Tải bản đầy đủ (.docx) (126 trang)

Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân tỉnh bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.57 KB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

............./.............

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THÁI QUỲNH NHƯ

BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN
THUỘC UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

NGUYỄN THÁI QUỲNH NHƯ

BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN
THUỘC UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60 34 04 03



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN TRỌNG ĐỨC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của Lãnh đạo Ban Văn hóa Xã hội Hội đồng nhân dân tỉnh, Lãnh đạo và công chức các cơ quan chuyên môn
của Ủy ban nhân dân tỉnh, công chức của Ban Tổ chức Tỉnh ủy, một số cán bộ
hưu trí của ngành tổ chức đã cung cấp số liệu, thông tin cùng những đóng góp ý
kiến quý báu cho luận văn và sự góp ý, hướng dẫn nhiệt tình, trách nhiệm của
thầy Trần Trọng Đức, giảng viên Học viện Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cám ơn!

3


CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chua từng đuợc công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
đuợc cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã đuợc chỉ rõ nguồn gốc

Học viên thực hiện luận văn

Nguyễn Thái Quỳnh Như
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH



Hình 2.1. Cán bộ, công chức, viên chức, tỉnh
Bảng 2.1. Tổng hợp số liệu công chức các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh về giới tính, đảng viên, dân
tộc, tôn giáo, ngạch
Bảng 2.2. Tổng hợp số liệu công chức các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh về trình độ chuyên môn,
chính trị, tin học, ngoại ngữ

Trang
45
47-48
49-51


MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa..............................................................................................................

3.3.1.

Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, xác định rõ và quán triệt tiêu chuẩn cán bộ
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Trải qua quá trình hoạt động cách mạng, Đảng ta đã lựa chọn, rèn luyện và hình

thành được đội ngũ cán bộ, công chức dày dạn kinh nghiệm trong chiến đấu và công tác,
nắm vững và biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, gắn bó chặt chẽ với quần
chúng, có uy tín cao trong Đảng và nhân dân. Tuy nhiên, bước sang giai đoạn thực hiện

công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, chất
lượng của đội ngũ cán bộ, công chức còn có những hạn chế, chưa theo kịp sự tiến triển
của tình hình mới. Đảng ta đã chỉ ra rằng, sự trì trệ, bảo thủ trên nhiều mặt của công tác
cán bộ trong nhiều năm qua là một trong những nguyên nhân chủ yếu của sự trì trệ trong
tổ chức thực hiện và nhiều mặt khác. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V,
Đảng ta đã nêu rõ “Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc càng phức
tạp, vai trò lãnh đạo của Đảng càng tăng thì vị trí quyết định của công tác cán bộ, đặc
biệt là của việc bồi dưỡng, đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt càng lớn” [16, tr.110].
Hiện nay, nước ta đang ở chặng đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đang
trong giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Quy mô, tầm cỡ, tính chất phức tạp của nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; cuộc chiến đấu không khoan nhượng về ý thức chính trị giữa
nhân dân ta với các thế lực thù địch và ngay trong nội bộ đất nước đang đòi
hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng. Muốn thế, Đảng phải tiếp tục đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy
trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, đổi mới công tác cán bộ và đội
ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo. Trong đó đổi mới về công tác cán
bộ là khâu trọng yếu có quan hệ khăng khít và tác động qua lại với đổi mới
tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới phong cách. Cán bộ là nhân tố quyết định
sự thành bại việc tổ chức thực hiện mọi đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, là nhân tố quyết định việc thực hiện thành công
quá trình đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về kinh tế - xã hội cũng như tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội

6


nhập quốc tế. Do đó, phải xây dựng được đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững
vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Bình Dương là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, trong

những năm qua, Đảng bộ và nhân dân Bình Dương đã ra sức thi đua, nỗ lực phấn đấu
hoàn thành thắng lợi nhiều nhiệm vụ, mục tiêu quan trọng, đưa Bình Dương trở thành
nhóm tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước trong sự nghiệp đổi mới, đời sống vật chất và
tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt, là tỉnh duy nhất trong cả nước không còn
hộ nghèo theo tiêu chí quốc gia... Đạt được những thành tựu trên, bên cạnh sự lãnh đạo,
chỉ đạo kịp thời của các ngành, các cấp ở Trung ương, sự chỉ đạo, quyết đoán cùng với
tầm nhìn chiến lược của lãnh đạo tỉnh,...còn có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ
công chức của tỉnh nói chung và đội ngũ công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân tỉnh Bình Dương nói riêng.
Là những người làm việc trong các cơ quan tham mưu cho Ủy ban nhân dân
tỉnh quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương, công chức các cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh vừa là những người tham gia hoạch định vừa thực thi
chính sách, quyết định của Nhà nước, vừa là yếu tố quyết định sự thành bại của các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương; hoạt động thực thi công vụ
của họ có vai trò quan trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy
quản lý hành chính Nhà nước của tỉnh; do đó, trình độ, năng lực, tinh thần trách nhiệm
và thái độ phục vụ nhân dân của công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân tỉnh không chỉ ảnh hưởng trực tiếp mà còn chi phối đến chất lượng, hiệu quả
hoạt động và uy tín đối với nhân dân cũng như các tổ chức, cá nhân có quan hệ, giao
dịch, sử dụng dịch vụ của những cơ quan này. Tuy nhiên, chất lượng của đội ngũ công
chức đang làm việc tại các cơ quan chuyên môn hiện nay cũng còn nhiều hạn chế, vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của tỉnh, vừa không đồng đều, vừa có nhiều mặt
chưa đáp ứng yêu cầu; một số công chức có nhiều bằng cấp nhưng không thể sử dụng
hiệu quả trong công tác chuyên môn; trình độ ngoại ngữ và kỹ năng giao tiếp còn yếu,


hầu hết công chức lãnh đạo, quản lý chưa được đào tạo cơ bản về quản lý đô thị, về
kinh tế thị trường, ngoại ngữ... dẫn đến việc chất lượng chưa đủ mạnh; chưa thật sự
đảm bảo tính kế thừa, liên tục, làm cho công tác quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ
luôn bị động, chắp vá ít nhiều gây trở ngại cho việc kiện toàn tổ chức bộ máy. Nâng

cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân
dân tỉnh ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện nay là một đòi
hỏi cần phải được thực hiện có hiệu quả nhất là khi Bình Dương đang chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển dịch vụ - công nghiệp gắn với quá trình đô thị
hóa, đầu tư phát triển nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao.
Xuất phát từ thực tiễn trên và từ sự cần thiết phải nâng cao chất chất lượng đội
ngũ công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương để
đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh trong giai đoạn hiện nay, tôi chọn đề tài “Bồi dưỡng
công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Dương” nhằm
mục đích nâng cao nhận thức cá nhân và góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề phát
sinh trong thực tế cần được giải quyết để xây dựng đội ngũ này ngày càng phù hợp và
ngang tầm với nhiệm vụ hiện nay.
r
2r|W 1

_

1

r_ __ 1



-*Ạ

-*Ại>

•■^

y


. Tình hình nghiên cứu liên quan đen đê tài luận văn
Sau ngày thống nhất đất nước, đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh được hình
thành từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm cán bộ, công chức là người địa phương đã
kinh qua kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và số mới tuyển dụng; cán bộ, công chức
do Trung ương tăng cường và các địa phương khác được điều động đến; cán bộ, công
chức của các đơn vị được sáp nhập, cán bộ, công chức ngành khác chuyển sang. Phần
lớn đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh có trình độ từ trung cấp chuyên môn trở xuống,
trong số này có số ít người tốt nghiệp đại học, được đào tạo về quản lý Nhà nước, quản
lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp theo mô hình của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu nên khi vận dụng trong thực tế và công tác chuyên môn có nhiều điểm bất cập hoặc
không phù hợp; số cán bộ, công chức sử dụng được ngoại ngữ và tin học trong công tác
chuyên môn hầu như không có; số cán bộ, viên chức khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ lưu


dụng của chế độ cũ phải mất một thời gian nhất định mới thích nghi được với phương
pháp vận hành tổ chức, bộ máy, với sự điều hành, lãnh đạo của các cán bộ kháng chiến
và cán bộ được tăng cường từ miền Bắc vào đang là lãnh đạo cơ quan, đơn vị.. .trong
khi khối lượng công việc cần giải quyết rất lớn. Những yếu tố trên ảnh hưởng không ít
đến định hướng lãnh đạo của tổ chức đảng, của cấp ủy về công tác cán bộ, về thực hiện
nhiệm vụ chính trị và sự điều hành của các cấp chính quyền và đoàn thể trong toàn
tỉnh.
Mặc dù Trung ương đã có nhiều văn bản chỉ đạo về công tác cán bộ nhưng Bình
Dương cũng như một số nơi khác trong cả nước chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm
quan trọng của công tác này, phần nào chạy theo chỉ đạo những nhiệm vụ cấp bách
trước mắt của đảng bộ, chưa quan tâm đúng mức đến công tác cán bộ nên không tránh
khỏi khó khăn do hậu quả của tình hình trên để lại như chưa kết hợp tốt giữa quản lý
đảng viên của tổ chức đảng và quản lý cán bộ của chính quyền, đoàn thể để kiểm tra,
giáo dục và lựa chọn cán bộ, vì vậy có trường hợp đánh giá cán bộ không rõ, thiếu sự
nhất trí và chưa loại trừ được yếu tố ngẫu nhiên, tùy tiện trong công tác cán bộ. Công

tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ còn bị chi phối khá nặng bởi quan điểm đánh giá và lựa
chọn người theo lối cũ, quá nhấn mạnh đến quá trình công tác, cống hiến, nặng về tác
phong, thái độ, về cấp bậc, chức vụ đã qua, chưa thật sự lấy hiệu quả công việc làm
thước đo chủ yếu của phẩm chất và năng lực cán bộ.
So sánh về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp tỉnh từ năm 2010 trở về
trước với hiện nay thì đội ngũ này từng bước được kiện toàn, số lượng ngày càng đủ và
chất lượng từng bước được nâng cao; có bước trưởng thành trong việc lãnh đạo xây
dựng và quản lý kinh tế, quản lý hành chính Nhà nước. Nhưng nhìn chung, sự tiến bộ
vẫn còn chậm, chất lượng vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, thể hiện rõ nhất là
năng lực lãnh đạo, trình độ quản lý chưa toàn diện, năng lực tổ chức thực tiễn còn yếu.
Nhận thấy rõ những bất cập trên, thời gian qua Bình Dương cũng đã đề ra nhiều giải
pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ chính trị mà tỉnh được giao; qua
05 năm thực hiện Chương trình hành động số 20-CTrHĐ/TU, ngày 20/7/2011 của Tỉnh


ủy về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Tỉnh giai đoạn 2011 - 2015, Bình
Dương đã cơ bản tạo được nguồn cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
trình độ chuyên môn, lý luận chính trị cao, có kiến thức vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn...Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ, công chức này nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu của tình hình mới, trình độ và năng lực quản lý kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế,
ngoại ngữ còn yếu, chất lượng phục vụ một số dịch vụ hành chính công chưa đạt yêu
cầu, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho quá trình phát triển và hội nhập
kinh tế của tỉnh. Vấn đề này đặt ra cho Bình Dương phải tiếp tục có những giải pháp tốt
hơn để hoàn thiện đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh ngang tầm với giai đoạn phát
triển hiện nay của Bình Dương.
Và làm thế nào để hoàn thiện, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là
câu hỏi được nhiều ngành chức năng của Việt Nam nói chung và của tỉnh Bình Dương
nói riêng quan tâm nghiên cứu, nhằm tìm ra giải pháp phù hợp để xây dựng đội ngũ
này ngày một vững mạnh hơn. Và bản thân, với tư cách là một công chức của tỉnh Bình
Dương cũng quan tâm tới vấn đề này. Một trong những giải pháp được xem là quan

trọng hàng đầu và có hiệu quả đó chính là đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ, công
chức. Về nội dung này, có rất nhiều đề tài nghiên cứu nhưng chưa có đề tài nào phân
tích, nghiên cứu có hệ thống về một đối tượng chuyên biệt đó là “bồi dưỡng công chức
các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh”. Tại Bình Dương, tính đến
thời điểm hiện nay, ngoài các văn bản của Tỉnh có liên quan đến việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức thì trước tôi chưa có tác giả nào nghiên cứu một cách có hệ
thống, toàn diện về nội dung này. Thông qua những nội dung được đề cập trong luận
văn của mình, tôi mong muốn góp một phần rất nhỏ để tìm ra hướng giải quyết phù
hợp, hiệu quả cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của tỉnh nói chung và
bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh nói riêng
trong thời gian tới, qua đó góp phần xây dựng đội ngũ này ngày càng phù hợp và ngang
tầm với nhiệm vụ hiện nay.


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: luận văn phân tích, làm rõ thực trạng đội ngũ công chức và công
tác bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn; trên cơ sở nhận thức những quan
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng trong xây dựng đất nước, xây dựng cán bộ thời
kỳ mới, định hướng phát triển của Bình Dương và từ thực trạng của công tác này để đề
xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh trong thời gian tới, từ đó góp phần xây dựng đội ngũ
này đáp ứng yêu cầu phát triển của Tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ: luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận về công chức, bồi dưỡng công
chức, các yếu tố ảnh hưởng đến bồi dưỡng công chức, phân tích thực trạng và đánh giá
đúng thực chất, toàn diện, khách quan công tác bồi dưỡng công chức các cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương để tìm ra những ưu điểm, hạn
chế thiếu sót cùng những nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm, trên cơ sở lý luận
và thực trạng của địa phương đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi
dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu: bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: tại tỉnh Bình Dương.
Thời gian: từ giai đoạn 2011-2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của
Chủ nghĩa Mac-Lênin, quan điểm Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước có liên quan đến công chức
và công tác bồi dưỡng công chức.
- Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng phương pháp thu thập và xử lý
thông tin để phân tích, so sánh, tổng hợp số liệu, nghiên cứu các bài viết trên tạp chí,


website, các sách chuyên khảo có liên quan, sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng
hỏi và tiến hành khảo sát 126 đối tượng là công chức đang công tác tại các cơ quan
chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh, phỏng vấn 23 chuyên gia là lãnh đạo các cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, lãnh đạo Ban Văn hóa-Xã hội Hội đồng
nhân dân tỉnh, một số cán bộ hưu trí của ngành tổ chức để đánh giá thực trạng đội ngũ
công chức và tình hình bồi dưỡng công chức từ đó đề xuất giải pháp sát thực nhằm
nâng cao chất lượng bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: luận văn cung cấp cấp hệ thống lý luận cơ bản về bồi dưỡng công
chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để làm cơ sở so sánh,
đánh giá thực tiễn.
Về thực tiễn: luận văn tổng kết thực tiễn và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm
nâng cao chất lượng bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân
dân tỉnh Bình Dương. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho những cá nhân
quan tâm đến đề tài này

7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 03 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Chương 2. Thực trạng bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân tỉnh Bình Dương
Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng công chức
các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương trong thời gian tới


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CÁC CƠ QUAN CHUYÊN
MÔN THUỘC UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Khái quát về công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh
1.1.1. Khái niệm công chức
Không có một khái niệm chung hay tên gọi chung về công chức cho các quốc
gia trên thế giới, tùy theo cách thức quan niệm của mỗi quốc gia mà phạm vi công chức
có thể rộng, hẹp ở mỗi quốc gia. Quan niệm về công chức mang tính lịch sử và xã hội
nhiều hơn là mang tính khoa học. Do đó, khi nghiên cứu công chức của một quốc gia
nào thì ta phải đặt trong bối cảnh lịch sử và xã hội của quốc gia đó để hiểu rõ hơn. Các
nước trên thế giới có quan niệm về công chức khác nhau nhưng đa phần đều có điểm
chung là công chức chỉ có trong bộ máy nhà nước. Riêng ở Việt Nam, công chức còn có
trong các tổ chức chính trị - xã hội và khái niệm về công chức đã nhiều lần thay đổi qua
các thời kỳ lịch sử. Hiện nay, công chức được xác định theo khoản 2 và 3, điều 4 của
Luật cán bộ, công chức năm 2008 như sau:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức
vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị
- xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân

dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong
cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật.
Ở cấp xã, công chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách nhà nước.


Như vậy, theo quy định trên, căn cứ để xác định một người là công chức, thì
người đó phải đảm bảo các tiêu chí sau:
- Là công dân Việt Nam;
- Được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh;
- Trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước hoặc được đảm bảo từ
quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật;
- Làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan,
đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, trong Ủy ban nhân dân cấp xã.
Ngoài ra, những trường hợp đã đủ căn cứ xác định là công chức theo các tiêu chí
trên mà kiêm nhiệm một số chức danh, chức vụ được bầu cử (không chuyên trách) theo
quy định của pháp luật hoặc theo điều lệ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội
thì được xác định là công chức và những người đang làm viêc chuyên trách công tác
Đảng, công đoàn, đoàn thanh niên tại các cơ quan nhà nước, ở trong biên chế công
chức, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được bổ nhiệm vào một ngạch thì cũng được
xác định là công chức [10].
Những người đang làm việc ở các vị trí được pháp luật quy định là công chức

trong đơn vị sự nghiệp công lập mà chưa được tuyển dụng (đang thực hiện chế độ hợp
đồng lao động) và những người là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng trong quân đội nhân dân Việt Nam và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong
Công an nhân dân Việt Nam không phải là công chức [10].
1.1.2. Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 bị thay thế bởi
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015. Hiện Chính phủ chưa ban hành Nghị
định quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo
Luật Tổ chức chính quyền địa phương nên trong luận văn này, về vị trí, chức năng của
các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ trình bày theo Luật Tổ


chức chính quyền địa phương, còn việc tổ chức bộ máy của các cơ quan này sẽ trình
bày theo Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ Quy định tổ
chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương (sau đây gọi tắt là Nghị định 24, Nghị định này hướng dẫn thực hiện Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003).
1.1.2.1. Tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Điều 8 và 9, Nghị định số 24 của Chính phủ quy định cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh gồm có các sở và cơ quan tương đương sở, bao gồm:
- Các sở được tổ chức thống nhất ở các địa phương: Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, Sở
Kế hoạch và đầu tư, Sở Tài chính, Sở Công thương, Sở Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, Sở Giao thông vận tải, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và môi trường, Sở Thông tin
và truyền thông, Sở Lao động - Thương binh và xã hội, Sở Văn hóa, thể thao và du lịch,
Sở Khoa học và công nghệ, Sở Giáo dục và đào tạo, Sở Y tế, Thanh tra tỉnh, Văn phòng
Ủy ban nhân dân.
-

Các sở đặc thù được tổ chức ở một số địa phương:
+ Sở Ngoại vụ được thành lập khi đáp ứng các tiêu chí sau:

♦ Có đường biên giới trên bộ và có cửa khẩu quốc tế hoặc quốc gia;

♦ Đối với những tỉnh không có đường biên giới, nhưng phải có đủ các điều kiện
sau:
Có các Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao, Khu kinh tế
mở, Khu kinh tế cửa khẩu được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập;
Có khu du lịch quốc gia hoặc di sản văn hóa được UNESCO công nhận.
Những tỉnh không đủ tiêu chí thành lập Sở Ngoại vụ thì được thành lập Phòng Ngoại vụ
thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Phòng Ngoại vụ chịu sự chỉ đạo trực tiếp
của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bảo đảm cơ sở vật
chất và hành chính quản trị cho hoạt động của Phòng Ngoại vụ
+ Ban dân tộc được thành lập ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khi
đảm bảo có 2 trong 3 tiêu chí sau:


♦ Có trên 20.000 (hai mươi nghìn) người dân tộc thiểu số sống tập trung thành
cộng đồng làng, bản;
♦ Có trên 5.000 (năm nghìn) người dân tộc thiểu số đang cần Nhà nước tập trung
giúp đỡ, hỗ trợ phát triển;
♦ Có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở địa bàn xung yếu về an ninh, quốc
phòng; địa bàn xen canh, xen cư; biên giới có đông đồng bào dân tộc thiểu số
nước ta và nước láng giềng thường xuyên qua lại.
Đối với những tỉnh có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống nhưng chưa đáp ứng
các tiêu chí như trên thì thành lập Phòng Dân tộc (hoặc bố trí công chức) làm công tác
dân tộc thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Phòng Dân tộc (hoặc công chức)
làm công tác dân tộc chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Văn phòng
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đảm bảo cơ sở vật chất và hành chính quản trị cho hoạt động
của Phòng Dân tộc.
+ Sở Quy hoạch - Kiến trúc: được thành lập ở thành phố Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh

+ Cơ quan chuyên môn đặc thù khác: chỉ được tổ chức khi thật cần thiết, phù
hợp với đặc điểm, tình hình phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước ở địa phương. Căn cứ tiêu chí do Thủ tướng Chính phủ quy định, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh xây dựng đề án thành lập cơ quan chuyên môn đặc thù khác, trình Hội
đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên
quan xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ quy định lĩnh vực đặc thù, tiêu chí thành lập
cơ quan chuyên môn về một số lĩnh vực đặc thù khác.
Các cơ quan: Ban Quản lý các Khu công nghiệp, Khu công nghệ cao, Khu kinh
tế và Ban Quản lý có tên gọi khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Văn phòng Đoàn
Đại biểu Quốc hội tỉnh, Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; các đơn vị sự nghiệp
công lập trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các tổ chức thuộc cơ quan Trung ương
được tổ chức theo ngành dọc đặt tại địa phương không phải là cơ quan chuyên môn của
Ủy ban nhân dân tỉnh.


1.1.2.2. Cơ cấu tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh
Điều 5, Nghị định 24 quy định cơ cấu tổ chức của sở bao gồm:
- Văn phòng;
- Thanh tra;
- Phòng chuyên môn, nghiệp vụ;
- Chi cục;
- Đơn vị sự nghiệp công lập.
Không nhất thiết các sở đều có các tổ chức Thanh tra, Chi cục, Đơn vị sự nghiệp
công lập. Riêng Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh có Cổng Thông tin điện tử.
Các sở có người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu (gọi chung là giám
đốc sở và phó giám đốc sở)
Số lượng phó giám đốc sở không quá 03 người; riêng số lượng Phó Giám đốc
các sở thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh không quá 04 người.

1.1.2.3. Vị trí, chức năng của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh
Khoản 1 và 2, Điều 9, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy
định: “cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân được tổ chức ở cấp tỉnh là cơ quan
tham mưu giúp Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh
vực ở địa phương và thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn theo sự phân cấp, ủy quyền của
cơ quan nhà nước cấp trên. Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu
sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân, đồng thời
chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về nghiệp vụ của cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực
cấp trên”.
Như vậy, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh là cơ quan tham mưu
cho Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương, đồng thời
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan nhà nước cấp trên ủy quyền, phân cấp.
Do đó, vai trò của các cơ quan này rất quan trọng, điều đó cũng có nghĩa là công chức


của các cơ quan này cũng có vai trò rất quan trọng, năng lực công chức tốt góp phần
giúp cho việc tham mưu và thực hiện các chủ trương, quyết định được tốt hơn.
1.1.3. Công chức và vai trò của công chức các cơ quan chuyên môn thuộc
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
Căn cứ khoản 2, Điều 20, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy
định cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh và Nghị định số 06/2010/NĐ- CP
ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định những người là công chức, Thông tư số
08/2011/TT-BNV ngày 02/6/2011 của Bội Nội vụ hướng dẫn thêm một số điều của
Nghị định 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ, thì công chức các cơ quan
chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh bao gồm:
Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân tỉnh; người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong các
tổ chức không phải là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ cấu tổ chức của cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh; người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập

được ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động thuộc cơ quan chuyên môn của Ủy
ban nhân dân tỉnh.
Theo quy định này công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
tỉnh bao gồm:
Giám đốc sở, phó giám đốc sở, trưởng phòng, phó trưởng phòng, những người
làm việc trong các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của sở (đã được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước), người đứng đầu các
đơn vị sự nghiệp công lập thuộc sở.
Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh có vai trò quan trọng nên công
chức của các cơ quan này cũng có vai trò quan trọng. Họ là những người vừa tham gia
hoạch định vừa thực thi chính sách, quyết định của Nhà nước, là yếu tố quyết định sự
thành bại của các chủ trương, chính sách, trình độ, năng lực, tinh thần trách nhiệm và
thái độ phục vụ nhân dân của họ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác, hoạt động
của các cơ quan này. Điều đó cũng có nghĩa các cơ quan chuyên môn hoạt động có hiệu
quả tức là thực hiện tốt chức năng tham mưu sẽ giúp cho Ủy ban nhân dân tỉnh điều


hành, quản lý tốt các hoạt động ở địa phương, qua đó góp phần vào sự phát triển chung
của Tỉnh ngược lại các cơ quan này hoạt động không hiệu quả, sẽ kìm hãm, gây khó
khăn cho sự phát triển của Tỉnh. Do đó, công chức của các cơ quan này có vai trò vô
cùng quan trọng, hoạt động thực thi công vụ của họ có vai trò quan trọng, quyết định
đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước ở địa phương.
Tiêu chuẩn công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh gồm
có tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể đối với từng nhóm công chức. Tiêu chuẩn
chung là điều kiện cần thiết, bắt buộc đầu tiên đối với tất cả công chức bao gồm là công
dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, đủ sức khỏe công tác, có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, tin học, ngoại ngữ. Bên cạnh các tiêu chuẩn chung còn có tiêu chuẩn cụ thể, tiêu
chuẩn này gắn với vị trí việc làm cụ thể mà công chức đảm nhận, chẳng hạn công chức
chuyên môn sở xây dựng phải có đại học chuyên ngành xây dựng hoặc kiến trúc, công
chức chuyên môn tư pháp phải có đại học chuyên ngành luật...Trên thực tế việc ban

hành tiêu chuẩn cụ thể chưa làm được nhiều, chỉ một số bộ, ngành ban hành tiêu chuẩn
như Bộ Giao thông Vận tải ban hành tiêu chuẩn của Giám đốc Sở Giao thông Vận tải
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hay Bộ Nội vụ ban hành tiêu chuẩn công chức
ngạch hành chính.. .vẫn còn nhiều chức vụ hay công chức khác chưa có tiêu chuẩn cụ
thể.
1.2. Bồi dưỡng công chức
1.2.1. Khái niệm bồi dưỡng công chức
Có nhiều khái niệm khác nhau như:
Theo quy định của Chính phủ thì bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng
cao kiến thức, kỹ năng làm việc [13].
Theo Trần Anh Tuấn và Nguyễn Hữu Hải thì bồi dưỡng là quá trình cập nhật
kiến thức và trang bị các kỹ năng cần thiết cho người lao động trong quá trình thực thi
công vụ [37, tr.188].
Theo Hoàng Mạnh Đoàn thì bồi dưỡng là cập nhật, bổ túc thêm một số kiến
thức, kỹ năng cần thiết, nâng cao hiểu biết sau khi đã được đào tạo cơ bản, cung cấp
thêm những kiến thức chuyên ngành, mang tính ứng dụng...[22];


Từ những khái niệm trên cho ta thấy các tác giả tiếp cận theo cách khác nhau
nên có các khái niệm khác nhau về bồi dưỡng nhưng đều có nhận định chung là bồi
dưỡng nhằm để bổ sung kiến thức, trang bị kỹ năng làm việc. Do đó, trong luận văn này
tác giả thống nhất đưa ra khái niệm bồi dưỡng như sau:
Bồi dưỡng công chức là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ
năng làm việc cho công chức.
Bồi dưỡng bao gồm: bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức; Bồi dưỡng
theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý và Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên
ngành.
Nội dung bồi dưỡng gồm có Lý luận chính trị; Chuyên môn, nghiệp vụ; Kiến
thức pháp luật; kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành; Tin học,
ngoại ngữ, tiếng dân tộc (bồi dưỡng ở trong nước) và Kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng

quản lý hành chính nhà nước và quản lý chuyên ngành; Kiến thức, kinh nghiệm hội
nhập quốc tế (bồi dưỡng ở ngoài nước)
1.2.2. Vai trò của bồi dưỡng công chức
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ1 là một khâu của công tác cán bộ. Đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ nói chung và bồi dưỡng công chức nói riêng có vị trí, vai trò rất quan trọng, giúp
xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
1.2.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ
Công tác cán bộ bao giờ cũng gắn liền với vị trí của đội ngũ cán bộ. Cán bộ là
một trong những nhân tố quan trọng, quyết định sự thành công hay thất bại của cách
mạng. Lênin đã chỉ rõ “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền
thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính
trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [29,
tr.473]. Theo Lênin, muốn lật đổ chế độ Nga hoàng và giành chính quyền phải có đội
ngũ “cán bộ chuyên nghiệp”.
1 Cán bộ ở đây được hiểu một cách chung bao gồm cán bộ, công chức, viên chức; không phân biệt cán bộ và công chức
theo luật cán bộ, công chức


Lênin cho rằng, một trong ba kẻ thù chính đang đối diện với mỗi người, bất kể
người đó làm việc gì, ở cương vị nào đó là nạn mù chữ mà suy rộng ra đó là sự tụt hậu
về trí tuệ “Một người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị” [28, tr.218]. Vì thế
ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng, Lênin đã rất coi trọng công tác cán bộ. Người
cho mở các trường, lớp đào tạo cán bộ và chính Người giảng bài ở các trường, lớp đó.
Cách mạng Tháng mười Nga không thể thành công nếu không có đội ngũ cán bộ được
huấn luyện và đào tạo như thế. Khi có chính quyền lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Lênin yêu cầu bộ máy của Đảng và Nhà nước phải thông thạo công việc
và có uy tín chuyên môn. Người đã chỉ ra rằng “Muốn quản lý được thì cần phải am
hiểu công việc” [28, tr.257], không thể quản lý được “Nếu không có được uy tín chuyên

môn, không có kiến thức đầy đủ, không tinh thông khoa học quản lý” [28, tr.257]. Phân
tích tình hình nước Nga năm 1922 - 1923, Lênin nói:
Sức mạnh của chúng ta ở đâu và chúng ta thiếu cái gì? Chính quyền chúng ta có
đầy đủ, lực lượng kinh tế cơ bản chúng ta nắm trong tay. Tất cả những xí nghiệp lớn có
tính chất quyết định, những đường sắt... đều nằm trong tay chúng ta. Như vậy thì thiếu
cái gì? Rõ ràng cái còn thiếu chính là trình độ văn hóa của những người cộng sản. Do
đó, việc xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở một
nền học vấn hiện đại, nếu không có nền học vấn đó thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là
một nguyện vọng mà thôi [30, tr.365].
Từ sự phân tích trên, Lênin tiến hành đánh giá, sắp xếp lại cán bộ; đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ theo yêu cầu và đòi hỏi của nhiệm vụ mới. Người đặt ra nhiệm vụ cho
cho những người cộng sản là phải làm phong phú đầu óc của mình bằng tất cả kiến thức
của nhân loại. Người kêu gọi: “Học, học nữa và học mãi”. Qua thực tiễn, Người khẳng
định: “Nghiên cứu con người, tìm ra cán bộ có bản lĩnh, hiện nay đó là then chốt; nếu
không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn” [29, tr.449].
Quan điểm của Chủ nghĩa Mac-Lênin rất coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ vì nó góp phần tạo ra đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, có bản lĩnh để xây dựng
được xã hội cộng sản chủ nghĩa.
I.2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức


Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin
và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Trên
thực tế, từ lâu Đảng ta đã coi Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng và toàn xã hội. Song phải từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII của Đảng, vị trí của Tư tưởng Hồ Chí Minh mới được khẳng định chính thức trong
văn kiện của Đảng. Công tác cán bộ và cán bộ là một trong những nội dung quan trọng
trong Tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề này được đề cập trong rất nhiều tác phẩm, bài nói,
bài viết của Người. Đó là một chỉnh thể thống nhất gồm ba nội dung lớn, gắn bó chặt
chẽ với nhau:

+ Tư tưởng về đào tạo, bồi dưỡng các thế hệ cán bộ cho cách mạng
+ Về nội dung, yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cách mạng
+ Về vấn đề sử dụng đội ngũ cán bộ
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì cách mạng không phải là sự nghiệp của
một người hay một nhóm người mà là sự nghiệp của quần chúng. Quần chúng nhân dân
nếu được giác ngộ cách mạng thì sẽ làm nên sự nghiệp vĩ đại. Để giác ngộ quần chúng
cần phải có một đội ngũ cán bộ cách mạng được đào tạo, được rèn luyện. Người khẳng
định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém” [25, tr.40]. Trong ngôn ngữ Hồ Chí Minh, khi đề cập đến nội dung
đào tạo cán bộ, chúng ta thường gặp các thuật ngữ “tài, đức; hồng, chuyên; có tài, có
đức”; đó chính là sự thống nhất giữa đạo đức và năng lực của người cán bộ mà biểu
hiện của nó là động cơ và hiệu quả. Tài năng của người cán bộ phải được thể hiện trong
hoạt động giúp ích cho xã hội, không có tài năng thì mọi nguyện vọng tốt đẹp sẽ không
bao giờ trở thành hiện thực. Muốn có tài, có đức theo Hồ Chí Minh thì phải học tập và
tu dưỡng. Người cho rằng nội dung chủ yếu trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ bao gồm:
Huấn luyện nghề nghiệp: ... làm việc gì học việc ấy
Huấn luyện chính trị: ... thời sự và chính sách Huấn
luyện văn hóa Huấn luyện lý luận


Trong nội dung đào tạo, Hồ Chí Minh đặt rất cao vị trí của việc học tập Chủ
nghĩa Mác - Lênin; theo Người, cái cốt lõi nhất trong nội dung đào tạo cán bộ là: “Học
để củng cố đạo đức cách mạng, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị mới làm tốt
được công tác Đảng giao phó cho mình”; nói chuyện tại Trường Nguyễn Ái Quốc tháng
9/1949, Người nói: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ”. Đề cập đến vấn đề sử
dụng cán bộ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh dùng cán bộ phải xuất phát từ lợi ích của cách
mạng, lợi ích của Đảng, của Nhà nước; Người căn dặn chúng ta khi sử dụng cán bộ
phải: “ Hiểu cán bộ. Khéo dùng cán bộ. Cất nhắc cán bộ. Thương yêu cán bộ. Phê bình
cán bộ” [26, tr.277]. Người nhấn mạnh một chính sách tốt đẹp nhưng nếu nó không

được thực hiện nghiêm túc thì cũng chẳng có ý nghĩa gì; Người đòi hỏi những người
làm công tác cán bộ phải thật khách quan, công minh, không thiên vị, Người chỉ rõ:
Bất kỳ ai có khả năng, đủ tiêu chuẩn, cần cho nhu cầu của cách mạng là phải
dùng. Những cán bộ được lựa chọn để sử dụng phải đạt những tiêu chuẩn sau đây:
Trung thành và hăng hái trong công việc; liên hệ mật thiết với quần chúng, vì lợi ích
của dân chúng; có thể phụ trách giải quyết công việc trong những hoàn cảnh gặp khó
khăn; luôn giữ đúng kỷ luật. Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời là của cả dân tộc,
không thiên tư, thiên vị. Đảng không lo riêng cho một đồng chí nào hết. Đảng lo việc cả
nước. Đó là chính sách cán bộ [27, tr.466-467].
Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ quan điểm: Sự tồn tại của các thế hệ đều có giới hạn
nhất định nhưng sự nghiệp của các thế hệ trước sẽ được sống mãi bằng sự kế tục và
phát triển của thế hệ sau. Người nhắc nhở chúng ta “Vì lợi ích trăm năm phải trồng
người”; trong Di chúc của mình, Người căn dặn “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Tu tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và
công tác cán bộ đến hôm nay vẫn vẹn nguyên giá trị, vẫn mang hơi thở của cuộc sống
và là điều buộc mỗi cán bộ, đảng viên phải suy ngẫm nghiêm túc để tự soi rọi lại bản
thân khi thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm guơng đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh cũng nhu trong công tác, sinh hoạt thuờng ngày.


Tư tưởng Hồ Chí Minh rất đề cao công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Người
cho rằng đó là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết để tạo ra được đội ngũ cán
bộ có khả năng giác ngộ quần chúng.
I.2.2.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng, mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng cần có
một đội ngũ cán bộ thích ứng, có phẩm chất, năng lực, đáp ứng đuợc sự đòi hỏi của
nhiệm vụ trong từng giai đoạn, từng thời kỳ. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng, đại hội đầu tiên sau ngày thống nhất đất nuớc đã chỉ rõ: “Xây dựng và chỉ đạo
thực hiện tốt quy hoạch cán bộ là một biện pháp đặc biệt trọng yếu có tính quyết định

để tăng cuờng công tác cán bộ về mọi mặt” [15, tr.169] và “Chất luợng nguời cán bộ là
sự thống nhất giữa phẩm chất chính trị và năng lực công tác, thể hiện ở kết quả hoàn
thành nhiệm vụ. Không thể tách rời và đối lập yêu cầu về phẩm chất chính trị với yêu
cầu về năng lực công tác, vì thiếu một mặt nào cũng là không đủ tiêu chuẩn nguời cán
bộ của Đảng và Nhà nuớc” [15, tr.196]. Trên cơ sở tu tuởng chỉ đạo này, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Muốn có đủ cán bộ có chất luợng
để chủ động đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thì vấn đề cơ bản là phải có quy hoạch cán bộ,
trên cơ sở đó có kế hoạch đào tạo, bồi duỡng cán bộ theo yêu cầu truớc mắt và lâu dài.
Coi đây là khâu trung tâm của toàn bộ công tác cán bộ” [16, tr.114]. Từ Đại hội đại biểu
lần thứ VI, Đảng đã đề ra chủ truơng đổi mới tu duy, đổi mới cán bộ, đổi mới phong
cách công tác. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, Ban chấp hành Trung uơng khóa VII chỉ
rõ, trong công cuộc đổi mới đất nuớc cán bộ có vai trò cực kỳ quan trọng, hoặc thúc đẩy
hoặc kìm hãm quá trình đổi mới. Trong xây dựng Đảng, cán bộ và công tác cán bộ là
khâu then chốt, là việc cấp bách cần phải làm ngay. Hội nghị lần thứ 3, Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII khẳng định: “Phải lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm
thước đo phẩm chất và năng lực, lấy nhu cầu nhiệm vụ làm căn cứ để bố trí cán bộ” [18,
tr.77]
Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ rõ độ chính xác của đường lối, chính sách đều tùy
thuộc cuối cùng ở chất lượng cán bộ. Chính vì thế, Đảng ta luôn chú trọng đến công tác


cán bộ, xem đây là khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động của Đảng, là nguyên nhân
của những nguyên nhân. Khi khởi xướng và lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới,
Đảng ta đồng thời đặt ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp mới cho công tác xây dựng Đảng
nói chung và công tác cán bộ nói riêng. Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng nhấn
mạnh: Tình hình và nhiệm vụ mới đòi hỏi toàn Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ
cán bộ, chú trọng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ kế cận;
sớm xây dựng cho được một chiến lược cán bộ của thời kỳ mới. Tổng kết một số vấn đề
lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006) Đảng đề ra nhiệm vụ “Chấn chỉnh
tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, làm cho Đảng có đủ bản lĩnh chính trị, có kiến thức,

năng lực và sức chiến đấu cao trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội
nhập, môi trường quốc tế rất phức tạp, có nhiều nguy cơ và thách thức mới” [2, tr.167].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định:
Mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức
chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hoá; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức, kỷ luật cao và phong cách làm
việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có tính kế thừa và phát triển, có số lượng và
cơ cấu hợp lý [19, tr.292-293].
Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng một lần nữa xác định phải đổi mới mạnh
mẽ công tác cán bộ, cụ thể là:
Tiếp tục thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về: quan hệ giữa đường lối chính
trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong
công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức và tài; giữa kế thừa và
phát triển; giữa sự quản lý thống nhất của Đảng với phát huy đầy đủ trách nhiệm của
các cơ quan trong hệ thống chính trị; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể;


×