Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Chính sách phát triển cán bộ đoàn từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.1 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐÌNH BÌNH

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ ĐOÀN
TỪ THỰC TIỂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐÌNH BÌNH

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ ĐOÀN
TỪ THỰC TIỂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ THUÝ HẰNG


HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Đề tài nghiên cứu “Chính sách phát triển cán bộ đoàn từ thực tiễn thành phố
Đà Nẵng” của luận văn này là kết quả của sự nỗ lực cố gắng, tìm tòi và sáng tạo
của bản thân tôi cùng với sự hướng dẫn tận tình của người hướng dẫn khoa học
TS. Lê Thúy Hằng. Tôi xin cam đoan, kết quả nghiên cứu của công trình hoàn toàn
là kết quả của cuộc điều tra xã hội học mà tôi đã tiến hành nghiên cứu tại các cơ
quan của Thành đoàn Đà Nẵng công trình nghiên cứu này không hề có bất kỳ sự sao
chép nào mà không có trích dẫn nguồn, tác giả.
Tôi xin cam đoan những lời trên đây là hoàn toàn đúng sự thật và tôi xin chịu
toàn bộ trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

Hà Nội, tháng 3 năm 2018
Học viên

Nguyễn Đình Bình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN
BỘ ĐOÀN ..................................................................................................................8
1.1. Cán bộ Đoàn và tầm quan trọng của việc phát triển cán bộ Đoàn .......................8
1.2. Chính sách công và chính sách phát triển cán bộ Đoàn .....................................15
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ
ĐOÀN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...........................................34
2.1. Đặc điểm tình hình thanh niên và đội ngũ cán bộ Đoàn tại thành phố Đà
Nẵng. .........................................................................................................................34

2.2. Thực trạng chính sách phát triển cán bộ Đoàn tại thành phố Đà Nẵng .............42
2.3. Thành tựu và hạn chế trong chính sách phát triển cán bộ Đoàn tại thành phố
Đà Nẵng.....................................................................................................................48
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
CÁN BỘ ĐOÀN TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .................................................57
3.1. Mục tiêu, phương hướng công tác phát triển cán bộ Đoàn ................................57
3.2. Giải pháp thực hiện tốt công tác phát triển cán bộ Đoàn ...................................64
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TNCS

Thanh niên cộng sản

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa

UBND

Ủy ban nhân dân

BTV

Ban thường vụ

BCH


Ban chấp hành

ĐVTN

Đoàn viên thanh niên


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Phân tích chủ thể chính sách phát triển cán bộ đoàn ................................29
Bảng 2.1: Thống kê tình hình tổ chức bộ máy và biên chế các ban và văn phòng
Thành Đoàn Đà Nẵng................................................................................................36
Bảng 2.2: Thống kê tình hình biên chế cơ quan Đoàn các quận, huyện ...................37
Bảng 2.3: Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ đoàn ..............................45


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là một tổ chức chính trị - xã hội của
thanh niên Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì
mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong quá trình lãnh đạo
đất nước, Đảng ta luôn đề cao vai trò, vị trí của Đoàn thanh niên, xác định thanh
niên là lực lượng xung kích cách mạng, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là
đội dự bị tin cậy của Đảng; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc.
Chính sách phát triển cán bộ nói chung là hệ thống các quan điểm, chủ trương
của Đảng và Nhà nước ta đối với đội ngũ cán bộ; là công cụ và các giải pháp nhằm
xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ
cách mạng. Công tác cán bộ bao gồm nhiều khâu, từ tuyển chọn, nhận xét, đánh giá

cán bộ đến quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm,
miễn nhiệm và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ.
Cán bộ đoàn thuộc nhóm cán bộ lãnh đạo đoàn thể chính trị -xã hội, trực tiếp
làm công tác thanh, thiếu nhi. Đặc trưng của nhóm cán bộ này là có độ tuổi sát với
độ tuổi thanh niên; thời gian giữ chức vụ ngắn; có sự thay đổi nhanh nhằm đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ. Cán bộ đoàn là đội ngũ kế cận của Đảng, xây dựng đoàn thực
chất là góp phần xây dựng Đảng trước một bước, cán bộ đoàn là nguồn cung cấp
cán bộ cho cả hệ thống chính trị. Do đó xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ đoàn
chuyên trách vững mạnh trên tất cả các mặt công tác là điều có ý nghĩa to lớn.
Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ nói chung và đội
ngũ cán bộ đoàn nói riêng, trong những năm qua, nhất là từ khi thực hiện đường lối
đổi mới đến nay, công tác phát triển cán bộ đoàn luôn được coi trọng. Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã có nhiều Nghị quyết, Chỉ
thị, Quy định, Quyết định, Kết luận về công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ.
Nghị quyết Trung ương 3, khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
1


nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” ngày 18/6/2017; Bộ Chính trị khóa IX ra Nghị
quyết số 11-NQ/TW, ngày 25/01/2002 về “Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp” và Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 30/11/2004 về “Công tác quy hoạch
cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”; Kết luận số 37-KL/TW, ngày 02/02/2009 về “Tiếp tục đẩy mạnh chiến lược
cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Kết luận số 24KL/TW, ngày 05/6/2012 về “Tiếp tục đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; Ban Bí thư Trung
ương Đảng ban hành Quyết định số 289-QĐ/TW ngày 8/2/2010 về Quy chế cán bộ
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã hoạch định, ban
hành nhiều chính sách nhằm phát huy trí tuệ, năng lực trong công tác cán bộ, đặc
biệt là cán bộ đoàn đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi

vậy, công tác phát triển đội ngũ cán bộ đoàn đã từng bước đi vào nề nếp, được nâng
cao cả về số lượng và chất lượng, ngày càng đóng góp thiết thực cho sự phát triển
cán bộ đoàn nói riêng và sự phát triển nguồn cán bộ cho cả hiện tại và tương lai.
Đây là công việc thường xuyên của Đảng, của các tổ chức chính trị, xã hội các cấp
góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, tại một số địa phương,
việc áp dụng và thực hiện chính sách phát triển cán bộ đoàn vẫn còn bộc lộ một số
hạn chế. Cụ thể, việc thực hiện chính sách còn mang tính bị động, lúng túng, chưa
chặt chẽ, thiếu tính khoa học; hay thực hiện mang tính hình thức, chưa vận dụng và
phát huy tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong phát triển cán bộ; trong tiến hành
quy hoạch cán bộ đoàn chỉ chú ý đến quy hoạch “đầu vào” mà chưa quan tâm nhiều
đến quy hoạch “đầu ra” cho đội ngũ cán bộ đoàn; khâu tuyển chọn đầu vào của cán
bộ đoàn tương đối hỗn hợp với nhiều ngành nghề khác nhau nên công tác phát
triển cán bộ đoàn càng khó khăn và phức tạp.
Từ khi Nghị quyết 42 của Bộ chính trị, khóa X về “Công tác quy hoạch cán
bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ra đời,
Đoàn thanh niên thành phố Đà Nẵng đã được Thành uỷ chọn là một trong những
đơn vị làm điểm về công tác quy hoạch cán bộ chuyên trách và từ kết quả quy
2


hoạch trên để triển khai trong toàn hệ thống chính trị. Triển khai thực hiện tinh
thần nghị quyết của Bộ chính trị, công tác quy hoạch cán bộ chuyên trách của
Đoàn thanh niên tại Đà Nẵng đã được tiến hành bài bản, tuân thủ đầy đủ các
bước, các quy trình của công tác quy hoạch cán bộ. Mặc dù vậy vẫn còn một số
vấn đề chưa được làm sáng tỏ và có những điểm bất cập cần tiếp tục nghiên cứu
tháo gỡ để thực hiện tốt quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên trách của Đoàn trong
thời gian tới.
Từ yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với đội ngũ cán bộ đoàn; đồng thời giúp tổ
chức Đoàn các cấp thực hiện tốt công tác phát triển cán bộ đoàn nhằm xây dựng đội
ngũ cán bộ đủ tiêu chuẩn, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ mới.

Học viên mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài “Chính sách phát triển cán bộ đoàn
từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành
chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong công cuộc đổi mới của đất nước và hội nhập quốc tế ngày sâu rộng trên
các lĩnh vực; có thể khẳng định, công tác thực hiện chính sách là một trong những
vấn đề mang tính cấp thiết. Mặt khác, vấn đề chính sách cán bộ nói chung và chính
sách cán bộ đoàn nói riêng đã được Đảng và Nhà nước ban hành nhiều văn bản,
nghị quyết, quyết định, quy chế liên quan đến chính sách phát triển cán bộ đoàn
hiện nay như:
- Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2008 Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
- Quyết định số 2474/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2011 của Thủ tướng
Chính Phủ về phê duyệt chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2011 –
2020.
- Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Quyết định số 289-QĐ/TW ngày
8/2/2010 về Quy chế cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Cùng với việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ đoàn, đã có nhiều bài viết
về công tác cán bộ đoàn và chính sách cán bộ đoàn như:
3


Bài viết: “Công tác cán bộ Đoàn” của tác giả Hoàng Hiệp đăng trên Báo Đà
Nẵng năm 2011. Bài viết nêu lên việc đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ cán
bộ đoàn đủ tâm – đủ tầm, xứng đáng là những thủ lĩnh thanh niên.
Bài viết: “Đào tạo, bồi dưỡng và trẻ hoá đội ngũ cán bộ đoàn trong giai đoạn
hiện nay” của tác giả Dương Văn An đăng trên Tạp chí Tổ chức Nhà nước năm
2010: Bài viết nói về tầm quan trọng của việc Đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên
môn cho cán bộ tham gia làm công tác đoàn và quy định về độ tuổi của cán bộ đoàn

trong giai đoạn hiện nay.
Bài viết: “Giải pháp nhằm thực hiện tốt chính sách cán bộ đối với cán bộ đoàn
cấp xã tại Bắc Cạn” của tác giả Triệu Quang Hùng đăng trên báo thanhnienviet.vn
ngày 15/01/2018. Bài viết nêu lên những thuận lợi, khó khăn của cán bộ Đoàn cấp
xã và đề ra những giải pháp để thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ đoàn cấp xã
tại tỉnh Bắc Cạn.
Bài viết: “Đào tạo bồi dưỡng cán bộ đoàn thể” của tác giả Phạm Thu Huyền
đăng trong Tạp chí xây dựng Đảng năm 2006. Bài viết nêu lên tình hình đào tạo bồi
dưỡng cán bộ các hội đoàn thể từ trung ương đến địa phương. Chỉ ra những mặt làm
được và những hạn chế còn tồn tại trong công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Từ đó
đã rút ra một số bài học kinh nghiệm trong công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
Bài viết: “Công tác cán bộ đoàn: Kết quả và kinh nghiệm” của tác giả Trần
Thu Thủy đăng trong Tạp chí xây dựng Đảng năm 2006. Bài viết phân tích những
kết quả đạt được trong việc quy hoạch, tuyển chọn cán bộ đoàn tại một số tỉnh thành
đoàn trên cả nước, nêu ra một số vấn đề còn yếu và bất cấp trong quá trình tổ chức
thực hiện. Đặc biệt là những kinh nghiệm trong công tác cán bộ đoàn.
Nhìn chung, các văn bản và những bài viết nói trên đã nêu ra nhiều vấn đề rất
cơ bản cả về lý luận và thực tiễn trong công tác phát triển cán bộ đoàn. Tuy nhiên,
có thể nói rằng, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và
có hệ thống về chính sách phát triển cán bộ đoàn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Do vậy, Luận văn này là công trình nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về nội
dung và hình thức phát triển cán bộ đoàn ở thành phố Đà Nẵng hiện nay. Mặc dù

4


vậy, các công trình nghiên cứu trên vẫn là nguồn tài liệu quí giá được tham khảo
trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu chính sách phát triển đội ngũ cán bộ đoàn tại Đà Nẵng nhằm phát
hiện những điểm bất hợp lý trong chính sách đang là rào cản đối với sự phát triển
đội ngũ cán bộ đoàn hiện nay. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đưa ra đề xuất quan điểm
và giải pháp góp phần hoàn thiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ đoàn của
thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là hệ thống hóa cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ cán bộ đoàn.
Hai là rà soát khuôn khổ chính sách phát triển đội ngũ cán bộ đoàn của Việt
Nam nói chung và của thành phố Đà Nẵng nói riêng.
Ba là đánh giá thực trạng phát triển cán bộ đoàn tại thành phố Đà Nẵng và chỉ
ra những rào cản đối với phát triển đội ngũ cán bộ đoàn tại thành phố Đà Nẵng nhìn
từ góc độ nội dung chính sách.
Bốn là đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển đội
ngũ cán bộ đoàn tại thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính sách phát triển cán bộ đoàn tại thành
phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Thành phố Đà Nẵng
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2012 đến năm 2017
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước về đào tạo nghề nói chung và chính sách đào tạo nghề cho Thanh niên nói
5


riêng. Từ những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn, từ đó có một cách nhìn nhận

khách quan để tạo nên chính sách phát triển cán bộ đoàn một cách hiệu quả và thiết
thực nhất trong tình hình hiện nay.
Câu hỏi nghiên cứu
Chính sách phát triển đội ngũ cán bộ đoàn hiện nay là gì? (bao gồm chính sách
trung ương và chính sách của thành phố Đà Nẵng)
Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ đoàn tại thành phố Đà Nẵng hiện nay như
thế nào?
Những nội dung nào trong chính sách phát triển đội ngũ cán bộ đoàn đang cản
trở sự phát triển đội ngũ cán bộ đoàn ở thành phố Đà Nẵng?
Cần có giải pháp chính sách nào để thúc đẩy phát triển đội ngũ cán bộ đoàn tại
thành phố Đà Nẵng?
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng.
- Phương pháp định tính: Phỏng vấn sâu 14 cán bộ đoàn đang công tác tại
thành phố Đà Nẵng gồm có: cán bộ đoàn làm lâu năm; cán bộ đoàn đang công tác
và chuyển công tác khác.
- Phương pháp định lượng: Tham khảo các phiếu khảo sát cán bộ đoàn thành
phố Đà Nẵng gồm cả nam, nữ của thành đoàn Đà Nẵng
- Phương pháp xử lý số liệu:
+ Sử dụng một số phương pháp thống kê đơn giản
+ Sử dụng chương trình SPSS để xử lý bảng hỏi
Ngoài các phương pháp trên luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu
liên ngành, đa ngành với khoa học chính sách công như: quản trị học, kinh tế học,
xã hội học.
- Phương pháp tổng hợp, thu thập số liệu:
+ Số liệu thứ cấp: Bao gồm các văn bản có sẵn liên quan đến chủ trương của
Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển đội ngũ cán bộ đoàn. Các số liệu
thống kế về quá trình phát triển cán bộ đoàn của thành phố Đà Nẵng.
+ Số liệu sơ cấp: Học viên tự thu thập thông tin thông qua tiến hành điều tra
6



thực địa tại thành phố Đà Nẵng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về của
chính sách phát triển đội ngũ cán bộ đoàn. Đồng thời, luận văn cung cấp thêm các
bằng chứng thực tiễn để phát triển lý luận về mô hình phát triển đội ngũ cán bộ
đoàn trong điều kiện của Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn. Một là cung cấp những bằng chứng
tin cậy về mối quan hệ giữa nội dung chính sách và những bất cập trong phát triển
đội ngũ cán bộ đoàn tại thành phố Đà Nẵng làm cơ sở cho những điều chỉnh giải
pháp chính sách phát triển đội ngũ cán bộ đoàn của Việt Nam nói chung và của
thành phố Đà Nẵng nói riêng. Hai là góp phần vào việc thúc đẩy phát triển đội ngũ
cán bộ đoàn tại thành phố Đà Nẵng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục
các hình và bảng, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn được bố cục theo 3 chương
như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận của chính sách phát triển cán bộ đoàn
Chương 2: Thực trạng chính sách phát triển cán bộ đoàn từ thực tiễn thành phố
Đà Nẵng
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển cán bộ đoàn tại thành
phố Đà Nẵng.

7


CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ ĐOÀN
1.1. Cán bộ Đoàn và tầm quan trọng của việc phát triển cán bộ Đoàn
1.1.1. Cán bộ Đoàn
1.1.1.1. Cán bộ
Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
Từ những định nghĩa trên có thể hiểu “cán bộ” là khái niệm dùng để chỉ những
người ở trong cơ cấu của một tổ chức nhất định, có trọng trách hoàn thành nhiệm vụ
theo chức năng được tổ chức, đơn vị đó phân công và người cán bộ có 4 đặc trưng
cơ bản:
- Là người được sự uỷ nhiệm của Đảng, nhà nước và các tổ chức khác trong
hệ thống chính trị... lấy danh nghĩa của các tổ chức đó để hoạt động.
- Là người giữ một chức vụ, một trong trách nào đó trong một tổ chức của hệ
thống chính trị.
- Phải thông qua tuyển chọn hay phân công công tác sau khi hoàn thành
chương trình đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy
nghề. Tức là cán bộ được lựa chọn thông qua bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
- Là người được hưởng lương và chính sách đãi ngộ căn cứ vào nội dung, chất
lượng hoạt động và thời gian công tác của họ.
Như vậy, ta có thể hiểu cán bộ là người lãnh đạo, quản lý hoặc người làm
chuyên môn, nhà khoa học hay công chức, viên chức làm việc, hưởng lương từ
ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn khác. Họ được hình thành từ tuyển dụng,
phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra trường, từ bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.

8



1.1.1.2. Cán bộ Đoàn
Cán bộ đoàn là cán bộ hoạt động chính trị - xã hội được Đảng giao nhiệm vụ
công tác vận động thanh, thiếu nhi, trực tiếp thực hiện công tác vận động tuyên
truyền giáo dục thanh thiếu niên theo đường lối giáo dục chính sách của Đảng, Nhà
nước và Điều lệ Đoàn.
Định nghĩa Cán bộ đoàn được xác định rõ trong Điều 1, Quy chế cán bộ Đoàn
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong Quyết định số 289-QĐ/TW ngày 8-2-2010
của Ban Bí thư. Theo đó, cán bộ đoàn bao gồm: Những người giữ chức danh bí thư
chi đoàn, phó bí thư, bí thư đoàn cấp cơ sở trở lên; Những người làm việc trong các
cơ quan chuyên trách của Đoàn và trực tiếp làm công tác đoàn, hội, đội, phong trào
thanh thiếu nhi từ cấp huyện và tương đương trở lên; Trợ lý thanh niên, cán bộ ban
thanh niên trong Quân đội nhân dân; uỷ viên ban công tác thanh niên các cấp trong
Công an nhân dân.
Cán bộ đoàn được phân chia thành hai loại chủ yếu, bao gồm: Cán bộ đoàn
chuyên trách và không chuyên trách. "Cán bộ đoàn chuyên trách" là những người
được hưởng lương để chuyên làm công tác đoàn, hội, đội, phong trào thanh thiếu
nhi (Điều 3, Quy chế cán bộ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong Quyết
định số 289-QĐ/TW ngày 8-2-2010 của Ban Bí thư). Cán bộ đoàn không chuyên
trách bao gồm những người làm việc tại các cơ quan khác nhau không thuộc về
Đoàn nhưng kiêm nhiệm thêm công tác đoàn.
Dù là chuyên trách hay không chuyên trách thì đội ngũ cán bộ đoàn giữ vai trò
đặc biệt quan trọng trong quá trình triển khai, tổ chức các hoạt động của Đoàn. Họ
là lực lượng quyết định đến việc nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đoàn,
đa dạng hóa các loại hình hoạt động; giữ vai trò nòng cốt trong đoàn kết, tập hợp
thanh, thiếu nhi; tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước góp phần
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Đội ngũ cán bộ đoàn cũng được
đánh giá là đội ngũ cán bộ kế thừa phong phú cho cấp uỷ Đảng, Ủy ban nhân dân,
các ban, ngành, đoàn thể của từng cấp. Do vậy, Đoàn cần chủ động làm tốt công tác
tham mưu cho Đảng trong việc quy hoạch, đào tạo, bố trí, sắp xếp, sử dụng cán bộ

chuyên trách của Đoàn tránh bỏ qua một lớp cán bộ đã được thử thách, đào luyện
trong môi trường thực tiễn sinh động.
9


Do đặc thù của công việc và của đối tượng chịu ảnh hưởng mà cán bộ đoàn có
một số đặc trưng sau:
Thứ nhất, cán bộ đoàn phải có độ tuổi sát với độ tuổi thanh niên, thời gian giữ
chức vụ ngắn, có sự thay đổi nhanh nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Do đó yêu cầu
đối với cán bộ đoàn phải trẻ về độ tuổi, mới về tư duy và phong phú về tâm hồn. Cán
bộ đoàn đồng thời là những người dễ gần, dễ mến, chân tình, cởi mở, dễ hòa mình
cùng thanh niên, để có thể là người bạn đồng hành thân thiết của thanh niên. Có làm
được như vậy, cán bộ đoàn mới đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, cán bộ đoàn là người nhiệt tình công tác xã hội để có thể huy động
lòng say mê hoạt động chính trị- xã hội trong thanh, thiếu niên, phát huy được sở
thích, năng khiếu của từng thành viên, chăm lo lợi ích cho quần chúng thanh niên.
Có thể nói rằng, đây cũng là tiêu chí để thanh niên suy tôn, tin tưởng và lựa chọn
cán bộ đoàn vào công việc chung. Đồng thời, đó cũng là tiêu chuẩn để đánh giá toàn
bộ hoạt động của cán bộ đoàn trên cương vị công tác khác nhau trong hệ thống tổ
chức Đoàn.
Thứ ba, cán bộ đoàn cần có kỹ năng công tác thanh thiếu nhi và nghiệp vụ
Đoàn, Hội, Đội; có khả năng thiết kế, tổ chức các hoạt động và nghệ thuật giao tiếp
ứng xử tốt. Cho nên, cán bộ đoàn đóng vai trò tổ chức, châm ngòi, giữ lửa nhiệt
huyết, khởi xướng cổ vũ và thúc đẩy phong trào hành động cách mạng của quần
chúng thanh niên. Theo giáo sư, tiến sĩ Sêpen, Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô đã
khẳng định: “Người cán bộ hoạt động chính trị - xã hội nhất thiết phải có được sức
hấp dẫn cá nhân, mà cơ sở của nó là năng khiếu bẩm sinh, lý trí và kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng tự rèn luyện trau dồi bản thân”. Qua đó, đánh giá năng lực của người
cán bộ hoạt động chính trị, gồm nhiều yếu tố xây dựng nên uy tín phong cách của
người cán bộ hoạt động đoàn, trong đó năng khiếu bẩm sinh chỉ là một phần, không

phải là yếu tố quyết định; mọi tài năng đều trải qua quá trình rèn luyện, thử thách
lâu dài mới đạt được những thành quả tốt đẹp.
Thứ tư, cán bộ đoàn phải gần gũi và hiểu sâu sắc về đối tượng tuyên truyền
vận động của mình là đoàn viên thanh niên; phải có năng lực tranh thủ sự ủng hộ,
tạo lập và mở rộng các quan hệ, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội cùng
quan tâm đến công tác thanh niên. Ngoài ra, cán bộ đoàn phải là người nhạy bén về
10


chính trị, luôn ủng hộ cái mới, cái tiến bộ, tích cực từ đó đề ra nội dung, phương
pháp công tác phù hợp với từng giai đoạn.
Xuất phát từ vị trí, vai trò, nhiệm vụ và nội dung hoạt động của Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh các cấp, đòi hỏi cán bộ đoàn chuyên trách phải có năng lực chỉ đạo
thực tiễn - khả năng nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nghị
quyết của Đoàn nhằm trực tiếp hướng dẫn các tổ chức cơ sở Đoàn thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị. Ngoài ra, cán bộ đoàn chuyên trách cần có khả năng chỉ đạo
điểm, tổng kết, nhân rộng điển hình, đồng thời vận dụng sáng tạo chủ trương,
đường lối chính sách của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể trong mỗi đối tượng thanh
niên đặc thù. Cho nên, đòi hỏi người cán bộ đoàn chuyên trách không những giỏi
trong công tác chỉ đạo mà còn phải giỏi về thiết kế hoạt động và tổ chức thực hiện.
1.1.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ Đoàn và tầm quan trọng của việc phát
triển cán bộ Đoàn
1.1.2.1. Vai trò của đội ngũ cán bộ Đoàn
Một là chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu
nhi.
Hai là tổ chức các hoạt động, tạo môi trường giáo dục, rèn luyện đoàn viên,
thanh thiếu nhi nhằm góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương, đơn vị.
Ba là phối hợp với chính quyền, các đoàn thể và các tổ chức kinh tế, xã hội
làm tốt công tác thanh niên, tích cực chăm lo xây dựng Đoàn, xây dựng các Hội của
thanh niên và Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, tích cực tham gia xây dựng,

bảo vệ Đảng và chính quyền.
Bốn là tham gia công tác phát triển cán bộ, cụ thể tham gia vào việc quyết
định tuyển chọn, cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt; chủ
động tham mưu trong công tác quy hoạch cán bộ đoàn; lựa chọn và giới thiệu đoàn
viên ưu tú cho tổ chức Đảng xem xét kết nạp; tham gia đóng góp ý kiến xây dựng
Đảng và góp ý cho từng cá nhân đảng viên; chủ trì sắp xếp, phân công cán bộ, bổ
nhiệm cán bộ theo phân cấp, thẩm quyền quy định. Cán bộ đoàn còn là người quyết
định các khâu trong hoạt động phong trào thanh, thiếu nhi.
Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ đoàn ở các cấp có vai trò quan trọng trong
11


việc chủ động tạo lập và mở rộng các mối quan hệ phối hợp hoạt động với các ban,
ngành vì lợi ích, nguyện vọng của đông đảo ĐVTN nhằm đẩy nhanh quá trình xã
hội hóa công tác thanh niên, bằng việc làm thiết thực và sự chăm lo của toàn xã hội
đối với công tác thanh niên. Nhờ sự nhạy bén về chính trị, luôn tìm tòi học hỏi và
chủ động, sáng tạo trong công tác tham mưu nên đội ngũ cán bộ đoàn đã đưa ra
nhiều sáng kiến, ý tưởng hay giúp tổ chức Đoàn khắc phục mọi khó khăn, đề ra các
chương trình hoạt động đoàn phù hợp, thiết thực, thật sự có vóc, có hình, phù hợp
với nguyện vọng của ĐVTN không dừng lại ở lý luận chung chung trừu tượng.
Những kết quả, thành tích tổ chức Đoàn đạt được ở từng địa phương, đơn vị đều có
vai trò đóng góp tích cực, quan trọng của lực lượng cán bộ đoàn chuyên trách, bởi
vì “cán bộ nào thì phong trào ấy”. Đây là sự ghi nhận một cách chính xác công
trạng, vai trò của cán bộ đoàn, danh hiệu đó không phải họ tự phong, mà do xã hội
thừa nhận, qua kết quả công tác thực tế của từng cá nhân cán bộ đoàn.
1.1.2.2. Tầm quan trọng của việc phát triển cán bộ Đoàn
Theo Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh được thông qua ngày 12/12/2012
“Đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội của Thanh niên Việt Nam, do Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện”. Điều này
phản ánh đầy đủ Đoàn là một tổ chức thanh niên Cộng sản mang tính tiên tiến của

giai cấp công nhân và tính quần chúng rộng rãi của Thanh niên Việt Nam thông qua
việc mở rộng các hoạt động có tính chất xã hội, mỗi đoàn viên và tổ chức cơ sở
đoàn thể hiện tính tiên tiến, vai trò nòng cốt của mình trong phong trào thanh niên
và các hội của thanh niên. Đoàn là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ
sung lực lượng trẻ cho Đảng, Nhà nước và các Ngành. Đoàn luôn luôn xác định
nhiệm vụ của mình là đội xung kích cách mạng tích cực tham gia xây dựng Đảng và
là người kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của Bác Hồ.
Đoàn là Trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, tạo môi trường đưa thanh niên
vào các hoạt động giúp học tập, rèn luyện và phát triển nhân cách, năng lực của
người lao động mới phù hợp với yêu cầu xã hội hiện nay. Đoàn là người đại diện,
chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tuổi trẻ. Đoàn là một tổ chức của thanh
niên và vì thanh niên.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thị trường đã và đang phát triển
12


mạnh mẽ thì nó có ảnh hưởng không nhỏ đến phong trào công tác đoàn ở khắp mọi
nơi. Không ít các cơ sở Đoàn, Hội rồi cán bộ đoàn từ cấp chi đoàn đến Đoàn cấp
trên thường xuyên ca thán rằng thanh niên ngày nay thiếu nghị lực, chỉ đua theo lối
sống thì trường buông thả, đặt đồng tiền lên hàng đầu, họ không quan tâm đến các
phong trào đoàn mà chỉ biết ghi tên, điểm danh cho xong chuyện. Có những cơ sở
đoàn còn cho rằng, hiện nay, thanh niên đi làm ăn xa, chỉ biết lo làm kinh tế chứ
không quan tâm đến các hoạt động khác của đoàn rồi nếu đứng ra tổ chức thì không
có thanh niên nào tham gia…
Chính vì lẽ đó, Đoàn phải luôn xác định công tác xây dựng Đoàn là nhiệm vụ
quan trọng, có ý nghĩa then chốt với phong trào thanh niên trong tiến trình lịch sử,
thấy khả năng cách mạng to lớn của thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất lượng hoạt động của các
tổ chức Đoàn trong điều kiện hiện nay và làm thế nào để khơi dậy tinh thần xung
kích, nhiệt huyết của thanh niên, sự gắn kết chia sẻ tình cảm, trách nhiệm trong

đoàn viên khi tham gia tổ chức và các hoạt động phong trào. Đứng trước thực trạng
đó, để nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đoàn cần phải tập trung nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ đoàn.
Đội ngũ cán bộ đoàn luôn giữ vai trò then chốt trong quá trình đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nói chung và từng cấp nói
riêng; là lực lượng nòng cốt trong đoàn kết, tập hợp thanh niên vào tổ chức Đoàn –
Hội và tạo nguồn lực quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) đất nước. Chính vì vậy, trong Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày
18/6/1997 của BCH Trung ương Đảng (khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã khẳng định: “Cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng, là then chốt trong xây dựng Đảng”. Đặc biệt
trong thời kỳ hội nhập, mở cửa hiện nay, với nhiệm vụ chính trị mới càng nặng nề,
khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng phải xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp
phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX đã xác định: “Chất lượng
cơ sở là trọng tâm, cán bộ là then chốt, đoàn kết thanh niên là nhiệm vụ hàng đầu”.
Đồng thời khẳng định tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 02 của BCH Trung
13


ương Đoàn khóa VIII về “Công tác cán bộ Đoàn trong thời kỳ mới”. Chú trọng xây
dựng đội ngũ cán bộ cơ sở Đoàn đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu công tác
thanh niên trong điều kiện mới, đặc biệt quan tâm đến việc tạo nguồn, quy hoạch đào
tạo, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ đoàn cơ sở.
Từ tầm quan trọng của công tác cán bộ thời gian qua, các cấp ủy Đảng đã quan
tâm, chỉ đạo thông qua các Nghị quyết chuyên đề về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác thanh niên, về công tác quy hoạch cán bộ… cùng với sự chủ
động của các cấp bộ Đoàn trong tham mưu, chăm lo, xây dựng đội ngũ cán bộ, góp
phần từng bước hình thành nên đội ngũ cán bộ đoàn đông đảo, vừa chuyên trách và
bán chuyên trách có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn, kiến thức

văn hóa, có năng lực hoạt động thực tiễn; là lực lượng nòng cốt triển khai các chủ
trương công tác của Đoàn trong toàn hệ thống. Qua thực tiễn hoạt động, đội ngũ cán
bộ đoàn đã trưởng thành, là nguồn cán bộ kế cận đông đảo, chất lượng cho tổ chức
Đảng, nhà nước và các đoàn thể quần chúng ở các hầu hết các cấp.
Tiêu chuẩn đối với các vị trí cán bộ đoàn được nêu cụ thể trong Quy chế cán
bộ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh được ban hành kèm theo Quyết định
289-QĐ/TW ngày 8/2/2010 của Ban Bí thư:
Đối với cán bộ đoàn cấp tỉnh, thành phố
Bí thư phải nắm vững và có khả năng vận dụng quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công
tác đoàn; có kinh nghiệm thực tiễn, năng lực đề xuất, tham gia xây dựng đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và của đoàn tại địa phương; là
cán bộ tiêu biểu trong công tác tại địa phương, đơn vị, có phong cách lãnh đạo, khả
năng điều hành tốt công việc. Trình độ chuyên môn từ đại học trở lên, trình độ lý luận
chính trị cao cấp hoặc cử nhân. Giữ chức vụ lần đầu không quá 35 tuổi và giữ chức
vụ không quá 40 tuổi. Đã kinh qua thực tiễn công tác một trong các cương vị: cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Bí thư, phó Bí thư Đoàn
cấp quận, huyện; Trưởng, phó các ban, đơn vị trực thuộc tỉnh, thành Đoàn.
Phó Bí thư nắm vững và có khả năng vận dụng quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công
tác đoàn; có kinh nghiệm thực tiễn, năng lực đề xuất, tham gia xây dựng đường lối,
14


chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và của Đoàn tại địa phương,
có phong cách lãnh đạo tốt. Trình độ chuyên môn từ đại học trở lên, trình độ lý luận
chính trị từ trung cấp trở lên. Giữ chức vụ lần đầu không quá 33 tuổi và giữ chức vụ
không quá 38 tuổi. Đối với ủy viên Ban Thường vụ tiêu chuẩn cơ bản như phó Bí
thư nhưng giữ chức vụ lần đầu không quá 32 tuổi và giữ chức vụ không quá 37 tuổi.
Đối với cán bộ đoàn cấp quận, huyện

Nhìn chung, cán bộ đoàn phải có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên (vùng
đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, đối tượng chính sách có thể từ cao đẳng trở
lên). Bí thư, phó Bí thư có trình độ lý luận chính trị tương đương trung cấp trở lên.
Tham gia Ban chấp hành lần đầu không quá 30 tuổi và giữ chức vụ không quá 35
tuổi. Đã được rèn luyện trong phong trào thanh niên hoặc đã từng là cán bộ cấp xã
bí thư, phó bí thư đoàn cơ sở.
Đối với cán bộ đoàn cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn)
Cán bộ đoàn ở cấp này phải có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên, trình
độ lý luận chính trị sơ cấp. Giữ chức vụ không quá 35 tuổi. Đối với vùng đặc biệt
khó khăn, biên giới hải đảo, đối tượng chính sách, trình độ văn hóa nói chung từ tốt
nghiệp trung học phổ thông trở lên, đã được bồi dưỡng chương trình lý luận chính
trị sơ cấp. Giữ chức vụ không quá 37 tuổi.
1.2. Chính sách công và chính sách phát triển cán bộ Đoàn
1.2.1. Chính sách công
Chính sách công là tập hợp những quyết định mang tính chính trị của đảng
cầm quyền nhằm vạch ra những đường hướng hành động ứng xử cơ bản của chủ thể
quản lý với các vấn đề, hiện tượng tồn tại trong đời sống để thúc đẩy và quản lý dự
phát triển nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định cho trước. Khái niệm chính sách
công được diễn đạt khái quát như sau: “Chính sách công là tổng thể những chương
trình hành động của Nhà nước, nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt được
các mục tiêu đề ra và đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững, ổn định.”.
Chủ thể ban hành chính sách là Nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực
(Quốc hội, Chính phủ), các bộ ngành thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Chính
sách công được biểu hiện bằng nhiều cấp độ khác nhau: Hiến pháp, Luật, Nghị
15


quyết, Nghị định, Quyết định. Mục đích cuối cùng là để phát triển và quản lý sự
phát triển của xã hội. Cấu trúc của chính sách gồm ba bộ phận: Quan điểm và định

hướng chính sách; biện pháp thực hiện chính sách, các công cụ của chính sách; mục
tiêu mà chính sách hướng tới.
1.2.2. Chính sách phát triển cán bộ Đoàn
1.2.2.1. Thế nào là chính sách phát triển cán bộ Đoàn?
Chính sách phát triển cán bộ đoàn là tập hợp các quyết định chính trị có liên
quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu cụ thể với giải pháp và công
cụ thực hiện giải quyết các vấn đề về phát triển thanh niên theo mục tiêu xác định
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính sách phát triển cán bộ đoàn gồm chính sách sử
dụng; chính sách đào tạo, bồi dưỡng; có tác động trực tiếp đến việc sử dụng, quản
lý, tạo lập môi trường làm việc và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ đoàn, hướng đến
mục tiêu phát triển năng lực cán bộ đoàn để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ.
Xác định vấn đề chính sách là giai đoạn khởi đầu trong quy trình xây dựng
chính sách công, bao gồm từ bước phát hiện những vấn đề xã hội, mâu thuẫn nảy sinh
trong đời sống xã hội đến mức cần phải có giải pháp giải quyết bằng chính sách cho
đến khi hoàn thành những mục tiêu của chính sách công. Những vấn đề đó thường là
những mâu thuẫn trong xã hội, những khó khăn, vướng mắc trong quá trình phát triển
hoặc là nhu cầu phát triển ở mức độ cao hơn. Vì vậy vấn đề của chính sách luôn luôn
gắn liền với sự phát triển của xã hội, “Việc xác định vấn đề chính sách được bắt đầu
bằng cảm nhận vấn đề so với cấu trúc vấn đề, đó là cảm nhận về các trở ngại, khó
khăn, vướng mắc trong xã hội cần được giải quyết bằng chính sách hoặc các bất hợp
lý gây mâu thuẫn, mất cân bằng, mất ổn định về kinh tế xã hội, cản trở tăng trưởng
kinh tế hoặc những nhu cầu trong tương lai cần đạt được bằng chính sách. Theo quy
luật vận động, vấn đề chính sách mang cả tính hiện thực và tương lai, các hiện tượng
đang tồn tại thực tế sẽ làm nảy sinh những vần đề trong tương lai” [21], “Quá trình
xây dựng chính sách công tại các nước đang phát triển” [20]. Việc xác định rõ quy
mô và mức độ nghiêm trọng của vấn đề xã hội để định rõ phạm vi và mức độ can
thiệp của chính sách là hết sức quan trọng và cần được xem xét cụ thể thông qua các
chỉ số đáng tin cậy và biện pháp đo lường khoa học.
Chính sách phát triển cán bộ đoàn nảy sinh khi những mâu thuẫn giữa năng
16



lực thực tế và việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ đoàn đến mức cần phải giải
quyết, dẫn tới số lượng cán bộ đoàn làm việc không đến nơi đến chốn; có thể do
công tác tuyển dụng người không đủ năng lực đưa vào thực hiện nhiệm vụ, không
xác định đúng cán bộ đoàn cần bồi dưỡng phát triển năng lực, cách tiếp cận phương
pháp phát triển cán bộ đoàn chưa phù hợp, nội dung phát triển cán bộ đoàn chưa
đáp ứng đầy đủ nhu cầu tăng cường năng lực, mức thu nhập còn thấp so với chi phí
tối thiểu hàng ngày... Việc xác định đúng vấn đề chính sách đóng một vai trò quan
trọng trong quá trình xây dựng, ban hành, thực hiện chính sách và quyết định đến sự
thành công hay thất bại của chính sách.
1.2.2.2. Nội dung của chính sách phát triển cán bộ Đoàn
a) Về tuyển dụng, tuyển chọn cán bộ đoàn
Tuyển dụng là quá trình sàng lọc và tuyển chọn những người có đủ năng lực
đáp ứng yêu cầu công việc, là khâu đầu tiên trong quá trình quản lý nhân sự. Tuyển
dụng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn có đủ phẩm
chất chính trị và năng lực chuyên môn tại cơ quan Đoàn thanh niên. Đa số cán bộ
đoàn chưa hội tụ đủ các tiêu chuẩn của một cán bộ công chức, viên chức như trình
độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, nghiệp vụ, kỹ năng...có ảnh hưởng nhiều
đến chất lượng công việc.
Theo mục 2, Điều 38, Luật cán bộ công chức, việc tuyển dụng cán bộ công
chức phải theo các nguyên tắc: bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan và đúng
pháp luật; bảo đảm tính cạnh tranh; tuyển chọn đúng người đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ và vị trí làm việc; ưu tiên tuyển chọn người có tài năng, người có công với nước,
người dân tộc thiểu số. Việc tuyển dụng cán bộ công chức đã được chuyển đổi từ
phân phối theo kế hoạch sang thực hiện thông qua nhiều phương thức như thi tuyển,
thuyên chuyển và điều động khách quan chất lượng và bước đầu đã chú ý đãi ngộ
người có tài năng. Tuy nhiên, việc tuyển dụng cán bộ công chức cũng như cán bộ
đoàn hiện vẫn đang gặp phải vấn đề chất lượng đầu vào chưa cao, chưa đồng đều;
tuyển dụng người không đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ. Hệ thống các quy định về

tiêu chuẩn cán bộ đoàn chú trọng vào văn bằng chứng chỉ mà ít chú ý đến năng lực
kinh nghiệm. Mặt khác, về văn bản đề ra những quy định rất chặt chẽ nhưng rất ít
các cơ quan thực hiện nghiêm túc, minh bạch mà thường đặt ra “các quy định nội
17


bộ” để định hướng và ưu tiên cho các mối quan hệ, con cháu trong ngành.
Trong điều kiện chất lượng đầu vào chưa cao, chưa đồng đều khó tuyển được
người giỏi như hiện nay, cần thực hiện dân chủ công bằng minh bạch trong tuyển dụng
và chú ý đến năng lực thực tế nhiều hơn chú ý đến văn bằng chứng chỉ; cần làm tốt hơn
nữa về việc cung cấp thông tin tuyển dụng; đổi mới hình thức nội dung tuyển dụng cho
phù hợp với vị trí việc làm. Mặt khác, việc tuyển dụng phải thật sự nghiêm túc để cán
bộ công chức đặc biệt là cán bộ đoàn không còn cảm giác “vào cơ quan nhà nước chủ
yếu nhờ ô dù, quen thân, chạy tiền”; thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong
tuyển dụng cán bộ đoàn để đảm bảo chất lượng đầu vào và phòng chống tiêu cực trong
công tác tuyển dụng.
Việc tuyển dụng để làm việc tại cơ quan đoàn chuyên trách từ cấp huyện trở
lên được thực hiện theo hình thức xét tuyển hoặc thi tuyển. Thực hiện thi tuyển đối
với các chức danh thuộc công chức nhà nước. Thực hiện việc xét tuyển đối với các
đối tượng thuộc vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo và đối tượng chính sách.
Người được tuyển dụng phải đảm bảo các tiêu chuẩn chung quy định tại Điều
7 của Quy chế này, đồng thời đáp ứng yêu cầu sau đây:
- Là đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam.
- Đạt điểm theo quy định tuyển dụng, lấy từ trên xuống đến khi đủ chỉ tiêu.
Cấp uỷ đảng chủ trì, phối hợp với ban thường vụ đoàn cùng cấp thống nhất nội
dung, phương pháp, lập hội đồng thi tuyển hoặc xét tuyển và giao ban thường vụ
đoàn cùng cấp thực hiện tuyển dụng cán bộ đoàn.
Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chỉ đạo việc
tuyển dụng cán bộ đoàn tại cơ quan Trung ương Đoàn.

Về chất lượng tuyển dụng nguồn cán bộ đoàn, có số ít đạt yêu cầu trình độ
năng lực, còn thực sự chưa đạt chuẩn mà đang trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng.
Đó là chưa kể đến cán bộ đoàn được nhận vào cán bộ chuyên trách của Đoàn do sự
gửi gắm, thân quen, nể nang, trong khi trình độ,năng lực không đạt chuẩn, yêu cầu
theo như quy định... ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cán bộ đoàn. Từ đó dẫn đến
chưa xây dựng được đội ngũ cán bộ Đoàn chuyên trách có chất lượng.

18


b) Về bố trí, quy hoạch và bổ nhiệm đội ngũ cán bộ đoàn
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá XI khẳng định: "Cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ. Công tác quy hoạch, chuẩn bị đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp
chiến lược, có ý nghĩa hết sức quan trọng, là nội dung trọng yếu, bảo đảm cho công
tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động".
Nghị quyết về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước đã
nêu rõ: “Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, có tầm
nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài”.
Theo Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW ngày 05/11/2012 của Ban tổ chức Trung
ương “Về công tác Quy hoạch cán bộ, quản lý theo tinh thần Nghị quyết số 42NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) và Kết luận số 24-KL/TW
ngày 05/6/2012 của Bộ Chính trị (khóa XI)” đã nêu: “ Quy hoạch cán bộ, lãnh đạo,
quản lý là công tác phát hiện sớm nguồn cán bộ trẻ, có đức, có tài, có triển vọng về
khả năng lãnh đạo, quản lý đưa vào quy hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng,
tạo nguồn các chức danh lãnh đạo, quản lý đáp ứng nhiệm vụ chính trị trước mắt
và lâu dài của cơ quan, đơn vị, địa phương và đất nước. Quy hoạch là khâu quan
trọng trong công tác cán bộ, làm quy hoạch là tạo điều kiện để kiện toàn tổ chức và
đổi mới cán bộ một cách thường xuyên, có quy hoạch cán bộ mới có thể đảm bảo
tính kế thừa và tính liên tục của đội ngũ cán bộ. Đề án quy hoạch cán bộ là kế
hoạch tổng thể, lâu dài về đội ngũ cán bộ có triển vọng đảm nhiệm các chức danh

lãnh đạo, quản lý và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm, sử dụng
cán bộ đó theo quy hoạch”.
Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị về công tác quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước đã chỉ ra rằng: “Tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực của người cán
bộ đưa vào quy hoạch phải được đánh giá thông qua các yếu tố: năng lực thực tiễn
thể hiện ở kết quả và hiệu quả công việc, tinh thần chủ động sáng tạo và mức độ
hoàn thành nhiệm vụ được giao, đạo đức lối sống trong sạch, kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng. Mặt khác, những người cán bộ đó phải là những người ham học
hỏi, cầu tiến và qua thực tế thấy là người có triển vọng để phát triển”.
19


×