đất rộng khắp trên cả nước, với nhiều loại đất
được phân chia khác nhau, thì đội ngũ quản lý, các cơ quan chức năng về đất
đai hiện nay là chưa cân bằng, chưa đủ để làm tốt công tác kiểm tra, giám sát
về khai thác và sử dụng đất. Bên cạnh đó, còn có nhiều nguyên nhân khác nữa
tác động đến việc quản lý và sử dụng đất ở nước ta hiện nay, do đó mà pháp
luật đất đai còn nhiều sơ hở, trong một số lĩnh vực, một số khâu, của hoạt động
quản lý, sử dụng còn nhiều thiếu sót và hạn chế.
Quản lý nhà nước đối với đất công ích là một vấn đề còn nhiều bất cập,
đó là loại đất được hình thành, với sự tự chủ trong việc xin giao, tự chịu trách
nhiệm quản lý và sử dụng đất công ích, của chính quyền địa phương. Diện
tích đất để lại, chủ yếu nhằm giải quyết tốt việc cải tạo và chỉnh trang diện
mạo nông thôn, làm cơ sở hạ tầng phát triển mọi mặt của địa phương. Sau hơn
20 năm thực hiện giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân theo Nghị
định số 64/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ, chủ trương này đã góp
1



phần phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết được mối quan hệ lợi ích giữa
người sản xuất nông nghiệp và Nhà nước, không ngừng cải thiện, nâng cao
đời sống người nông dân. Tuy nhiên, trên thực tế việc quản lý và sử dụng quỹ
đất nông nghiệp nhất là đất nông nghiệp công ích còn gặp nhiều khó khăn, bất
cập.
Pháp luật đất đai quy định, mỗi xã phường, thị trấn được lập và để lại
quỹ đất công ích không quá 5% tổng diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn xã
(Luật Đất đai 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm
1998, 2001, Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013); không quá 5%
đối với đất trồng cây hàng năm, lâu năm và đất nuôi trồng thủy sản để phục
vụ cho nhu cầu công ích của địa phương.
Khái niệm quỹ đất công ích được quy định thành định chế cụ thể từ khi có
Luật Đất đai năm 1993, sửa đổi bổ sung một số điều Luật Đất đai năm 1998,
2001; Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013. Tuy nhiên trong thực tế
khái niệm về đất công ích và quản lý sử dụng đất công ích vẫn còn bỏ ngỏ đối
với các cấp quản lý và bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém …
Huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi là địa bàn nằm gần trung tâm tỉnh lỵ,
có nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và nâng
cao thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, do đa số dân cư ở đây sống bằng nông
nghiệp trong khi thu nhập từ nông nghiệp không cao, từ đó gây áp lực lên việc
sử dụng đất đai ngày càng lớn.
Trong những năm qua, quỹ đất công ích trên địa bàn huyện được khai
thác và sử dụng có hiệu quả. Tuy nhiên, công tác quản lý quỹ đất nông nghiệp
nói chung và quỹ đất công ích nói riêng vẫn còn nhiều bất cập và vướng mắc
cần được tháo gỡ trong thời gian tới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng
đất công ích.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Đánh giá thực
2



trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng quỹ đất công
ích trên địa bàn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta hiện nay, nội dung quản lý, sử dụng quỹ đất công ích ít có đề tài
nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này, có một số đề tài nghiên cứu về lĩnh vực
này như:
- Luận văn thạc sĩ “Thực trạng quản lý và sử dụng đất công ích tại
thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên” của tác giả Nguyễn Vũ Thụy năm 2015.
- Luận văn thạc sĩ “Quản lý quỹ đất công ích trên địa bàn quận Long
Biên, thành phố Hà Nội” của tác giả Ngô Ngọc Tuấn năm 2016.
Vì vậy, đây có thể được coi là công trình mới, nghiên cứu cả về lý luận và
thực tiễn quản lý nhà nước về quỹ đất công ích ở huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng
Ngãi. Tuy nhiên, để nghiên cứu thực hiện đề tài này, trong quá trình nghiên cứu
tác giả cũng cần phải kế thừa, vận dụng có chọn lọc những kết quả nghiên cứu
của các công trình nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng quỹ đất công ích trên địa
bàn huyện Mộ Đức; đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý sử
dụng đất công ích nói chung và ở huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở đề xuất các giải pháp, kiến nghị phù hợp phục vụ việc hoàn
thiện chính sách pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng quỹ đất công
ích.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý đất công ích của UBND các
3



xã trên địa bàn huyện Mộ Đức.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng quản lý toàn bộ quỹ đất công ích trong phạm vi
địa bàn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quản lý, sử
dụng đất nông nghiệp nói chung và quản lý quỹ đất công ích nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp thu thập tài liệu, số liệu thứ cấp; phương pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, phương pháp tham vấn ý kiến các
chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận về hiệu quả quản lý sử dụng đất
công ích trên các loại hình sử dụng đất.
- Cung cấp nguồn thông tin làm cơ sở dữ liệu cho các nghiên cứu tiếp
theo về chính sách pháp luật đất đai.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Cung cấp các thông tin cơ bản về thực trạng quản lý, sử dụng quỹ đất
công ích trên địa địa bàn huyện Mộ Đức.
- Là tài liệu tham khảo để đánh giá hiệu quả quản lý, sử dụng quỹ đất
công ích trên địa bàn huyện Mộ Đức; cung cấp thông tin giúp cho cơ quan
chuyên môn quản lý sử dụng quỹ đất công ích có hiệu quả hơn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mục lục, danh mục các bảng biểu, mở đầu và danh mục tài liệu
4



tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về quản lý, sử dụng quỹ
đất công ích.
Chương 2. Đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng quỹ đất công ích trên
địa bàn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng quỹ đất công
ích trên địa bàn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ,
DỤNG QUỸ ĐẤT CÔNG ÍCH
1.1. Khái niệm và vai trò của quản lý, sử dụng quỹ đất công ích
1.1.1. Khái niệm quản lý, sử dụng quỹ đất công ích
* Khái niệm quỹ đất công ích
Quỹ đất công ích hiện diện trong đời sống nông dân Việt Nam từ rất lâu,
tuy có tên gọi khác nhau nhưng mục đích và ý nghĩa gần như nhau: Quỹ đất
công làng xã (thời kỳ phong kiến), quỹ đất 5% hoặc quỹ đất phần trăm (thời kỳ
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến trước Luật Đất đai 1993 có hiệu
lực), quỹ đất công ích (từ sau Luật Đất đai 1993 có hiệu lực đến nay); quỹ đất
công ích góp phần cải thiện đời sống cho đại bộ phận nông dân nông thôn, là
nguồn lực để cơ sở xây dựng cơ sở hạ tầng, ổn định chính trị và phát triển kinh
tế xã hội địa phương, đặc biệt trong việc thực hiện “Chương trình mục tiêu
Quốc gia về xây dựng nông thôn mới” trong thời kỳ hiện nay.
Trong các quy định của pháp luật đất đai trước kia, cũng như Luật Đất
đai hiện hành không có một khái niệm cụ thể nào về quỹ đất công ích, nhưng
có thể rút ra từ các quy định đó một cách khái quát: Quỹ đất công ích là diện

tích đất mà mỗi xã, phường, thị trấn căn cứ vào quỹ đất, đặc điểm và nhu cầu
của địa phương, mà được giữ lại không quá năm phần trăm (5%) trong tổng
diện tích đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm và đất nuôi trồng
thủy sản của địa phương để thực hiện các mục đích công ích tại xã, phường,
thị trấn thuộc địa phương đó [18, tr.78-79]. Từ khái niệm trên có thể hiểu
rằng đất công ích là loại đất thuộc nhóm đất nông nghiệp, trích ra nhằm sử
dụng vào mục đích công ích và chỉ giữ lại trong giới hạn pháp luật cho phép

6


là từ 5% hoặc ít hơn so với tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp có trong
phạm vi địa bàn địa phương.
* Khái niệm quản lý quỹ đất công ích
Quản lý
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý để chỉ huy, điều khiển,
liên kết các yếu tố tham gia vào hoạt động thành một chỉnh thể thống nhất,
điều hoà hoạt động của các khâu một cách hợp quy luật nhằm đạt đến mục
tiêu xác định trong điều kiện biến động của môi trường.
Quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý đặc biệt, theo đó chủ thể quản lý
được sử dụng quyền lực nhà nước gồm lập pháp, hành pháp và tư pháp để
quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; có tính tổ chức cao, ổn định, liên
tục trên cơ sở các chiến lược, chương trình, kế hoạch nhằm đạt được mục tiêu
đã đặt ra.
Quản lý Nhà nước về đất đai
Quản lý đất đai bao gồm những chức năng, nhiệm vụ liên quan đến việc
xác lập và thực thi các quy tắc cho việc quản lý, sử dụng và phát triển đất đai
cùng với những lợi nhuận thu được từ đất (thông qua việc bán, cho thuê hoặc

thu thuế) và giải quyết những tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu và quyền
sử dụng đất.
Quản lý đất đai là quá trình điều tra mô tả những tài liệu chi tiết về thửa
đất, xác định hoặc điều chỉnh các quyền và các thuộc tính khác của đất, lưu giữ,
cập nhật và cung cấp những thông tin liên quan về sở hữu, giá trị, sử dụng đất
và các nguồn thông tin khác liên quan đến thị trường bất động sản. Quản lý đất
đai liên quan đến cả hai đối tượng đất công và đất tư bao gồm các hoạt động đo

7


đạc, đăng ký đất đai, định giá đất, giám sát và quản lý sử dụng đất đai, cơ sở hạ
tầng cho công tác quản lý.
Nhà nước phải đóng vai trò chính trong việc hình thành chính sách đất
đai và các nguyên tắc của hệ thống quản lý đất đai bao gồm pháp luật đất đai
và pháp luật liên quan đến đất đai. Đối với công tác quản lý đất đai, Nhà nước
xác định một số nội dung chủ yếu: Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước;
tập trung và phân cấp quản lý; vị trí của cơ quan đăng ký đất đai; vai trò của
lĩnh vực công và tư nhân; quản lý các tài liệu địa chính; quản lý các tổ chức
địa chính, quản lý nguồn nhân lực; nghiên cứu; giáo dục và đào tạo; trợ giúp
về chuyên gia tư vấn và kỹ thuật; hợp tác quốc tế.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đặt ra những yêu cầu to lớn đối
với công tác quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong
đó quản lý nhà nước về đất đai là một trong những lĩnh vực quan trọng hàng
đầu. Để phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước luôn quan
tâm đến vấn đề đất đai và đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để quản lý đất
đai, điều chỉnh các mối quan hệ đất đai theo kịp với tình hình thực tế.
Đất đai, khi tham gia vào nền kinh tế thị trường thì có sự thay đổi căn
bản về bản chất kinh tế - xã hội: Từ chỗ là tư liệu sản xuất, điều kiện sống
chuyển sang là tư liệu sản xuất chứa đựng yếu tố sản xuất hàng hoá, phương

diện kinh tế của đất trở thành yếu tố chủ đạo quy định sự vận động của đất đai
theo hướng ngày càng nâng cao hiệu quả. Chính vì vậy, việc quản lý nhà nước
về đất đai là hết sức cần thiết, nhằm phát huy những ưu thế của cơ chế thị
trường và hạn chế những khuyết tật của thị trường khi sử dụng đất đai, ngoài ra
cũng làm tăng tính pháp lý của đất đai.
Theo quy định của Luật Đất đai hiện hành có 15 nội dung quản lý Nhà
nước về đất đai. Bên cạnh đó, Nhà nước đã ban hành các Nghị định, Thông
tư, Chỉ thị … đã tạo ra một hành lang pháp lý cho công tác quản lý đất đai. Hệ
8


thống văn bản pháp Luật đất đai được đánh giá là tương đối hoàn chỉnh với
những nội dung quy định cụ thể: về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai; về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất; về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; về thu tiền sử dụng
đất; về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hướng dẫn thực hiện thống
kê, kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất; hướng dẫn
lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính; hướng dẫn lập, điều chỉnh và thẩm định
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Quản lý nhà nước về quỹ đất công ích
Luật Đất đai quy định các loại đất dù là đất nông nghiệp, phi nông nghiệp
hay bất cứ loại đất nào thì để tạo lập nên loại đất đó cũng dựa trên hai căn cứ
chủ yếu: thứ nhất, dựa vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan
có thẩm quyền xét duyệt; thứ hai, là nhìn vào nhu cầu sử dụng đất cụ thể,
được thể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin giao đất, thuê đất, chuyển mục đích
sử dụng đất. Đất công ích vì là diện tích được trích từ đất sản xuất nông
nghiệp nên không nằm ngoài quy định đó, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
cũng được xem là căn cứ quan trọng nhất trong việc tạo lập, quản lý quỹ đất
công ích. Khi cần diện tích đất thực hiện mục đích công ích cho địa phương,
trước đây theo Luật Đất đai năm 2003 thì Uỷ ban nhân dân cấp xã tổ chức lập

quy hoạch, kế hoạch sử dụng trong đó có diện tích đất công ích, cấp xã trình
cơ quan cấp trên phê duyệt, nếu được chấp thuận và có thêm quyết định tỷ lệ
đất công ích cho phép để lại của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thì quỹ đất nông
nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của cấp xã đã được tạo lập và đương
nhiên nguồn gốc của quỹ đất này là xuất phát từ tổng diện tích đất nông
nghiệp của chính địa phương có nhu cầu để lại đất công ích. Sau này khi thực
hiện Luật Đất đai năm 2013 thì Uỷ ban nhân dân cấp xã không còn thẩm
quyền lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất mà Uỷ ban nhân dân cấp huyện
9


tiến hành tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện, trong đó có
nội dung đất công ích của các địa phương cấp xã.
Ngoài nguồn gốc hình thành nên diện tích đất công ích thì ngoài diện tích
được Nhà nước giao, theo nhu cầu trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thì
quỹ đất công ích còn được góp lại từ đất không được Nhà nước trực tiếp
chuyển giao mà nó vận hành theo con đường ngược lại, tức là các diện tích
đất do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tự nguyện trả lại hoặc tặng cho quyền sử
dụng đất mà họ không sử dụng hay sử dụng không hết, bên cạnh đó còn có đất
khai hoang, đất thu hồi để phục vụ công ích, đất vượt hạn mức,… Tuy nhiên,
tổng diện tích được trích để lại không quá 5% trong tổng diện tích đất trồng
cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản của địa phương
cấp xã có để lại đất công ích.
Nhà nước quản lý đối với quỹ đất công ích thông qua việc lập quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất quỹ đất công ích nêu trên; ngoài ra, còn quản lý theo
phương pháp quản lý chung của Luật Đất đai, theo chính sách riêng của từng
cấp xã và bằng việc thu tài chính; đồng thời, quy định rõ về thời gian sử dụng
đất công ích, diện tích đất công ích được sử dụng, giá đất khi gia đình, cá
nhân thuê đất công ích.
* Khái niệm sử dụng quỹ đất công ích

Sử dụng đất liên quan đến chức năng hoặc mục đích của loại đất được sử
dụng. Việc sử dụng đất có thể được định nghĩa là: “những hoạt động của con
người có liên quan trực tiếp tới đất, sử dụng nguồn tài nguyên đất hoặc có tác
động lên chúng”. Số liệu về quá trình và hình thái các hoạt động đầu tư (lao
động, vốn, nước, phân hoá học...), kết quả sản lượng (loại nông sản, thời gian,
chu kỳ mùa vụ...) cho phép đánh giá chính xác việc sử dụng đất, phân tích tác
động môi trường và kinh tế, lập mô hình những ảnh hưởng của việc biến đổi
sử dụng đất hoặc việc chuyển đổi việc sử dụng đất này sang mục đích sử dụng
10


đất khác. Phạm vi sử dụng đất, cơ cấu và phương thức sử dụng đất một mặt bị
chi phối bởi các điều kiện và quy luật sinh thái tự nhiên, mặt khác bị kiềm chế
bởi các điều kiện, quy luật kinh tế - xã hội và các yếu tố kỹ thuật. Vì vậy có
thể khái quát một số điều kiện và nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất:
Điều kiện tự nhiên: Khi sử dụng đất đai, ngoài bề mặt không gian như
diện tích trồng trọt, mặt bằng xây dựng..., cần chú ý đến việc thích ứng với
điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái tự nhiên của đất cũng như các yếu tố
bao quanh mặt đất như: yếu tố khí hậu, yếu tố địa hình, yếu tố thổ nhưỡng.
Điều kiện kinh tế - xã hội: Bao gồm các yếu tố như chế độ xã hội, dân số,
lao động, thông tin, các chính sách quản lý về môi trường, chính sách đất đai,
yêu cầu về quốc phòng, sức sản xuất, các điều kiện về công nghiệp, nông
nghiệp, thương nghiệp, giao thông, vận tải, sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, trình độ quản lý, sử dụng lao động, điều kiện và trang thiết bị vật chất
cho công tác phát triển nguồn nhân lực, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Yếu tố không gian: Đây là một tính chất “đặc biệt” khi sử dụng đất, do
đất đai là sản phẩm của tự nhiên, tồn tại ngoài ý chí và nhận thức của con
người. Đất đai hạn chế về số lượng, có vị trí cố định và là tư liệu sản xuất
không thể thay thế được khi tham gia vào hoạt động sản xuất của xã hội.
Tại khoản 2, khoản 3 Điều 132 Luật Đất đai năm 2013 có quy định về

đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích như sau:
“2. Quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường,
thị trấn để sử dụng vào các mục đích sau đây:
a) Xây dựng các công trình công cộng của xã, phường, thị trấn bao
gồm công trình văn hóa, thể dục thể thao, vui chơi, giải trí công cộng, y tế,
giáo dục, chợ, nghĩa trang, nghĩa địa và các công trình công cộng khác theo
quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

11


b) Bồi thường cho người có đất được sử dụng để xây dựng các công
trình công cộng quy định tại điểm a khoản này;
c) Xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương.
3. Đối với diện tích đất chưa sử dụng vào các mục đích quy định tại
khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp xã cho hộ gia đình, cá nhân tại
địa phương thuê để sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản theo hình thức
đấu giá để cho thuê. Thời hạn sử dụng đất đối với mỗi lần thuê không quá 05
năm.
Tiền thu được từ việc cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng
vào mục đích công ích phải nộp vào ngân sách nhà nước do Ủy ban nhân dân
cấp xã quản lý và chỉ được dùng cho nhu cầu công ích của xã, phường, thị
trấn theo quy định của pháp luật”.
Căn cứ quy định trên, thì diện tích đất nông nghiệp sử dụng vào mục
đích công ích tại địa phương do Uỷ ban nhân dân cấp xã quản lý và chỉ dùng
để phục vụ cho mục đích công ích tại địa phương, nếu diện tích đất công ích
đó tạm thời chưa sử dụng thì Ủy ban nhân dân cấp xã cho hộ gia đình, cá nhân
tại địa phương thuê để sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản theo hình
thức đấu giá để cho thuê.
1.1.2. Vai trò quản lý, sử dụng quỹ đất công ích

* Vai trò quản lý quỹ đất công ích
Vai trò quản lý đất đai nói chung và quỹ đất công ích nói riêng của Nhà
nước thể hiện qua hai nội dung cơ bản sau: thứ nhất, Nhà nước quản lý đất đai
xuất phát từ chức năng của một tổ chức quyền lực và quan hệ đất đai tồn tại
như một lĩnh vực quan hệ xã hội đòi hỏi Nhà nước phải điều tiết; thứ hai, Nhà
nước với cương vị là đại diện chủ sở hữu cho toàn dân sẽ quản lý đất đai với
tư cách là người đại diện sở hữu. Dù dưới bất cứ hình thức nào, nội dung nào
thì trật tự quản lý nhà nước về đất đai nói chung và đất công ích nói riêng
12


cũng đi theo con đường luật định, nghĩa là sẽ chịu sự chi phối của Nhà nước
từ Trung ương, đến các cấp ở địa phương.
Quản lý Nhà nước về quỹ đất công ích nhằm đảm bảo các yếu tố sau: (1)
Đảm bảo sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả, (2) Đánh giá, phân
loại, phân hạng đất đai, Nhà nước nắm được quỹ đất tổng thể và cơ cấu từng
loại đất, (3) Ban hành các chính sách, các quy định nội dung còn thiếu chưa
phù hợp với thực tế và sử dụng đất công ích tạo ra một hành lang pháp lý cho
việc sử dụng đất đai nói chung và quỹ đất công ích nói riêng, bảo đảm lợi ích
chính đáng của người sử dụng đất. Đồng thời, cũng bảo đảm lợi ích của Nhà
nước trong việc sử dụng, khai thác quỹ đất công ích, (4) Kiểm tra, giám sát
quản lý và sử dụng đất đai; phát hiện những mặt tích cực, tiêu cực để phát
huy, điều chỉnh và giải quyết những hành vi có sai phạm.
* Vai trò của sử dụng hiệu quả quỹ đất công ích
Có nhiều quan điểm về hiệu quả rất khác nhau. Lúc đầu, người ta thường
quan niệm kết quả chính là hiệu quả. Sau này, khi nhận thức của con người
phát triển cao hơn, người ta thấy rõ sự khác nhau giữa hiệu quả và kết quả.
Hiệu quả là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ
đợi hướng tới; nó có những nội dung khác nhau. Trong kinh doanh, hiệu quả
là lãi suất, lợi nhuận. Trong lao động nói chung, hiệu quả lao động là năng

suất lao động cần để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, hoặc bằng số lượng sản
phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian.
Kết quả hữu ích (gọi chung là kết quả) là một đại lượng vật chất tạo ra do
mục đích của con người, được biểu hiện bằng những chỉ tiêu cụ thể, xác định.
Con người luôn xem xét, nghiên cứu kết quả đó được tạo ra như thế nào? Chi
phí bỏ ra bao nhiêu? Có đưa lại kết quả hữu ích hay không?
Trong lĩnh vực sử dụng đất nói chung và sử dụng quỹ đất công ích nói
riêng thì hiệu quả là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng đất trong
13


hoạt động kinh tế. Thể hiện qua lượng sản phẩm, lượng giá trị thu được bằng
tiền, đồng thời về mặt xã hội là thể hiện hiệu quả của lực lượng lao động
được sử dụng trong cả quá trình hoạt động kinh tế cũng như hàng năm để
khai thác đất. Đối với ngành nông nghiệp, trong nhiều trường hợp phải coi
trọng hiệu quả về mặt hiện vật là sản lượng nông sản thu hoạch được, nhất là
các loại nông sản cơ bản có ý nghĩa chiến lược (lương thực, sản phẩm xuất
khẩu… để đảm bảo sự ổn định về kinh tế - xã hội đất nước).
Như vậy, hiệu quả sử dụng đất nói chung và hiệu quả sử dụng quỹ đất
công ích nói riêng là kết quả của cả một hệ thống các biện pháp tổ chức sản
xuất, khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế và phát huy các lợi thế, khắc phục
các khó khăn khách quan của điều kiện tự nhiên, trong những hoàn cảnh cụ
thể còn gắn sản xuất nông nghiệp với các ngành khác của nền kinh tế quốc
dân, cũng như cần gắn sản xuất trong nước với thị trường quốc tế. Sử dụng
đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu cây trồng vật
nuôi là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay. Nó là vấn đề sự quan tâm
của các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh
nông nghiệp mà còn là mong muốn của nông dân, những người trực tiếp tham
gia sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay, các nhà khoa học đều cho rằng: Vấn đề hiệu quả sử dụng đất

không chỉ xem xét đơn thuần ở một mặt hay một khía cạnh nào đó mà phải
xem xét trên tổng thể các mặt bao gồm: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và
hiệu quả môi trường. Để đánh giá hiệu quả sử dụng đất của một loại hình nào
đó chúng ta đánh giá chúng trên ba khía cạnh: (1) Hiệu quả kinh tế, (2) hiệu
quả xã hội và (3) hiệu quả môi trường.
1.2. Chủ thể, nội dung và phương thức quản lý quỹ đất công ích
1.2.1. Chủ thể quản lý quỹ đất công ích
Ở Trung ương đối với đất công ích cũng được áp dụng theo quy định
14


chung của pháp luật đất đai, Quốc hội, với chức năng là cơ quan lập pháp,
Quốc hội quản lý bằng việc ban hành pháp luật về đất đai, quyết định quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước, thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với việc quản lý và sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước. Vì nằm trong
tổng diện tích đất của quốc giá, đất công ích cũng chịu sự điều tiết chung,
nghĩa là thuộc quyền quản lý bao quát ở tầm vĩ mô, bằng các quy định nằm
rãi rác trong hàng loạt các văn bản mang tính pháp lý cao nhất của Quốc hội.
Hơn thế nữa, đất đai còn chịu sự quản lý ở cấp Trung ương bởi quyền
hạn của cơ quan hành pháp, đó là Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về
đất đai trong phạm vi toàn quốc, được coi là thẩm quyền và cũng là trách
nhiệm mà Chính phủ đảm đương đối với đất đai, trong đó có quỹ đất 5% phục
vụ nhu cầu công ích của cấp xã. Ngoài ra, Chính phủ còn là cấp quyết định
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh và quy hoạch sử dụng đất vào mục
đích quốc phòng, an ninh. Cơ quan trực thuộc Chính phủ, hệ thống quản lý
đất đất đai chuyên ngành là Bộ Tài nguyên và Môi trường là chủ thể chính,
chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc quản lý đất đai trên toàn quốc.
Ở địa phương, dựa vào đặc điểm và nhu cầu của từng vùng, từng địa
phương mà Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định việc thành lập, hay không
thành lập quỹ đất công ích cho xã, phường, thị trấn. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

có trách nhiệm quản lý nhà nước về quỹ đất công ích tại địa phương, Sở Tài
nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên ngành, giúp Uỷ ban nhan dân cấp
tỉnh quản lý đất đai tại địa phương. Bên cạnh đó, Uỷ ban nhân dân cấp huyện
đóng vai trò như một cơ quan trung gian, quyết định xét duyệt quy hoạch, kế
hoạch của Uỷ ban nhân dân cấp xã trình lên và chuyển cho cấp trên quyết
định, Uỷ ban nhân dan cấp huyện quản lý theo dõi thông qua sổ sách, quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đối với diện tích đất công ích của xã trên phạm

15


vi địa bàn huyện. Uỷ ban nhân dân cấp xã đóng vai trò quản lý trực tiếp nhất
đối với đất đai, mà đặc biệt là quỹ đất công ích được hình thành trong xã.
1.2.2. Pháp luật về quản lý quỹ đất công ích
Tại Điều 22 Luật Đất đai năm 2013 quy định 15 nội dung quản lý Nhà
nước về đất đai [18, tr.10-11], bao gồm:
“1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai
và tổ chức thực hiện văn bản đó.
2. Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính, lập bản đồ hành chính.
3. Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng
đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất; điều tra, đánh giá tài nguyên đất; điều
tra xây dựng giá đất.
4. Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
5. Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử
dụng đất.
6. Quản lý việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất.
7. Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
8. Thống kê, kiểm kê đất đai.

9. Xây dựng hệ thống thông tin đất đai.
10. Quản lý tài chính về đất đai và giá đất.
11. Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất.
12. Thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc chấp hành
quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
13. Phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai.

16


14. Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
quản lý và sử dụng đất đai.
15. Quản lý hoạt động dịch vụ về đất đai”.
Cùng với Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước đã ban hành các Nghị định,
Thông tư, Chỉ thị … đã tạo ra một hành lang pháp lý cho công tác quản lý đất
đai. Hệ thống văn bản pháp Luật đất đai được đánh giá là tương đối hoàn
chỉnh với những nội dung quy định cụ thể: về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai; về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất;
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; về thu tiền sử
dụng đất; về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hướng dẫn thực hiện
thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất; hướng
dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính; hướng dẫn lập, điều chỉnh và thẩm
định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
1.2.3. Phương thức quản lý quỹ đất công ích
Trong công tác quản lý tổng thể đất đai hay quản lý quỹ đất riêng như
đất công ích, muốn đạt được kết quả tốt, ngoài việc phân định rạch ròi các
thẩm quyền chung hay riêng góp phần đem lại hiệu quả thiết thực và nhanh
chóng còn cần phải có phương pháp, vạch ra các đường lối cụ thể, có như vậy
thì việc quản lý sẽ gọn nhẹ và minh bạch hơn, mang lại nhiều thành công hơn.

* Quản lý theo phương pháp chung của Luật Đất đai
Luật Đất đai ra đời, giải quyết được rất nhiều các khó khăn, vướng mắc
trong công tác quản lý đất đai, trong đó văn bản này cũng đồng thời đề ra các
phương pháp quản lý đất, để đạt hiệu quả quản lý tối ưu, có cả cái chung và
cái riêng được nêu đầy đủ tại Luật Đất đai hiện hành. Theo đó, phương pháp
được coi là áp dụng chung trong quản lý đất đai là:
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là yếu tố tiên quyết, là căn cứ chủ yếu
cho công tác quản lý, sử dụng đất từ Trung ương xuống địa phương, là cơ sở
17


pháp lý để thực hiện thống nhất công tác quản lý nhà nước về đất đai. Quy
hoạch sử dụng đất là việc Nhà nước tính toán, phân bổ về đất đai, về mặt số
lượng, chất lượng, vị trí để dùng vào những mục đích nhất định nhằm đạt
được những mục tiêu nhất định. Quy hoạch sử dụng đất được xem như là cơ
sở khoa học của quá trình xây dựng các chiến lược về khai thác sử dụng đất.
Thời gian của một kỳ Quy hoạch sử dụng đất của cả nước, tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, xã, phường,
thị trấn là 10 năm.
Kế hoạch sử dụng đất là việc Nhà nước xác định các biện pháp và thời
gian để sửu dụng đất theo quy hoạch. Thời gian của kỳ kế hoạch sử dụng đất
của cả nước, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, xã, phường, thị trấn là 5 năm.
Đất công ích nằm trong quỹ đất chung nên quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất cũng là phương pháp quản lý hữu hiệu ở từng địa phương. Khi được
thể hiện trong nội dung của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nghĩa là trên cơ
bản đã được điều tra nghiên cứu, phân tích, tổng hợp điều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội, đánh giá về tiềm năng, hiện trạng, xác định mục tiêu, nhu cầu sử
dụng,... thì tất cả các vấn đề liên quan đến việc hình thành, phương hướng sử
dụng đã nằm trong tầm kiểm soát, điều tiết của cơ quan quản lý, kết hợp cùng

kế hoạch và thời gian đã được dự tính trước tạo nên sự đơn giản hóa và hiệu
quả trong quản lý quỹ đất công ích.
Bên cạnh đó việc thống kê, kiểm kê đất đai cũng là biện pháp quản lý
tốt khi diện tích, ô thửa được thể hiện rõ trong hồ sơ địa chính, trong các bảng
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tổng thể của xã, phường, thị trấn là khi công
tác quản lý, sử dụng quỹ đất công ích phát huy tốt chức năng.
* Quản lý theo chính sách riêng của chính quyền từng xã
Mỗi cấp chính quyền là một tế bào tạo nên sự hoàn chỉnh của một bộ
18


máy Nhà nước với đầy đủ quyền hạn trong công tác quản lý điều tiết sự vận
hành của đất nước, thể hiện một thể chế chính trị vững vàng của quốc gia.
Một cấp chính quyền sẽ có một phương thức thể hiện quyền hạn khác nhau và
bằng các biện pháp, chính sách riêng để quản lý địa phương mình, nhưng
đương nhiên vẫn nằm trong khuôn khổ pháp luật, không trái với đạo đức xã
hội là nguyên tắc hàng đầu.
Đối với đất đai là lĩnh vực cần nhiều sự quan tâm, quản lý chặt chẽ của
toàn Đảng, toàn dân. Ở từng nơi, chính sách về đất đai là khác nhau, có thể
xem đây là lĩnh vực đại diện cho đặc điểm chung, về sự khác nhau trong công
tác quản lý, cũng như thể hiện quyền hành của các đơn vị hành chính nhà
nước. Đất công ích, vì được tồn tại theo nhu cầu ở từng nơi nên có thể xem là
loại đất thể hiện nhiều nhất đường lối quản lý khác nhau ở cấp xã.
Dù chỉ là đơn vị hành chính thấp nhất trong cơ cấu bộ máy hành chính
nhà nước nhưng cấp xã cũng có chính sách pháp luật riêng, độc lập được thừa
nhận và không tách rời so với cơ chế chung của cả nước. Ở mỗi xã, đất công
ích hiện diện ở mức khác nhau, vì tùy theo điều kiện của từng nơi và nhu cầu
sử dụng khác nhau, mà được giữ lại diện tích đất khác nhau, thậm chí có xã
không có đất công ích 5%. Có thể coi chủ trương không để lại đó như là một
cách thể hiện chính sách riêng quản lý của cấp xã, khi nhu cầu sử dụng đất ở

địa phương đó không nhiều, không cần thiết phải đưa vào quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất của xã để lập quỹ đất công ích. Có xã xin được để lại
nhưng với diện tích nhỏ hơn và trong khi cho thuê hay sử dụng trực tiếp thì
mỗi xã, phường, thị trấn có những tiêu chuẩn khác nhau về diện tích đất được
thuê, về chủ thể và giá đất công ích cho thuê. Chính những biện pháp riêng
như vậy, đã đem lại hiệu quả không kém trong công tác điều hành của cấp địa
phương. Kết quả đạt được đó một phần cũng do chính quyền địa phương gần
dân nhất, hiểu rõ tình hình của cấp mình quản lý.
19


* Quản lý đất công ích bằng việc thu tài chính
Tài chính là vấn đề không kém phần quan trọng để duy trì hoạt động
chung của Nhà nước và trong các lĩnh vực khác. Có tiền thì mới có kinh phí
thực hiện việc cần làm, đó là vấn đề không thể phủ nhận. Muốn có tài chính,
cần xác định nguồn thu chủ yếu của nước ta, thông qua việc Nhà nước giao
đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất, thu thuế sử dụng đất, cho các chủ thể
sử dụng vào xây dựng, kinh doanh, canh tác,... đem về cho ngân sách quốc gia
những khoản tiền khá, phục vụ chi cho hoạt động đất nước.
Bên cạnh tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, các hoạt động thu tiền
sử dụng từ đất đai cũng được xem như một cách quản lý đất đai, cụ thể là dưới
hình thức Nhà nước thu tiền sử dụng đất. Hiện nay, đất đai rất có giá trên thị
trường, Nhà nước xác định khung giá các loại đất làm căn cứ để tính tiền sử
dụng đất cho các chủ thể sử dụng, nhằm tạo nguồn thu cho quỹ tiền tệ quốc
gia, đồng thời để thực hiện các biện pháp quản lý Nhà nước đối với đất đai.
Việc quy định các đối tượng sử dụng phải trả tiền sử dụng đất, còn nhằm khắc
phục tình trạng sử dụng đất kém hiệu quả, lãng phí do việc giao cấp đất sử
dụng không phải trả tiền như trước đây thúc đẩy hơn nữa các doanh nghiệp
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, còn có biện pháp cùng
mục đích như thu tiền sử dụng đất, thu thuế sử dụng đất đối với đất. Thực tế

tìm hiểu thì thuế đất là một trong những loại thuế ra đời sớm nhất trong lịch
sử thế khóa, ở Việt Nam ra đời và tồn tại hơn 20 năm, có thể nói đây là sắc
thuế ít có sự sửa đổi, bổ sung nhất so với các sắc thuế khác, trong hệ thống
pháp luật thuế hiện hành. Điều này còn thấy rõ mục đích chủ yếu của Nhà
nước khi ban hành loại thuế này là nhằm thể hiện sự quản lý nhà nước đối với
đất đai [19, tr.12].
Mỗi loại đất khác nhau thì mức thuế suất được định ra là khác nhau. Tùy
theo từng mục đích sử dụng và mục đích điều tiết của Nhà nước, trong sử dụng
20


×