Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

BÌNH LUẬN các QUY ĐỊNH về bồi THƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.95 KB, 11 trang )

BÌNH LUẬN CÁC QUY ĐỊNH VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
Luật Đất đai là công cụ pháp lý quan trọng để Nhà nước quản lý, điều tiết các mối quan
hệ về đất đai. Qua gần 10 năm thi hành, Luật Đất đai năm 2003 đã phát huy khá tốt vai
trò ổn định các mối quan hệ về đất đai. Tuy nhiên, nó cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất
định, dẫn đến việc thực thi pháp luật về đất đai còn nhiều bất cập, ảnh hưởng không tốt
đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Do vậy, cần thiết phải ban hành
Luật Đất đai mới thay thế Luật Đất đai năm 2003.
Ngày 29/11/2013, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai năm 2013, Luật này có hiệu lực kể
từ 01/7/2014. So với Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 có 14 chương với
212 điều, tăng 7 chương và 66 điều, đã khắc phục, giải quyết được những tồn tại, hạn chế
phát sinh trong quá trình thi hành Luật đất đai năm 2003. Đây là đạo luật quan trọng, có
tác động sâu rộng đến chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, thu hút được sự quan tâm
rộng rãi của nhân dân.
Luật Đất đai năm 2013 vừa tiếp tục kế thừa, luật hóa những quy định còn phù hợp đã và
đang đi vào cuộc sống của Luật Đất đai năm 2003, nhưng đồng thời đã sửa đổi, bổ sung
một số quy định định mới nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập của Luật Đất đai năm
2003. Theo đó, Luật Đất đai năm 2013 có nhiều đổi mới cơ bản, ảnh hưởng sâu rộng,
trong đó có điểm đổi mới quan trọng về quy chế bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất
Tại chương IV Luật Đất đai 2013 đã quy định cụ thể và đầy đủ từ việc thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ tái định cư đảm bảo một cách công khai, minh bạch và quyền lợi của
người có đất thu hồi nhằm khắc phục, loại bỏ những trường hợp thu hồi đất làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của người sử dụng đất đồng thời khắc phục một cách có hiệu
quả những trường hợp thu hồi đất mà không đưa vào sử dụng, gây lãng phí, tạo nên các
dư luận xấu trong xã hội.


Về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, luật quy định: "Nhà nước chỉ thu hồi đất
với các dự án đã được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư; dự án được Thủ tướng
Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư và một số trường hợp được Hội đồng nhân dân


cấp tỉnh xem xét qua chủ trương thu hồi đất".
Đặc biệt, Luật Đất đai năm 2013 cũng quy định chế tài mạnh để xử lý đối với trường hợp
không đưa đất đã được giao, cho thuê vào sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử dụng; quy
định đầy đủ, rõ ràng về những trường hợp thật cần thiết mà Nhà nước phải thu hồi; quy
định giá đất bồi thường không áp dụng theo bảng giá đất mà áp dụng giá đất cụ thể do Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
Những điểm mới:
Nhằm bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị thu hồi đất, khắc phục bất
cập và điều tiết một cách hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư,
đồng thời nhằm giảm thiểu khiếu kiện trong bồi thường, giải phóng mặt bằng, Luật Đất
đai 2013 vừa tiếp tục kế thừa, luật hóa những quy định còn phù hợp đã và đang đi vào
cuộc sống của pháp luật đất đai năm 2003, nhưng đồng thời đã sửa đổi, bổ sung một số
quy định mới nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập của pháp luật Đất đai năm 2003, đưa
chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong Nghị quyết 19/NQ-TW đi vào cuộc
sống
Có thể khái quát một số nội dung chủ yếu mang tính đổi mới về lĩnh vực bồi thường, giải
phóng mặt bằng quy định trong Luật Đất đai năm 2013 so với Luật Đất đai năm 2003. Cụ
thể như sau:
1. Quy định nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất
Các chế định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật
Đất đai năm 2003 trên thực tế đã không thể chế, truyền tải hết các quy định mang tính
nguyên tắc để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát sinh trong thực
tiễn thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại các địa phương, các bộ, ngành. Khắc
phục hạn chế này, Luật Đất đai năm 2013 đã tách nguyên tắc bồi thường về đất và


nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu
hồi đất thành 02 điều riêng biệt (Điều 74 và Điều 88). Trong đó, quy định cụ thể các
nguyên tắc bồi thường về đất và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền
với đất khi Nhà nước thu hồi đất để các bộ, ngành, địa phương và người thu hồi đất căn

cứ vào đó thống nhất thực hiện cụ thể:
“ Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất (Điều 74 Luật Đất đai)
1. Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy
định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.
2. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại
đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ
thể của loại đất thu hồi do ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định
thu hồi đất.
3. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công
bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.”
“Nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu
hồi đất (Điều 88 Luật Đất đai)
1. Khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt
hại về tài sản thì được bồi thường.
2. Khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải ngừng sản xuất, kinh
doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt hại.”
3. Quy định cụ thể và làm rõ các điều kiện để được bồi thường về đất khi Nhà nước
thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc
gia, công cộng đối với từng loại đối tượng mà Nhà nước thu hồi đất.
Trong đó, Luật bổ sung thêm 02 trường hợp được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi
đất quy định tại Điều 75, cụ thể:
- Bổ sung bồi thường đối với các trường hợp sử dụng đất thuê trả tiền thuê đất một lần
cho cả thời gian thuê nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa người sử dụng đất theo hình thức


thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê với người được giao đất có thu tiền sử dụng
đất (có cùng nghĩa vụ tài chính như nhau).
- Bổ sung bồi thường đối với trường hợp cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư đang sử dụng
đất mà không phải là đất do Nhà nước giao, cho thuê và có Giấy chứng nhận hoặc có đủ

điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.
Đây là một trong những điểm mới của Luật Đất đai năm 2013 mà Luật Đất đai 2003 chưa
quy định rõ, những quy định này sẽ giải quyết được những vướng mắc trong việc việc bồi
thường, hỗ trợ đất đối với đất do cơ sở tôn giáo đang sử dụng vào mục đích sản xuất nông
nghiệp, sản xuất lâm nghiệp, sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, làm cơ sở hoạt động
từ thiện, không phải là đất do được Nhà nước giao mà có nguồn gốc do nhận chuyển
nhượng, nhận tặng cho hợp pháp hoặc khai hoang trước ngày 01 tháng 7 năm 2004.
Ý nghĩa của những điểm mới tại chương IV Luật Đất đai 2013:
Thứ nhất: Bổ sung trường hợp thu hồi đất do có nguy cơ đe dọa tính mạng con người để
chia thành 4 nhóm để có quy định riêng về cơ chế xử lý đất thu hồi, tài sản trên đất thu
hồi phù hợp với tính chất của từng nhóm, gồm:
+ Nhóm 1: Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh (Điều 61);
+ Nhóm 2: Thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (Điều
62);
+ Nhóm 3: Thu hồi đất do vi phạm pháp luật (Điều 64); đặc biệt đối với trường hợp
không đưa đất đã được giao, cho thuê vào sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử dụng, Luật
Đất đai năm 2013 quy định chế tài mạnh để xử lý đối với các trường hợp này; cụ thể là:
”Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng
trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với tiến độ ghi
trong dự án đầu tư kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa phải đưa đất vào sử dụng;
trường hợp không đưa đất vào sử dụng thì chủ đầu tư được gia hạn sử dụng 24 tháng và
phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối
với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này; hết thời hạn được gia hạn


mà chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất mà không bồi
thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp do bất khả kháng” (Điểm i
Khoản 1 Điều 64).
+ Nhóm 4: Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất,

có nguy cơ đe dọa tính mạng con người (Điều 65).
=> Nhằm đảm bảo lợi ích tổng thể của nhân dân và đất nước
Thứ hai, Luật Đất đai năm 2013 quy định cụ thể việc sử dụng đất để sản xuất, kinh
doanh theo 2 cơ chế sau:
+ Cơ chế Nhà nước thu hồi đất đối với các dự án sử dụng đất để phát triển kinh tế - xã hội
vì lợi ích quốc gia, công cộng. Nhằm cụ thể quy định tại Điều 54 của Hiến pháp năm
2013, các dự án này được quy định chi tiết theo hướng kiểm soát chặt chẽ hơn và thu hẹp
hơn các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng. Cụ thể là: Nhà nước chỉ thu hồi đất đối với các dự án đã được Quốc hội quyết
định chủ trương đầu tư; dự án được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư
và một số trường hợp được Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh xem xét thông qua chủ trương
thu hồi đất (Điều 62);
+ Cơ chế Nhà nước không thu hồi đất mà chủ đầu tư và người sử dụng đất tự thỏa thuận
việc sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh thông qua hình thức nhận chuyển nhượng, thuê,
nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất (Điều 73).
=> Quy định này sẽ góp phần đảm bảo công khai, minh bạch và dân chủ, giảm khiếu kiện
phát sinh từ cơ chế sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh; đặc biệt là từ quy định này, Luật
Đất đai năm 2013 làm rõ những trường hợp Nhà nước thu hồi đất thì người sử dụng đất
được bồi thường theo giá đất do Nhà nước xác định, còn những trường hợp còn lại (Nhà
nước không thu hồi đất) thì người sử dụng đất được chủ đầu tư trả tiền theo giá đất do các
bên thỏa thuận.


Thứ ba, Điều 66 của Luật Đất đai năm 2013 sửa đổi thẩm quyền thu hồi đất, trong đó
quy định Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất đối với trường hợp khu đất thu
hồi có cả tổ chức và hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất.
=>Để cải cách hành chính khi thực hiện các dự án
Thứ tư, Luật Đất đai năm 2013 quy định bổ sung trình tự, thủ tục thu hồi đất tại Điều 69,
70 và 71, đặc biệt là trình tự cưỡng chế kiểm đếm để lập phương án bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư, trình tự cưỡng chế thu hồi đất.

=>Nhằm đảm bảo công khai, minh bạch và dân chủ; đảm bảo quyền lợi của người có đất
thu hồi; tăng cường hơn sự tham gia trực tiếp của Nhân dân; trách nhiệm đối thoại và giải
trình của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi người dân chưa có ý kiến đồng thuận
trong việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Thứ năm, Luật Đất đai năm 2013 không quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất mà giao
Chính phủ quy định
=>Nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính và điều kiện ứng dụng công nghệ
thông tin trong quá trình thực hiện.
Thứ sáu, Luật Đất đai năm 2013 bổ sung quy định về trưng dụng đất (Điều 72)
=> nhằm thể chế quy định của Hiến pháp năm 2013 theo hướng trưng dụng đất khác với
trưng dụng tài sản, trong đó quy định các trường hợp trưng dụng đất, thời hạn trưng dụng
đất, bồi thường thiệt hại do việc trưng dụng đất gây ra..
Thứ bảy, Luật Đất đai năm 2013 đã tách nguyên tắc bồi thường về đất và nguyên tắc bồi
thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành 02
điều riêng biệt (Điều 74 và Điều 88). Trong đó, quy định cụ thể các nguyên tắc bồi
thường về đất và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất khi Nhà
nước thu hồi đất để các bộ, ngành, địa phương và người thu hồi đất căn cứ vào đó thống
nhất thực hiện.


=> Nhằm khắc phục thực tế không thể thể chế, truyền tải đầy đủ các quy định mang tính
nguyên tắc để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát sinh trong thực
tiễn thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại các địa phương, các bộ, ngành.
Thứ tám, Bổ sung bồi thường đối với các trường hợp sử dụng đất thuê trả tiền thuê đất
một lần cho cả thời gian thuê.
=> Nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa người sử dụng đất theo hình thức thuê đất trả tiền
một lần cho cả thời gian thuê với người được giao đất có thu tiền sử dụng đất (có cùng
nghĩa vụ tài chính như nhau).
Thứ chín, Bổ sung bồi thường đối với trường hợp cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư đang
sử dụng đất mà không phải là đất do Nhà nước giao, cho thuê và có Giấy chứng nhận

hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.
=> Nhằm khắc phục những vướng mắc trong thực tế (Luật đất đai 2003 không có quy
định này).
Thứ mười, Bổ sung trường hợp thu hồi đất ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường có
nguy cơ đe dọa tính mạng con người, đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi
hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người thì người có đất thu hồi được bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư để ổn định đời sống, sản xuất theo quy định của Chính phủ.
- Đối với dự án đầu tư do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, Thủ tướng Chính phủ
chấp thuận chủ trương đầu tư mà phải di chuyển cả cộng đồng dân cư, làm ảnh hưởng
đến toàn bộ đời sống, kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa của cộng đồng, các dự án thu
hồi đất liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì Thủ tướng Chính
phủ quyết định khung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
- Đối với dự án sử dụng vốn vay của các tổ chức quốc tế, nước ngoài mà Nhà nước Việt
Nam có cam kết về khung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì thực hiện theo
khung chính sách đó.
=> nhằm đảm bảo quyền lợi tối đa cho Nhân dân.


Thứ mười một, Về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, Luật Đất đai năm 2013 có một số
quy định mới sau:
- Quy định về nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (Khoản 1 Điều 83):
- Quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá
nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không có
đất nông nghiệp để bồi thường (Khoản 1 Điều 84).
- Quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá
nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ mà nguồn thu nhập chính từ hoạt động
kinh doanh, dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở (Khoản 2 Điều
84).
=> Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được học nghề, tiếp cận vốn... để phát triển

cuộc sống khi bị thu hồi đất.
Cuối cùng, Luật Đất đai năm 2013 đã có những quy định mới như sau:
+ Bổ sung quy định cụ thể về lập và thực hiện dự án tái định cư (Điều 85) theo hướng Ủy
ban Nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban Nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và thực
hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất. Quy định khu tái định cư tập trung phải xây
dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng, phù hợp với điều
kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền. Quy định việc thu hồi đất ở chỉ được thực
hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư
+ Sửa đổi và bổ sung quy định về bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất ở mà phải di
chuyển chỗ ở (Điều 86):
Người có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ nếu tại khu vực thu hồi đất có dự án
tái định cư hoặc có điều kiện bố trí tái định cư. Ưu tiên vị trí thuận lợi cho người có đất
thu hồi sớm bàn giao mặt bằng, người có đất thu hồi là người có công với cách mạng.
Giá đất cụ thể tính thu tiền sử dụng đất tại nơi tái định cư, giá bán nhà ở tái định cư do
Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Quy định trường hợp người có đất thu hồi được bố trí tái định cư mà tiền bồi thường, hỗ
trợ không đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ tiền đủ để


mua một suất tái định cư tối thiểu. Chính phủ quy định cụ thể suất tái định cư tối thiểu
phù hợp với điều kiện từng vùng, miền và địa phương.
=>Nhằm khắc phục tình trạng một số khu tái định cư chất lượng còn thấp, không đồng bộ
về hạ tầng, chưa đảm bảo có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Nhiều địa
phương chưa lập khu tái định cư chung cho các dự án tại địa bàn nên nhiều dự án chưa có
khu tái định cư đã thực hiện thu hồi đất ở, thậm chí có những dự án mà người có đất bị
thu hồi phải đi thuê nhà ở nhiều năm mà vẫn chưa được bố trí vào khu tái định cư.
Những tồn tại và giải pháp hoàn thiện:
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tiến bộ đó chúng ta cũng còn những tồn tại, vướng mắc
khi tiến hành bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, trong đó đặc biệt là vấn đề giá đền bù, gây
những tác động tiêu cực đối với thị trường bất động sản. Để góp phần vào việc thực hiện

tốt vấn đề bồi thường, hỗ trợ tái định cư thì chúng ta cần làm tốt những vấn đề sau:
Một là, đảm bảo tính thống nhất, nhất quán trong chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định
cư, tránh tình trạng mỗi địa phương, mỗi dự án, mỗi công trình có mức bồi thường và hỗ
trợ khác nhau, từ đó làm nảy sinh ý tưởng so sánh quyền lợi từ phía người dân. Khẩn
trương hoàn thiện các quy định của pháp luật, theo hướng dựa trên cơ sở thị trường để
giải quyết vấn đề bồi thường cho người bị thu hồi đất.
Hai là, nâng cao chất lượng công trình quy hoạch tái định cư; chú ý đến yếu tố văn hóa,
tập quán, thói quen của đồng bào các dân tộc khi xây các khu tái định cư.
Ba là, nâng cao năng lực thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các ban, ngành ở
địa phương và các đơn vị tư vấn, cũng như tinh thần trách nhiệm, sự tuân thủ trình tự thủ
tục theo quy định của pháp luật, của cán bộ thực thi việc kiểm kê, kiểm đếm, lập phương
án đền bù
Bốn là, có một kế hoạch dài hạn với nguồn tài chính đảm bảo trong nhiều năm để thực
hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Khống chế một cách nghiêm chỉnh về quy mô thu hồi
đất; xác định tiêu chuẩn bồi thường một cách hợp lý và hoàn thiện hơn nữa quy trình thu
hồi đất.


Năm là, khắc phục những khó khăn trong việc xác định nguồn gốc đất dẫn đến sự khó
khăn trong việc xác định điều kiện để được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân.
Sáu là, xác định đúng và hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa nhà nước, người sử dụng đất và
người hưởng lợi từ việc thu hồi đất trong việc bồi thường tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất
Thứ bảy, là lập quy hoạch tổng thể và thực hiện xây dựng các khu tái định cư tập trung
đồng bộ, về hạ tầng trước khi quyết định thu hồi đất nhằm đảm bảo ổn định nơi ở và đời
sống của người dân bị thu hồi đất
Thứ tám, xác lập giá bồi thường và hỗ trợ tái định cư theo đúng cơ chết thị trường.
Thứ chín, xác lập cơ chế xử lý người vi phạm thỏa thuận trước khi nhà nước thu hồi đất
và bồi thường tái định cư.
Thứ mười, xác định và giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa nhà nước, người sử

dụng đất và người hưởng lợi từ việc thu hồi đất trong việc bồi thường và tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất. hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai nói chung và pháp luật bồi
thường giải phóng mặt bằng nói riêng phải đảm bảo tính thống nhất đồng bộ về nội dung
các quy định, cụ thể:
- Sửa đổi bổ sung quy định giá đất bồi thường được xác định tại thời điểm cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ra quyết đinh thu hồi đất; việc xác định thời điểm bồi thường là thời
điểm có quyết định thu hồi là chưa hợp lý vì: trong việc bồi thường giải tỏa đa số các
khiếu kiện đều liên quan đến giá đất. theo quy định hiện hành thì người dân dược bồi
thường theo phương án do cơ quan nhà nước phê duyệt khi có quyết định thu hồi đất mà
khi làm xong các thủ tục để người dân nhận được tiền bồi thường có khi là 3 hoặc 5 năm.
Khi đó giá đất tại thời điểm bồi thường khác xa giá tại thời điểm thu hồi. vì vậy người bị
thu hồi luôn bị chịu thiệt thòi
- Bên cạnh các quy định về giải quyết công ăn việc làm đảm bảo đời sống của người
nông dân bị mất đất sản xuất; nhà nước nên xây dựng bổ sung quy định về việc thành lập
quỹ trợ cấp thất nghiệp, quỹ giải quyết việc làm cho người nông dân bị mất đất nông


nghiệp. một phần kinh phí này có thể là do các doanh nghiệp được hưởng lợi từ việc thu
hồi đất. - Bổ sung các quy định điều tiết một phần địa tô chênh lệch được tạo ra từ việc
chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang mục đích khác cho người bị thu hồi đất
được hưởng.
Mười một, tiếp tục sửa đổi bổ sung các quy định về khung giá đất cho phù hợp với thực
tế, theo đúng cơ chế thị trường
Mười hai, xác lập cơ chế pháp lý cho doanh nghiệp dịch vụ bồi thường giải phóng mặt
bằng hoạt động.
Tóm lại, những vấn đề nảy sinh trong thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là không
thể tránh khỏi đối với bất cứ quốc gia nào, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Khắc
phục những tồn tại đó sẽ đảm bảo sự ổn định, nâng cao điều kiện sống cho người dân ở
những khu vực có đất bị thu hồi, góp phần vào sự ổn định về đời sống của người dân và
qua đó cũng góp phần vào sự phát triển của đất nước./.




×