Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Đánh giá chính sách xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn thị xã điện bàn, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.95 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ MINH TÂM

ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI - năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ MINH TÂM

ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. TRẦN MINH ĐỨC

HÀ NỘI - năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ Chính sách công “Đánh giá chính
sách xây dựng Nông thôn mới từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam” là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các số liệu và kết quả nghiên
cứu trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi xin
chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Học viên

Lê Thị Minh Tâm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI ......................................................................... 10
1.1. Sự cần thiết của chính sách xây dựng Nông thôn mới ở Việt Nam ......... 10
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của đánh giá chính sách xây dựng
Nông thôn mới................................................................................................. 13
1.3. Tiêu chí đánh giá chính sách xây dựng Nông thôn mới .......................... 20
1.4. Phương pháp đánh giá chính sách xây dựng Nông thôn mới .................. 22
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến đánh giá chính sách xây dựng Nông thôn
mới ................................................................................................................... 23
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI THỊ XÃ ĐIỆN BÀN TỈNH QUẢNG
NAM ............................................................................................................... 29

2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Thị xã Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam có liên quan đến đánh giá chính sách xây dựng Nông thôn
mới. .................................................................................................................. 29
2.2. Tình hình thực thi chính sách xây dựng Nông thôn mới tại thị xã Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam ...................................................................................... 30
2.3. Kết quả thực hiện các tiêu chí Nông thôn mới trên địa bàn Thị xã ......... 33
2.4. Đánh giá chính sách xây dựng Nông thôn mới tại thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam (giai đoạn 2011 – 2017) .............................................................. 51
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỪ THỰC
TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN TỈNH QUẢNG NAM ..................................... 60


3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả chính sách xây dựng Nông thôn mới từ
thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam .................................................. 60
3.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả chính sách xây dựng Nông thôn mới
từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam .............................................. 63
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách xây dựng Nông thôn mới
từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam .............................................. 64
3.2. Kiến nghị .................................................................................................. 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GĐVH

: Gia đình văn hóa


HĐND

: Hội đồng nhân dân

KT-XH

: Kinh tế - xã hội

MTQG

: Mục tiêu quốc gia

NTM

: Nông thôn mới

UBND

: Ủy ban nhân dân


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn
dân và cả hệ thống chính trị của nước ta. Đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông dân - nông thôn là vấn đề quan trọng không chỉ giúp ổn định xã hội,
phát triển kinh tế mà quan trọng hơn nó còn có ý nghĩa chiến lược trong quá
trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc, được Đảng, Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm và dành nhiều nguồn lực đầu tư cho khu vực này.

Trải qua các kỳ Đại hội Đảng, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông
dân được Đảng ta ngày càng quan tâm và định hướng đúng đắn, phù hợp với
tình hình, yêu cầu trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Tại Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) đã
ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 về Nông nghiệp, nông
thôn, nông dân với mục tiêu "xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng KT-XH hiện
đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp
với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông
thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, dân trí được nâng cao, môi trường
sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của
Đảng được tăng cường" [1].
Đặc biệt, định hướng phát triển kinh tế trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) "phát
triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng
cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng NTM" [3.tr75]. Văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XII cũng đã xác định phương hướng, nhiệm vụ
phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn là xây dựng nền nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng


2

sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy
mạnh xuất khẩu.
Tại kỳ họp thứ 10 (tháng 10 - 11/2015), Quốc hội (Khóa XIII) đã quyết
định cả nước chỉ thực hiện 2 chương trình MTQG (thay vì trước đây có 16
chương trình) đó là: Xây dựng NTM và giảm nghèo bền vững. Với quyết định
này, nguồn lực đầu tư của Quốc gia không còn bị phân tán, dàn trải mà được
tập trung một cách có trọng tâm và hiệu quả vào 2 chương trình nêu trên. Theo
kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020 đã được Quốc hội thông qua,

vốn dành cho Chương trình MTQG xây dựng NTM là 43.119 tỷ đồng.
Thực hiện chủ trương, định hướng của Đảng, ngày 04/6/2010, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình
MTQG về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020. Trước đó, Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 về việc ban hành Bộ
tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM (sửa đổi tại Quyết định số 342/QĐ-TTg
ngày 20 tháng 02 năm 2013 và được thay thế tại Quyết định 1980/QĐ-TTg
ngày 17/10/2016).
Cùng với cả nước, Quảng Nam cũng đã triển khai đồng bộ, toàn diện
chính sách xây dựng NTM trên 204/244 xã, phường, thị trấn. Đối với huyện
Điện Bàn (nay là thị xã Điện Bàn) cũng đã tập trung triển khai thực hiện xây
dựng NTM trên 13 xã. Thị ủy Điện Bàn đã ban hành Nghị quyết 03-NQ/TU
ngày 07/11/2011 tiếp tục thực hiện Nghị quyết thực hiện Hội nghị lần thứ 7
BCH TW Đảng (khóa X) về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với thực
hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới. HĐND,
UBND thị xã ban hành và triển khai thực hiện nhiều cơ chế, chính sách để
thực hiện việc xây dựng NTM trên toàn thị xã cũng như thành lập và ban
hành quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo, Tổ giúp việc thực hiện Chương
trình MTQG xây dựng NTM.


3

Như vậy, chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước về xây dựng
NTM được ban hành và triển khai thực hiện từ năm 2010. Có thể khẳng định
rằng chính sách xây dựng NTM là một trong những chính sách công rất quan
trọng và có tầm ảnh hưởng rộng lớn, quyết định đến sự phát triển của nông
nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam. Mặc dù, đến nay, chính sách xây dựng
NTM đã đi được hơn hai phần ba chặng đường của giai đoạn 2010-2020, và
13/13 xã của thị xã Điện Bàn đã đạt chuẩn xã NTM, Thị xã cũng đã được

Chính phủ công nhận Thị xã NTM vào cuối năm 2015. Nhưng vấn đề giữ
chuẩn và nâng chuẩn chất lượng thị xã, xã NTM là vấn đề cần được thường
xuyên quan tâm và việc tổ chức xem xét, đánh giá lại chính sách xây dựng
NTM từ thực tiễn thị xã Điện Bàn là việc làm cần thiết, thường xuyên và phù
hợp nhằm chỉ ra những kết quả đạt được để tiếp tục phát huy nâng cao hơn nữa
chất lượng xây dựng NTM, đồng thời phát hiện những bất cập, hạn chế, qua đó
đưa ra các kiến nghị, đề xuất để sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện chính sách.
Đặc biệt hơn là mục tiêu của tỉnh Quảng Nam đặt ra đối với Điện Bàn trong
thời gian đến là phải xây dựng tất cả các khu dân cư trên địa bàn các xã NTM
đạt khu dân cư NTM kiểu mẫu; xã NTM kiểu mẫu và phấn đấu đến năm 2020
xây dựng 3 xã vùng Gò Nổi (Điện Quang, Điện Trung, Điện Phong) trở thành
khu vực Nông thôn mới tiêu biểu cho cả tỉnh Quảng Nam.
Đối với Điện Bàn, mặc dù chính thức trở thành Thị xã vào năm 2015,
nhưng số lượng xã nông thôn vẫn còn nhiều (13/20 xã, phường) và số phường
có tỷ lệ người dân làm nông nghiệp còn tương đối cao. Hơn nữa trong số đó, có
nhiều xã phát triển nông nghiệp là chủ yếu nên việc xây dựng các xã để trở
thành phường là khá khó khăn và phải trong thời gian dài; việc xây dựng duy
trì thành công xã NTM cũng là một bước chuẩn bị, một nền tảng rất quan trọng
để xây dựng xã lên phường. Do vậy việc xây dựng NTM ở Thị xã Điện Bàn là
một trong những nhiệm vụ chính trị thường xuyên, quan trọng của Đảng bộ,


4

chính quyền và nhân dân thị xã. Bản thân tôi chọn vấn đề "Đánh giá chính
sách xây dựng NTM từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam" để làm đề
tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ Chính sách công là có tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn,
nông dân và đặc biệt về NTM có thể nói là một chủ đề được nhiều tác giả,

nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Một số công trình nghiên cứu về vấn đề này
như:
- Cuốn sách "Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau hai mươi năm đổi
mới - Quá khứ và hiện tại" của tác giả Nguyễn Văn Bích. Cuốn sách đã mô tả
khá toàn diện phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta từ đầu
thế kỷ XX đến nay, nhất là 20 năm đổi mới.
- Cuốn sách "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong mô hình tăng
trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 - 2020" của tác giả Nguyễn Thị Tố Quyên
đã phân tích một số điểm nổi bật về nông nghiệp, nông thôn, nông dân từ năm
2000 đến nay và cơ hội, thách thức của nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Việt Nam trước các mô hình tăng trưởng kinh tế.
- Cuốn sách "Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông dân
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của tác giả Đặng Kim Sơn.
Trên cơ sở nghiên cứu một số nước trên thế giới, tác giả có sự liên hệ vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam như: vai trò của nông nghiệp trong công
nghiệp hóa, vấn đề cơ cấu sản xuất, giải quyết những vấn đề lao động, đất đai,
môi trường... trong công nghiệp hóa đất nước.
- Cuốn sách "Xây dựng NTM, những vấn đề lý luận và thực tiễn" của
Vũ Văn Phúc là tập hợp nhiều bài viết của các nhà khoa học, lãnh đạo các cơ
quan trung ương, các địa phương, các ngành, các cấp về xây dựng NTM.
- Cuốn sách "Quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở Trung


5

Quốc" của tác giả Nguyễn Xuân Cường, với một số vấn đề như: chuyển đổi
thể chế kinh tế nông nghiệp, nông thôn; phát triển công nghiệp nông thôn; quá
trình giải quyết các vấn đề xã hội nông thôn, quá trình đô thị hóa nông thôn...
- Tập Kỷ yếu 5 năm xây dựng Nông thôn mới của BCĐ Trung ương
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM tổng hợp, biên tập, phát hành

năm 2015.
- Bài viết “Xây dựng NTM là sự nghiệp cách mạng lâu dài của Đảng và
nhân dân ta” của tác giả Hồ Xuân Hùng đã nêu rõ nội dung nông thôn và
NTM Việt Nam, nhấn mạnh một số biện pháp, điều kiện thực hiện 19 tiêu chí
Quốc gia về xây dựng NTM trong giai đoạn hiện nay.
Bài viết: “Xây dựng mô hình NTM ở nước ta hiện nay” của tác giả Phan
Xuân Sơn và Nguyễn Cảnh đã phân tích về nông thôn Việt Nam trước yêu
cầu mới; những hình dung ban đầu về các tiêu chí của mô hình NTM; những
nhân tố chính của mô hình NTM và đề xuất Nhà nước đóng vai trò chỉ đạo, tổ
chức điều hành quá trình hoạch định và thực thi chính sách, tạo hành lang
pháp lý, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, nguồn lực, và động viên tinh thần Nhân dân tự
nguyện tham gia, chủ động trong thực thi và hoạch định chính sách.
- Bài viết "Chương trình NTM ở Việt Nam: một số vấn đề đặt ra và kiến
nghị" của GS.TS Đỗ Kim Chung và PGS.TS Kim Thị Dung. Trên cơ sở đánh
giá thực trạng triển khai chương trình NTM, bài viết này chỉ ra những bất cập
và đề xuất một số giải pháp về chính sách nhằm hoàn thiện chương trình
NTM ở nước ta.
- Bài viết “Thực tiễn hiện đại hóa nông nghiệp đặc sắc Trung Quốc và
kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam” của tác giả Lê Thế Cương đã phân tích
thực tiễn con đường hiện đại hóa nông nghiệp đặc sắc Trung Quốc và rút ra
những bài học kinh nghiệm đối với xây dựng nông thôn ở nước ta.
- Công trình “Một số vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở các


6

nước và Việt Nam” của Kerrkvliet, Jamesscott do Nguyễn Ngọc và Đỗ Đức
Định sưu tầm và giới thiệu về vai trò, đặc điểm của nông dân, thiết chế nông
thôn ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam.
- Nhiều đề tài luận án, luận văn tiến sỹ, thạc sỹ trong thời gian qua cũng

nghiên cứu về kết quả xây dựng NTM trên địa bàn cụ thể của một xã, huyện
hoặc tỉnh.
Đến nay, chương trình MTQG xây dựng NTM được chính thức triển
khai trên địa bàn cả nước được 7 năm. Ở tầm quốc gia, Quốc hội đã tiến hành
giám sát tối cao về “Việc thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM giai
đoạn 2010 - 2015 gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp” (tại Kỳ họp thứ 2
Quốc hội Khóa XIV). Tại tỉnh Quảng Nam, Đoàn ĐBQH tỉnh tổ chức giám sát
chuyên đề về "việc thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn
2010 - 2015 gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh". Tại Thị
xã Điện Bàn HĐND của Thị xã cũng đã tổ chức giám sát chuyên đề về thực
hiện một số nội dung, tiêu chí trong xây dựng NTM ở các xã.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng, việc tổ chức giám sát của Quốc hội và
Đoàn ĐBQH hay HĐND thực chất là tổ chức kiểm tra, đánh giá quá trình triển
khai, thực hiện chính sách xây dựng NTM gắn với tái cơ cấu ngành nông
nghiệp trong giai đoạn 2010-2015, chứ thực sự chưa đánh giá về những tồn tại,
hạn chế, bất cập trong việc xây dựng NTM ở các địa phương do nhiều nguyên
nhân gây ra, và việc đánh giá này dưới góc độ của cơ quan dân cử - cơ quan
quyền lực nhà nước.
Do vậy, đề tài "Đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn Thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam" là đề tài nghiên cứu có tính chất, yêu cầu, đối
tượng nghiên cứu mới.


7

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm đánh giá lại những mặt được, chưa được, bất cập trong quá trình
thực hiện chính sách xây dựng NTM trên địa bàn Thị xã Điện Bàn, trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị góp phần hoàn thiện chính sách xây

dựng NTM cũng như thực hiện chính sách xây dựng NTM chất lượng, hiệu
quả hơn trong thời gian đến.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến chính sách, đánh giá
chính sách xây dựng NTM.
Xem xét việc đánh giá thực hiện chính sách xây dựng NTM trên địa bàn
Thị xã Điện Bàn. Qua đó chỉ ra những nội dung hợp lý, những vấn đề còn bất
cập, hạn chế của chính sách xây dựng NTM trong thời gian qua.
Kiến nghị, đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện cũng như thực hiện
chính sách xây dựng NTM trên địa bàn thị xã Điện Bàn cũng như của tỉnh
Quảng Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách xây dựng NTM của Nhà nước và kết quả triển khai thực hiện
chính sách xây dựng NTM trên địa bàn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: nghiên cứu, phân tích, đánh giá chính sách xây dựng
NTM.
- Về không gian: thực tiễn triển khai thực hiện chính sách xây dựng
NTM trên địa bàn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam và hệ thống các văn bản
quy định của Nhà nước về chính sách xây dựng NTM.
- Về thời gian: nghiên cứu chính sách và kết quả thực hiện xây dựng


8

NTM giai đoạn từ năm 2011 đến 2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước về xây dựng Nông thôn mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu, thông tin: Số liệu, thông tin phục vụ
nghiên cứu luận văn được lấy từ các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Đại hội
Đảng bộ tỉnh Quảng Nam, Đại hội Đảng bộ Thị xã Điện Bàn, các Nghị quyết
của Đảng các cấp; các văn bản, đặc biệt là các báo cáo của Quốc hội, Chính
phủ, các bộ, ngành Trung ương, của tỉnh Quảng Nam và các cấp chính quyền
của thị xã Điện Bàn; báo cáo giám sát của Đoàn ĐBQH tỉnh, HĐND thị xã;
một số công trình, bài viết nghiên cứu về chính sách xây dựng nông nghiệp,
nông thôn, nông dân và xây dựng NTM; tham khảo, trao đổi, lấy ý kiến, kiến
nghị, nhận xét, đánh giá của một số cán bộ làm công tác chuyên môn về xây
dựng NTM, lãnh đạo các cấp chính quyền địa phương và người dân.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu: hệ thống hóa, phân tích, đánh
giá các số liệu, thông tin thu thập được để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp phân tích chính sách: áp dụng để phân tích, đánh giá quy
trình thực hiện chính sách xây dựng NTM trong thực tiễn (sử dụng các
phương pháp cụ thể: định lượng, định tính, kết hợp định lượng, định tính).
- Phương pháp đánh giá trước-sau: so sánh thực trạng nông thôn thị xã
Điện Bàn trước và sau khi thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới (tại
các thời điểm 2011 - 2017)
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Qua việc phân tích, đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn thị


9

xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, các cơ sở lý luận, lý thuyết về xây dựng NTM
được hệ thống hóa và làm rõ hơn, góp phần làm phong phú thêm lý thuyết về
xây dựng NTM.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Cung cấp cơ sở thực tiễn để đánh giá, làm rõ chính sách xây dựng NTM
của Thị xã Điện Bàn và tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua, qua đó đề xuất
góp phần hoàn thiện chính sách xây dựng NTM.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về đánh giá chính sách xây dựng nông thôn
mới.
Chương 2: Thực trạng đánh giá chính sách xây dựng nông thôn mới tại
Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách
xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.


10

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ
CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Sự cần thiết của chính sách xây dựng Nông thôn mới ở Việt Nam
Việt Nam là nước nông nghiệp với gần 70% dân cư sống ở nông thôn,
phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững có vai trò hết sức quan trọng đối
với sự ổn định và phát triển của đất nước. Đặc biệt trong xu thế hiện nay,
không thể có một nước công nghiệp nếu nông thôn còn lạc hậu và đời sống
của người dân còn thấp.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2015, Việt Nam có 8.971 xã
(chiếm hơn 80%) trong tổng số 11.155 đơn vị hành chính cấp xã; dân số sống
ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 66,06% dân số của cả nước; trong khi đó,
ngành nông, lâm, ngư nghiệp chỉ chiếm 17% tổng sản phẩm trong nước. Từ

những con số này cho thấy rằng khu vực nông nghiệp, nông thôn mặc dù
chiếm tỷ trọng lớn về diện tích và dân số nhưng kinh tế có quy mô nhỏ và
đóng góp không nhiều trong tổng số GDP của cả nước.
Chủ trương xây dựng NTM là một việc làm hết sức cần thiết, có thể nói
đây là một cuộc cách mạng lớn làm chuyển biến bộ mặt nông thôn, nông
nghiệp Việt Nam mà cần phải có sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng và sự vào
cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Xây dựng NTM không
chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội mà đó là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp. Bởi
thực tế cho thấy rằng trước khi triển khai thực hiện chương trình MTQG xây
dựng NTM, khu vực nông thôn Việt Nam chưa được quan tâm đầu tư đúng
mức và đối diện với nhiều thách thức, khó khăn như: Kết cấu hạ tầng nông
thôn (điện, đường, trường, trạm, chợ, thủy lợi...) còn nhiều yếu kém, vừa
thiếu, vừa yếu, nhiều hạng mục công trình xuống cấp trầm trọng; tỷ lệ đường


11

giao thông nông thôn được bê tông hóa thấp; giao thông nội đồng, thủy lợi ít
được quan tâm đầu tư; chất lượng lưới điện nông thôn chưa thực sự an toàn;
các cơ sở, trang thiết bị, phương tiện đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa còn
thiếu và hư hỏng; trụ sở làm việc của các xã xuống cấp trầm trọng.
Bên cạnh đó phát triển nông nghiệp thiếu bền vững, thiếu định hướng,
còn tự phát; kinh tế phát triển chậm, sản xuất nhỏ lẽ, manh mún, năng suất lao
động thấp, chưa có nhiều mô hình sản xuất phù hợp, chất lượng hàng hóa
nông sản chưa đủ sức cạnh tranh với thị trường; việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, ứng dụng KHCN tiên tiến trong nông nghiệp còn chậm; Sự liên kết 4 nhà
(nhà nông – nhà nước – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp) chưa chặt chẽ,
đồng bộ dẫn đến việc thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông
thôn còn rất ít; kinh tế hộ, kinh tế trang trại, HTX còn khó khăn, bất cập, hạn
chế, thậm chí hoạt động yếu kém. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn cao, cơ hội

có việc làm mới tại địa phương không nhiều, lao động đã qua đào tạo còn
thấp. Đặc biệt là khu vực nông thôn tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo còn khá cao.
Mặc dù đời sống vật chất và tinh thần có nâng lên nhưng khoảng cách chênh
lệch giữa nông thôn và thành thị còn tương đối lớn.
Đời sống tinh thần của dân cư ở nông thôn còn hạn chế, nhiều nét văn
hóa truyền thống đang có nguy cơ mai mọt, biến dạng như: tiếng nói, trang
phục, phong tục; an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội một số nơi diễn biến
phức tạp, khó lường... Từ những thực trạng trên đòi hỏi cần phải có chính
sách toàn diện để phát triển nông thôn một cách bền vững, đó chính là chương
trình MTQG xây dựng NTM. Như vậy việc xây dựng NTM cần phải thể hiện
ở các nội dung sau:
- Về định hướng phát triển: yêu cầu đầu tiên trong xây dựng NTM là
công tác quy hoạch, đây là một nhiệm vụ hàng đầu của xây dựng NTM, là
định hướng chiến lược quan trọng và lâu dài để xây dựng, phát triển nông


12

thôn một cách bài bản, chủ động. Các loại quy hoạch cần có: quy hoạch sử
dụng đất, quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội, môi trường, quy hoạch
phát triển các khu dân cư.
- Về hạ tầng KT-XH: Xây dựng đường giao thông, hệ thống kênh mương
thủy lợi, hạ tầng trường lớp học, điện, chợ, cơ sở vật chất văn hóa và đặc biệt
là nhà ở dân cư, là tiền đề quan trọng để thay đổi bộ mặt nông thôn, đáp ứng
các nhu cầu phát triển KT-XH. Thực trạng chung của hạ tầng khu vực nông
thôn Việt Nam hiện nay là vừa yếu, vừa thiếu đồng bộ, trong khi đó nguồn
lực đầu tư hết sức hạn chế, khó khăn. Khi xây dựng NTM, yêu cầu các cấp
chính quyền phải huy động, lồng ghép các nguồn vốn để đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng đồng bộ.
- Về kinh tế: xây dựng NTM sẽ tạo điều kiện để khu vực nông thôn phát

triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá, hướng đến thị trường, giảm
nhanh tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo, nâng cao mức sống và thu nhập cho người
dân nông thôn. Để giải quyết tốt vấn đề này, nhà nước phải có cơ chế, chính
sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này; hỗ trợ, nhân rộng các mô
hình sản xuất hiệu quả, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng địa
phương; định hướng, hướng dẫn tổ chức sản xuất theo quy hoạch, tính toán,
giải quyết hài hòa đầu vào - đầu ra cho sản phẩm, đáp ứng yêu cầu thị trường,
nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng đất, đẩy mạnh ứng dụng
khoa học - công nghệ mới trong sản xuất; từng bước chấm dứt tình trạng sản
xuất manh mún, nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp, tự phát.
- Về con người, văn hóa, xã hội, môi trường:
+ Xây dựng NTM đòi hỏi cần phải có con người nông thôn "mới" (có tư
duy mới, có kiến thức mới, có ý thức mới và quyết tâm mới và có đời sống văn
hóa mới), có trình độ trong sản xuất, văn hóa trong ứng xử, sống hài hòa, thân
thiện với môi trường tự nhiên, xã hội và đặc biệt phải biết phát huy vai trò,


13

trách nhiệm là “chủ thể” trong xây dựng NTM. Để làm được điều này phải có
quá trình lâu dài, từng bước thay đổi nhận thức, xóa bỏ những tập quán lạc
hậu, phản khoa học, hình thành những thói quen mới tiên tiến, văn minh.
- Về an ninh, trật tự xã hội và hệ thống chính trị: phát huy dân chủ với
tinh thần thượng tôn pháp luật; gắn lệ làng, hương ước với pháp luật để điều
chỉnh hành vi con người, đảm bảo tính pháp lý, tôn trọng kỷ cương phép
nước, phát huy tính tự chủ, vai trò tự quản của làng, xã. Hệ thống chính trị
được xây dựng vững mạnh với đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ, năng
lực, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong giai đoạn mới. An ninh chính trị,
trật tự xã hội được giữ vững, người dân yên tâm sống trong môi trường xã hội
an toàn.

Để làm tốt được việc xây dựng NTM hiệu quả, thành công, Nhà nước
đóng vai trò chủ đạo tổ chức điều hành quá trình hoạch định và thực thi chính
sách, xây dựng đề án, cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ vốn,
kiến thức kỹ thuật, nguồn lực, tạo điều kiện vật chất, động viên tinh thần để
người dân thực hiện. Nhân dân tự nguyện tham gia, chủ động trong thực thi
chính sách và là “chủ thể” của quá trình xây dựng NTM . Các chính sách xây
dựng NTM sẽ tạo hiệu ứng tổng thể, thúc đẩy xã hội nông thôn phát triển theo
định hướng của Đảng, Nhà nước. Khi đó, vai trò của NTM được phát huy tối
đa, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của đánh giá chính sách xây
dựng Nông thôn mới
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của đánh giá chính sách xây dựng Nông
thôn mới
Để đưa ra được cách hiểu về đánh giá chính sách xây dựng NTM cần
phải làm làm rõ một số thuật ngữ sau:
Nông thôn Việt Nam là danh từ để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ Việt


14

Nam, ở đó, người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp [33].
Trong quản lý hành chính nhà nước, theo Thông tư 54/2009/TTBNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn thì: Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các
thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã.
Như vậy, nông thôn, trước hết đó không phải là đô thị (về không gian
sống, về cấu trúc và tổ chức xã hội, về quan hệ con người và sinh kế), là môi
trường sống của người nông dân, nơi diễn ra các hoạt động kinh tế, văn hóa,
xã hội với nhiều nét đặc thù của khu vực nông thôn. Nông thôn là nơi định cư
của những người sống chủ yếu bằng nghề nông, đất đai là tư liệu sản xuất
chính; về cơ cấu kinh tế, nông nghiệp chiếm tỷ trọng chủ yếu; bên cạnh nông

dân sống bằng nghề nông nghiệp, khu vực nông thôn vẫn có một số ít người
sống bằng nghề phi nông nghiệp, chủ yếu là kinh doanh nhỏ, làm nghề truyền
thống với phân công lao động giản đơn, trình độ sản xuất không cao. Một
trong những đặc điểm lớn của cư dân nông thôn là có mối quan hệ họ tộc và
gia đình khá chặt chẽ, khắng khít, tính cộng đồng cao, các thiết chế xã hội
như gia đình, dòng họ, làng xóm... chi phối lớn đến hành vi của mỗi người.
Nông thôn mới: Hiện nay có nhiều cách hiểu, nhiều quan niệm khác
nhau về NTM, tùy thuộc vào cách tiếp cận của từng nhà nghiên cứu dưới các
góc độ khác nhau như: văn hóa, xã hội học, kinh tế, quản lý nhà nước... Theo
Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa X) về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn thì: Nông thôn mới: là nông
thôn có kết cấu hạ tầng KT -XH từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các
hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội
nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh
thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần


15

của người dân ngày càng được nâng cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng nông thôn với các nội dung trên, Thủ tướng Chính phủ đã
ký Quyết định số 491/QĐ-TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM bao
gồm 19 tiêu chí. Khi xã đạt đủ 19 tiêu chí thì được công nhận là xã NTM.
NTM về bản chất vẫn là nông thôn, là khu vực cộng đồng dân cư nông
thôn sinh sống, nhưng phát triển ở mức cao hơn, với những đặc trưng cơ bản:
- Nông thôn được xây dựng và phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ
tầng hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ;
- Kinh tế phát triển, xã hội ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của
người dân được nâng lên;

- Bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy; dân trí được nâng
lên;
- An ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo;
- Hệ thống chính trị vững mạnh, dân chủ.
Xây dựng NTM của Việt Nam hiện nay là chủ trương, quyết sách lớn của
Đảng, Nhà nước ta nhằm xây dựng nông thôn phát triển bền vững, có kinh tế
phát triển, đời sống của người dân được nâng lên, an ninh - chính trị được
đảm bảo, các giá trị văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy... Cụ thể là xây
dựng nông thôn đạt 19 tiêu chí trong Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM. Hay nói
cách khác, xây dựng NTM là quá trình thực hiện chính sách NTM.
Đánh giá chính sách là xem xét nhận định về giá trị các kết quả đạt được
khi ban hành và thực thi một chính sách công. Để có thể đi vào cuộc sống,
chính sách công được cụ thể hóa thành các quy định của pháp luật, việc nhìn
nhận và đánh giá chính sách do đó thường gắn với sự đánh giá những quy
định pháp luật này có phù hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay không và
chúng được vận hành như thế nào trên thực tế. Chính sách công không chỉ thể
hiện trong các quy định pháp luật mà chúng còn nằm trong các chương trình,


16

kế hoạch, chủ trương hoạt động của Nhà nước. Do đó, đánh giá chính sách
công phải bao quát việc xem xét về tổng thể các quyết định của Nhà nước
trong việc giải quyết một vấn đề cấp thiết đặt ra trong quá trình quản lý nhà
nước. Việc đánh giá chính sách không chỉ xem xét, nhận định về nội dung mà
còn cả quá trình thực thi chính sách để trên cơ sở đó có giải pháp điều chỉnh
cho phù hợp.
Có nhiều khái niệm về đánh giá chính sách công:
Đánh giá chính sách công là khách quan, hệ thống và kiểm tra thực
nghiệm các kết quả và mục tiêu dự kiến đạt được đối với đối tượng của chính

sách đang được thực thi [34].
Đánh giá chính sách là học hỏi về các kết quả của chính sách công [34].
Đánh giá chính sách công là việc xem xét trung thực kết quả đầu ra các
hoạt động trong chu trình chính sách công, nhận định có hệ thống những tác
động do việc thực hiện các giải pháp chính sách công mang lại và so sánh nó
với mục tiêu ban đầu để xác định mức độ đạt được mục tiêu mong muốn về
lượng và chất [14 tr.319].
Từ những lý luận nêu trên và các khái niệm về đánh giá chính sách công,
bản thân tôi xin đưa ra khái niệm Đánh giá chính sách xây dựng NTM là: việc
xem xét, đánh giá, nhìn nhận lại các giá trị, kết quả và hiệu quả đã đạt được
trong quá trình triển khai thực thi chính sách xây dựng NTM trên địa bàn
nông thôn.
Từ khái niệm về đánh giá chính sách xây dựng Nông thôn mới có thể chỉ
ra một số đặc điểm của đánh giá chính sách như sau:
Một là, đánh giá đầu vào của chính sách xây dựng NTM: Đánh giá đầu
vào nhằm tổng hợp, đo lường số lượng chi phí đầu vào của các chương trình,
nội dung, hoạt động, yêu cầu liên quan đến xây dựng NTM bao gồm tiền, của,
công của Nhà nước và sự nổ lực của đội ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước


17

các cấp, của người dân để hoàn thành mục tiêu xây dựng NTM đề ra. Mục
đích của đánh giá đầu vào là thiết lập một hệ thống cơ sở số liệu để sau này so
sánh, đối chiếu với kết quả đạt được sau khi thực hiện chính sách xây dựng
NTM.
Hai là, đánh giá đầu ra (hay còn gọi là đánh giá thực thi) của chính sách
xây dựng NTM là xem xét kết quả đầu ra của chính sách xây dựng NTM.
Mục đích chính của đánh giá này là xem chính sách NTM đã, đang đem lại
kết quả như thế nào và dự báo sẽ tạo ra những giá trị, hiệu quả gì cho người

dân, cho xã hội. Đồng thời nếu trong quá trình thực thi phát hiện những vấn
đề bất cập hoặc không còn phù hợp với thực tiễn thì phải có giải pháp điều
chỉnh, bổ sung, có thể cho dừng hoặc tiếp tục thực thi chính sách để đảm bảo
mục tiêu đề ra, đảm bảo yêu cầu thực tiễn.
Ba là, đánh giá hiệu quả xã hội của chính sách xây dựng NTM mang lại
đối với người dân, đối với xã hội và hiệu quả bền vững của chính sách xây
dựng NTM khi mà Nhà nước không đầu tư nữa. Thông qua việc đánh giá này,
nhìn nhận lại sự nhận thức, ý thức, trách nhiệm của cán bộ, của người dân
trong việc thực hiện chính sách xây dựng NTM. Đặc biệt là trách nhiệm của
người dân với vai trò nòng cốt là “chủ thể” trong xây dựng NTM trên tất cả
mọi mặt ở nông thôn như: trong việc xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh ở
nông thôn, giữ gìn, bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống làng quê, dòng
tộc; bảo vệ môi trường; giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương; tự nguyện đóng
góp công, của xây dựng và duy trì NMT ở địa bàn; góp ý xây dựng Đảng,
chính quyền, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh…
Bốn là, đánh giá hiệu quả kinh tế của việc xây dựng chính sách nông
thôn mới: Thông qua việc đánh giá này nhằm xem xét các chi phí của việc
đầu tư xây dựng NTM như vậy là phù hợp với điều kiện ngân sách hiện có
hay chưa. Các đánh giá đầu vào, đầu ra của chính sách xây dựng NTM là cơ


18

sở để đánh giá hiệu quả kinh tế của nó. Khi thực hiện đánh giá này thì yêu cầu
phải thực hiện tốt việc phân tích đầu vào, đầu ra để đạt kết quả tương đối
chính xác. Người ta có thể dùng một trong hai cách sau:
Cách thứ nhất: lấy kết quả đầu ra chia cho chi phí đầu vào, nếu thương
của phép chia này lớn hơn 1 thì có nghĩa là chính sách này thực hiện được;
nếu bằng 1 thì có nghĩa là hòa vốn và nếu nhỏ hơn 1 thì không hiệu quả về
phương diện kinh tế.

Cách tính thứ hai: Lấy kết quả đầu ra trừ chi phí đầu vào. Nếu hiệu số
của phép trừ này lớn hơn 0 thì có nghĩa là chính sách này thực hiện có hiệu
quả; nếu bằng không nghĩa là hòa vốn và nếu nhỏ hơn 0 thì chính sách không
hiệu quả về phương diện kinh tế.
Tuy nhiên trong thực tế hiện nay đối với chính sách xây dựng NTM việc
lượng hóa toàn bộ các tiêu chí để đánh giá cũng không phải là điều dễ dàng,
bởi một số tiêu chí mang tính định tính, hoặc cả hai vừa định lượng, vừa định
tính. Hoặc có thể đánh giá về hiệu quả kinh tế thì không đạt, nhưng về hiệu
quả xã hội thì lại đạt khá cao.
Để đánh giá chính sách nói chung, chính sách xây dựng NTM nói riêng,
thì vai trò của chủ thể đánh giá rất quan trọng. Có nhiều chủ thể để thực hiện
việc đánh giá chính sách, nhưng chủ thể đầu tiên và quan trọng nhất phải là cơ
quan ban hành chính sách; tiếp theo đó là các cơ quan liên quan phối hợp
trong việc hoạch định, thực hiện chính sách; các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và đặc biệt là vai trò của người dân với tư cách là người trực tiếp
thực hiện cũng như trực tiếp hưởng lợi từ chính sách xây dựng NTM mang lại
tham gia vào quá trình đánh giá chính sách.
1.2.2. Vai trò của đánh giá chính sách xây dựng Nông thôn mới
Cùng với việc xây dựng và thực thi chính sách thì việc đánh giá chính
sách là một khâu rất quan trọng của quy trình chính sách nói chung. Đối với


19

chính sách xây dựng NTM là một chính sách tổng thể bao gồm nhiều nội
dung, nhiều lĩnh vực trên các mặt liên quan của kinh tế - văn hóa - xã hội quốc phòng an ninh ở nông thôn nên việc đánh giá quá trình hoạch định chính
sách, thực thi chính sách cho đến kết quả, hiệu quả, tác động của chính sách
xây dựng NTM ở từng nội dung, từng lĩnh vực là hết sức cần thiết. Do vậy
việc đánh giá chính sách xây dựng NTM có các vai trò quan trọng sau:
Thứ nhất, qua việc đánh giá nhằm mục đích kiểm tra, rà soát lại chính

sách đã ban hành và triển khai thực hiện có phù hợp với khu vực nông thôn
của từng vùng trên cả nước hay chưa; chính sách đã đi vào thực tiễn cuộc
sống và được người dân hưởng ứng tích cực hay chưa; sự phân công trách
nhiệm của từng bộ, ngành, địa phương đối với các nội dung liên quan đến bộ
tiêu chí xây dựng NTM do Chính phủ ban hành; sự phối hợp giữa các cơ quan
với nhau trong việc hoạch định cũng như triển khai thực hiện chính sách xây
dựng NTM. Để trên cơ sở đó có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực
tế.
Thứ hai, đối chiếu, so sánh, kiểm chứng lại mức độ, kết quả, hiệu quả cả
kinh tế, lẫn xã hội trước và sau khi triển khai thực hiện chính sách xây dựng
NTM ở các địa phương và cả kết quả đạt được so với chi phí đầu tư trên lĩnh
vực này để trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp và có biện pháp thực hiện hiệu
quả hơn, cũng có thể tiếp tục cho triển khai thực hiện chính sách hay dừng
việc thực hiện chính sách đó.
Thứ ba, qua đánh giá chính sách cũng đồng thời thấy được những mặt
mạnh, mặt yếu, cơ hội và thách thức trong việc thực hiện chính sách xây dựng
NTM ở khu vực nông thôn để từ đó có những đề xuất, kiến nghị điều chỉnh,
sửa đổi, bổ sung kịp thời chính sách nhằm đạt được mục tiêu đề ra và có
những dự báo, định hướng trong tương lai, yêu cầu của việc xây dựng NTM


×