Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Báo cáo tổng kết 10 năm nghị quyết trung ương 7 khóa X

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.64 KB, 24 trang )

TỈNH ỦY HÀ NAM
BAN CÁN SỰ ĐẢNG UBND TỈNH

Số:

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Hà Nam, ngày

-BC/BCS

tháng 6 năm 2018

BÁO CÁO
Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Ngày 05/8/2008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành
Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị quyết đã
mở ra cơ hội lớn đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn cả nước nói chung
và tỉnh Hà Nam nói riêng.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức do tác động của thiên tai, đặc
biệt là chịu nhiều thiệt hại do trận lũ lịch sử (năm 2008 và năm 2017), nhưng
với sự nỗ lực quyết tâm cao của Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân tỉnh nhà,
được sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, sự tham gia tích cực của các thành
phần kinh tế và hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, sau 10 năm triển khai thực hiện
Nghị quyết số 26-NQ/TW, nền nông nghiệp của tỉnh đã có nhiều chuyển biến
tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa; đời sống nông dân từng bước cải thiện
và nâng cao; phong trào xây dựng nông thôn mới đạt được kết quả quan trọng.
Tuy vậy, thực trạng nông nghiệp, nông dân, nông thôn hiện nay còn nhiều
khó khăn, quy mô sản xuất vẫn còn nhỏ, lẻ, đời sống vật chất và tinh thần của
người dân ở khu vực nông thôn vẫn còn khó khăn. Chính vì vậy, việc tổng kết


Nghị quyết là hết sức cần thiết, để đánh giá đúng thực chất những kết quả đạt
được, chỉ ra những tồn tại, khó khăn, vướng mắc, nhất là làm rõ hơn từng vấn đề
nông nghiệp, nông dân và nông thôn, đề ra giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị
quyết đạt kết quả thiết thực hơn nữa trong thời gian tới.
Thực hiện Công văn số 11-CV/BCĐ ngày của Ban Chỉ đạo tổng kết 10
năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X, Kế hoạch số 66-KH/TU của
Tỉnh ủy Hà Nam về việc tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7
khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Từ thực tiễn công tác lãnh đạo,
chỉ đạo, Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh đánh giá kết quả 10 năm tổ chức thực
hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn với những
nội dung chủ yếu sau:
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT

I. Công tác tuyên truyền, học tập, quán triệt, kế
hoạch thực hiện Nghị quyết được các cấp, các ngành, đơn vị, địa
phương thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, hình thức đa dạng, nội dung phong
1


phú; nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về vai trò, vị
trí của nông nghiệp, nông dân, nông thôn được nâng lên
Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 26 kịp thời, hiệu quả, thiết thực,
Tỉnh uỷ Hà Nam đã triển khai học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị
quyết trong toàn Đảng bộ. Ngoài việc tổ chức học tập, quán triệt, các địa
phương, đơn vị trên địa bàn tỉnh đã có nhiều hình thức tuyên truyền Nghị quyết
đến với cán bộ, đảng viên, nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể
chính trị tổ chức tuyên truyền, phổ biến cho đoàn viên, hội viên, quần chúng
nhân dân thông qua sinh hoạt tổ chức đoàn thể, tuyên truyền cổ động...
Công tác tuyên truyền Nghị quyết được các địa phương tiếp tục thực hiện

đi vào chiều sâu, gắn với tuyên truyền cơ chế, chính sách về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn, nhất là tuyên truyền sâu rộng, thường xuyên Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Báo Hà Nam, Đài Phát thanh - Truyền
hình, các bản tin trong tỉnh, các cơ quan đại diện báo Trung ương hoạt động trên
địa bàn nâng cao chất lượng tin, bài, ảnh; tăng thời lượng, mở các chuyên trang,
chuyên mục về nông nghiệp, nông thôn; chỉ đạo tuyên truyền qua hệ thống
truyền thanh cơ sở nhằm chuyển tải kịp thời nội dung Nghị quyết đến với người
dân. Trong 10 năm thực hiện đã có hàng vạn tin, bài, ảnh, phóng sự đăng tải,
phát sóng trên các phương tiện thông tin đại chúng; 160 đợt tuyên truyền lưu
động, 13.200 pan nô nhỏ, 5.900 vinhet, 42.800 băng rôn, phát hành hàng trăm
đĩa CD tuyên truyền, gần 20 ngàn tờ rơi tuyên truyền về mô hình điển hình, 20
ngàn cuốn sổ tay xây dựng nông thôn mới; hàng trăm cuộc hội nghị về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn và xây dựng nông thôn mới được tổ chức; hầu hết
tại các hội nghị lớn của tỉnh, của huyện, lãnh đạo các cấp đều dành lượng thời
gian nhất định để nắm tình hình, kịp thời định hướng nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo
lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Công tác học tập, quán triệt, tuyên truyền Nghị quyết đã nâng cao nhận
thức, chuyển biến hành động của cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp,
cán bộ, đảng viên và nhân dân; đa số người nông dân đã ý thức được vai trò chủ
thể của mình, khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại. Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào có sức lan toả mạnh mẽ,
huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, được toàn xã hội quan tâm, hưởng ứng
tham gia tích cực.
II. Việc thể chế hóa Nghị quyết được các cấp ủy đảng, chính quyền,
các tổ chức đoàn thể địa phương, đơn vị từ tỉnh đến cơ sở triển khai kịp
thời, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và điều kiện thực tế ở từng địa
phương, đơn vị
Tỉnh ủy Hà Nam đã ban hành Chương trình hành động số 45-CTr/TU
ngày 09/10/2008; Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 190/KHUBND ngày 19/2/2009 và chỉ đạo tổ chức thực hiện các đề án phát triển nông
nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn 2006 -2010, giai đoạn 2011-2015,

giai đoạn 2015 - 2020, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 17, 18
và 19 đã đề ra. Để cụ thể hóa các chủ trương lớn của Đảng phù hợp với điều
2


kiện của tỉnh, Tỉnh ủy Hà Nam đã ban hành các Nghị quyết chuyên đề: Nghị
quyết số 03/NQ-TU ngày 21/04/2011 về xây dựng nông thôn mới đến năm 2020
và Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 08/4/2016 về đẩy mạnh công nghiệp hóa
nông nghiệp, tạo đột phá phát triển nhanh, bền vững nông nghiệp, nông thôn
tỉnh Hà Nam giai đoạn 2016 - 2025, định hướng đến 2035.
Sau khi Nghị quyết số 03-NQ/TU và Nghị quyết số 05-NQ/TU được ban
hành. UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 547/KH-UBND ngày 13/5/2011 về
thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TU của Tỉnh ủy Hà Nam về xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2011-2020, ngày 16/6/2016 đã ban hành Kế hoạch số 1281/KHUBND về thực hiện thực Nghị quyết số 05-NQ/TU của Tỉnh ủy, trong đó giao
nhiệm vụ cho các sở, ban, ngành và các địa phương rà soát, điều chỉnh, bổ sung
và xây dựng 20 chương trình, đề án, thực hiện Nghị quyết gồm: 02 Chương
trình; 18 đề án chuyên ngành. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện còn ban hành
nhiều cơ chế chính sách mới về sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, phát triển
bò sữa, bò thịt chất lượng cao, phát triển thương hiệu đặc sản Hà Nam... Các quy
hoạch, chương trình, đề án, chính sách sau khi ban hành đã nhanh chóng đi vào
cuộc sống và có tác động thúc đẩy phát triển mạnh mẽ nông nghiệp, nông thôn,
kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã
cải thiện đáng kể về đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn trên
địa bàn tỉnh.
Phần thứ hai
KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

1. Về thực hiện tái cơ cấu xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo
hướng hiện đại; phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn

1.1. Thực hiện tái cơ cấu xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo
hướng hiện đại
a) Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tăng nhanh ứng dụng khoa
học, kỹ thuật, xây dựng mô hình theo chuỗi (sản xuất - bảo quản, chế biến - tiêu
thụ) để nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững:
Để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tăng nhanh ứng dụng khoa
học, kỹ thuật, xây dựng các mô hình theo chuỗi sản xuất nhằm nâng cao giá trị
gia tăng và phát triển bền vững giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Ủy ban nhân dân
tỉnh đã phê duyệt 15 chương trình, đề án phát triển nông nghiệp và hiện nay
đang tiếp tục tham mưu 5 chương trình, dự án, đề án về nông nghiệp.
Mặc dù diện tích cấy lúa cả năm giảm từ 69.631 ha năm 2008 xuống
64.473,1 ha năm 2017, do áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nên năm 2017
năng suất vẫn duy trì ở mức khá, đạt 56,8 tạ/ha, sản lượng lúa đạt 366.408 tấn,
đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn tỉnh, sản lượng lúa chất lượng cao đạt
122.588 tấn. Cơ cấu cây trồng vụ đông được thay đổi, theo hướng tăng nhanh
3


các cây trồng có giá trị kinh tế như cây bí đỏ, bí xanh, dưa chuột xuất khẩu, góp
phần tăng thu nhập cho người nông dân, nâng cao giá trị trên diện tích canh tác.
Tỉnh Hà Nam đã phê duyệt 6 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
với tổng diện tích 656,22 ha. Đến nay các hộ dân trong các khu nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao trên địa bàn toàn tỉnh đã ký hợp đồng cho thuê đất là 375,68
ha, các doanh nghiệp đang đẩy mạnh sản xuất trong các khu nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao, từng bước đưa sản phẩm nông nghiệp sạch ra thị trường.
Giá trị sản xuất trong các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao khu sản
xuất ngoài trời đạt 1.200 triệu đồng/ha/năm, khu trong nhà kính đạt 4.500 triệu
đồng/ha/năm.
Đồng thời để nhân rộng các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
góp phần nâng cao giá trị sản xuất, toàn tỉnh có 46 xã xây dựng được 55 mô hình

tích tụ ruộng đất, với tổng diện tích 578 ha của 1.885 hộ tham gia sản xuất lúa, rau
củ quả tham gia chuỗi sản xuất nông sản hàng hóa. Trên địa bàn tỉnh có 15 cửa
hàng giới thiệu, bán sản phẩm nông sản an toàn. Chương trình liên kết với doanh
nghiệp được đẩy mạnh, cụ thể: Công ty VinEco (thuộc tập đoàn Vingroup) đã tổ
chức khảo sát được 40 HTX, nhóm hộ, hộ nông dân, đã ký kết hợp đồng liên kết
được với 24/40 hộ; kết quả có 5/24 hộ, cơ sở sản xuất nông sản sạch đưa 75,6 tấn
sản phẩm lên kệ tại hệ thống siêu thị Vinmart, giá bán tăng từ 15 - 25% so với giá
bán tại địa phương; công ty Vinaseed hàng tháng cung cấp cho hệ thống siêu thị
Vinmart từ 100 - 150 tấn gạo chất lượng cao.
b) Duy trì và phát triển chăn nuôi hộ gia đình gắn với giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, từng bước có cơ chế thúc đẩy chăn nuôi hộ gia đình chuyển sang
chăn nuôi bán công nghiệp, công nghiệp, tập trung mở rộng phát triển chăn
nuôi bò sữa, bò thịt bò sinh sản chất lượng cao:
Trong những năm qua, việc đẩy mạnh chăn nuôi trong nông hộ và dần
chuyển sang chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, chăn nuôi trang trại, chăn
nuôi tập trung, ứng dụng công nghệ cao để sản xuất hàng hóa gắn với thị trường
tiêu thụ theo chuỗi sản xuất tiếp tục được tỉnh quan tâm, chỉ đạo thực hiện, đóng
góp lớn vào giá trị sản xuất ngành chăn nuôi. Tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp
giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong sản xuất nông nghiệp. Tỷ lệ chăn nuôi lợn
công nghiệp, bán công nghiệp quy mô gia trại, trang trại, tập trung hàng năm
ngày một nâng cao hiện nay đạt trên 40%, trong đó trang trại chiếm từ 21-25%,
đã thu hút được các doanh nghiệp đầu tư chăn nuôi lợn quy mô lớn, các doanh
nghiệp tham gia trong chuỗi liên kết chăn nuôi. Năm 2017, tổng đàn lợn đạt
455.038 con, tăng 31.000 con so với năm 2008.
Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi bò sữa, bò thịt quy mô trang trại và công
nghiệp theo quy hoạch: Tỉnh Hà Nam chỉ đạo tập trung phát triển chăn nuôi bò
sữa tại các huyện Duy Tiên, Lý Nhân, Kim Bảng, Thanh Liêm. Kết quả phát
triển đàn bò sữa, đến nay toàn tỉnh có 3.065 con bò sữa, tăng 2.869 con so với
năm 2008.


4


Chợ đầu mối gia súc, gia cầm tại xã Bối Cầu huyện Bình Lục được duy trì
hoạt động thường xuyên hiệu quả. Trong những năm qua, mỗi ngày bình quân từ
2.000- 3.000 đầu lợn xuất nhập ra vào chợ.
c) Từng bước củng cố, nâng cấp hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản
xuất để thu hút các doanh nghiệp đầu tư nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao:
Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ ngân sách và các
thành phần kinh tế để tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp,
nông thôn theo hướng có trọng tâm, trọng điểm. Tỉnh đã và đang đầu tư các
công trình đảm bảo tính đồng bộ theo cam kết hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng đến chân hàng rào các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao khu Nhân
Khang và khu Xuân Khê - Nhân Bình. Đến nay đã cơ bản đáp ứng tốt yêu cầu
sản xuất. Các doanh nghiệp như Công ty VinEco, Công ty CP Đầu tư và Phát
triển nông nghiệp công nghệ cao Hà Nam đang triển khai đầu tư theo tiến độ của
dự án.
Việc củng cố hệ thống xây dựng thủy lợi, nâng cấp kết cấu hạ tầng nông
nghiệp, nông thôn phục vụ sản xuất nông nghiệp: đến nay 100% kênh cấp 1 và
cấp 2 được kiên cố hoá; cứng hóa 455 km đường trục chính nội đồng, nâng tổng
số đường trục chính nội đồng được cứng hóa trên 950 km/1.008 km, bằng
94,2%. Bên cạnh đó, làm tốt công tác cải tạo củng cố hệ thống thủy lợi, nâng
cấp kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn phục vụ sản xuất nông nghiệp.
d) Tăng nhanh tỷ lệ cơ giới hóa trong các khâu của sản xuất nông nghiệp
gắn với đẩy mạnh chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp
- dịch vụ:
Công tác cơ giới hóa được tỉnh chú trọng, tổng kinh phí hỗ trợ cơ giới hóa
đến nay theo Quyết định số 15/2011/QĐ-UBND ngày 24/5/2011 là 27,266 tỷ
đồng. Tỉnh đã hỗ trợ các địa phương mua 378 các loại máy nông nghiệp phục vụ
cơ giới hóa nông nghiệp, góp phần nâng tỷ lệ cơ giới hóa trong khâu làm đất từ

90% năm 2008, tăng lên 100% năm 2017; thu hoạch tăng từ 0% năm 2008 lên
80% năm 2017; gieo trồng từ 0% năm 2008, tăng lên 40% năm 2017; tỷ lệ áp
dụng máy móc trong bảo quản chế biến tăng từ 2% năm 2008 lên 31,26% năm
2017. Tỷ lệ cơ giới hóa tăng góp phần từng bước chuyển dịch lao động nông
nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ: tỷ lệ lao động nông nghiệp trên tổng
lao động năm 2017 còn 40,5%, giảm 16,9% so với năm 2008.
e) Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, xây dựng thương hiệu
sản phẩm nông nghiệp sạch Hà Nam, phấn đấu đến năm 2020 có ít nhất 5
thương hiệu:
Công tác xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường tiêu thụ nông sản được
tỉnh quan tâm đẩy mạnh, thời gian qua đã làm tốt công tác xúc tiến đầu tư, mời
gọi các doanh nghiệp về nghiên cứu khảo sát lập dự án đầu tư phát triển nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Kết quả đến nay đã có một số doanh nghiệp có
tiềm lực kinh tế và kinh nghiệm sản xuất đầu tư sản xuất nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao trên địa bàn tỉnh như Công ty VinEco, Công ty Vinaseed,
5


Vinamilk, Dabaco, Công ty Cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Phù Vân...
Công tác xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm nông nghiệp sạch
Hà Nam theo tiêu chuẩn VietGap, xây dựng thương hiệu rau, củ, quả sạch tại các
khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao: Hiện tại các dự án do các
doanh nghiệp thực hiện tại các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên
địa bàn tỉnh được thực hiện theo chuỗi, quy mô tập trung, sản phẩm sản xuất ra
đảm bảo an toàn theo tiêu chuẩn VietGap và gắn kết với thị trường tiêu thụ nên
có hiệu quả kinh tế cao, kết quả đến nay có 6 cơ sở sản xuất các sản phẩm rau ăn
lá, quả, củ, dưa lưới, chuối tiêu hồng được cấp giấy chứng nhận VietGAP, có 20
cơ sở đủ điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm trong sản xuất và có 11 đơn vị
được sử dụng logo nhãn hiệu sản phẩm tập thể tỉnh Hà Nam.
Về sản phẩm truyền thống: Có 3 sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng là

chuối ngự Đại Hoàng, cá kho Nhân Hậu của xã Hòa Hậu và bánh đa nem làng
Chều xã Nguyên Lý, huyện Lý Nhân.
Việc phát triển chăn nuôi lợn xã Ngọc Lũ và các xã lân cận tiến tới xây
dựng thương hiệu lợn sạch Ngọc Lũ: Đàn lợn trên địa bàn xã Ngọc Lũ huyện
Bình Lục có thời điểm đạt trên 75.000 con. Hiệp hội sản xuất và kinh doanh lợn
sạch xã Ngọc Lũ đã được thành lập, trong thời gian tới tiếp tục xây dựng thương
hiệu để sản phẩm thịt lợn của Hiệp hội được dán tem nhãn để tiêu thụ trên thị
trường.
Việc phát triển gà móng Tiên Phong tiến tới xây dựng thương hiệu: Hiện
tại vùng gà móng Tiên Phong phát triển khá ổn định. Hiệp hội chăn nuôi gà
móng Tiên Phong đã được thành lập với 50 thành viên tham gia. Đàn gà móng
sinh sản hiện nay đạt trên10.000 con.
Công tác phát triển đàn dê tiến tới xây dựng thương hiệu dê núi Hà Nam:
Đàn dê trên địa bàn tỉnh hiện nay là 10.000 con, đạt 50% kế hoạch đến năm 2020.
Như vậy, đến nay tỉnh Hà Nam có 3 thương hiệu sản phẩm nông nghiệp
theo tiêu chuẩn VietGap (chuối ngự Đại Hoàng, cá kho Nhân Hậu và bánh đa
nem làng Chều) và dự kiến có thêm 2 thương hiệu gà móng Tiên Phong, lợn
sạch Ngọc Lũ vào năm 2020.
1.2. Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn
Tỉnh Hà Nam có nhiều làng nghề truyền thống, làng nghề tiểu thủ công
nghiệp (TTCN) với ngành nghề sản xuất đa dạng được chia làm 6 nhóm chính:
thủ công mỹ nghệ, dệt may, chế biến lương thực, thực phẩm, chế biến gỗ, hàng
sản xuất tre nứa dùng cho xây dựng, cơ khí. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh đã công
nhận 35 làng nghề truyền thống, 30 làng nghề tiểu thủ công nghiệp, 111 làng
có nghề tiểu thủ công nghiệp. Trong đó có nhiều làng nghề truyền thống nổi
tiếng như: làng nghề thêu ren An Hoà Hoà Ngãi, mây giang đan Ngọc Động,
dệt Nha Xá, dệt Hoà Hậu, sừng Đô Hai, dũa Đại Phu, trống Đọi Tam, gốm
Quyết Thành…

6



Để bảo tồn, phát triển và gìn giữ nghề truyền thống Tỉnh ủy, Ủy ban nhân
dân tỉnh Hà Nam đã ban hành nhiều các cơ chế chính sách khuyến khích, đến
nay Ủy ban nhân dân tỉnh đã công nhận 20 nghệ nhân và 173 thợ giỏi các nghề
thủ công mỹ nghệ như: Thêu ren, dệt, mộc, mây tre đan, trống, gốm, sừng…
Trong những năm qua, hoạt động khuyến công đã được triển khai, góp phần rất
lớn trong việc khuyến khích, hướng dẫn, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các tổ chức,
cá nhân tham gia phát triển sản xuất công nghiệp nông thôn, góp phần giải quyết
việc làm, tạo thu nhập cho người dân nông thôn. Nhiều ngành nghề truyền thống
đã từng bước thích nghi với sự phát triển của kinh tế thị trường, phát huy tiềm
năng, lợi thế của địa phương. Tổng kinh phí do ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho
hoạt động khuyến công là 20.657 triệu đồng, trong đó kinh phí khuyến công địa
phương là 9.829 triệu đồng, kinh phí khuyến công quốc gia là 10.828 triệu đồng
Thực hiện Thông tư số 26/2014/TT-BCT ngày 28/8/2014 của Bộ Công
Thương quy định về việc tổ chức bình chọn sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu
biểu, UBND tỉnh đã tổ chức bình chọn sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu
tỉnh Hà Nam trong năm 2014 và năm 2017. Kết quả 02 lần bình chọn, công nhận
31 sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh; được Hội đồng bình chọn
cấp khu vực bình chọn, công nhận 03 sản phẩm cấp khu vực; Hội đồng bình chọn
cấp quốc gia bình chọn, công nhận 01 sản phẩm cấp quốc gia.
2. Kết quả thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với
xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và đô thị hóa
2.1. Kết quả thực hiện
Sau khi triển khai thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn
mới, diện mạo nông thôn Hà Nam đã có nhiều khởi sắc, đời sống người dân khu
vực nông thôn không ngừng cải thiện, kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội được tập
trung đầu tư hướng đến đồng bộ hơn, đặc biệt là hệ thống giao thông nông thôn,
giao thông nội đồng và các công trình phục vụ phúc lợi công cộng. Đến hết năm
2017 toàn tỉnh có 78 xã đạt chuẩn nông thôn mới, số tiêu chí đạt chuẩn bình

quân là 17,02 tiêu chí/xã, thu nhập bình quân đầu người đạt 33,3 triệu
đồng/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 3,28%. Huyện Duy Tiên đã được công
nhận huyện đạt chuẩn NTM năm 2017 tại Quyết định số 509/QĐ-TTg ngày
10/5/2018; Hội đồng thẩm định Trung ương dự kiến thẩm định, trình công nhận
huyện Kim Bảng là huyện nông thôn mới vào đầu tháng 6/2018. Dự kiến hết năm
2018 có thêm huyện Thanh Liêm đạt chuẩn NTM, thành phố Phủ Lý hoàn thành
xây dựng nông thôn mới và có thêm từ 7 - 10 xã đạt chuẩn NTM, bình quân số
tiêu chí đạt chuẩn là 17,5 tiêu chí/xã; đến năm 2020 có 98 xã và 6 huyện, thành
phố đạt chuẩn NTM, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đề ra.
2.2. Về phát triển hạ tầng:
Về giao thông: Phong trào làm đường giao thông nông thôn được cán bộ
và nhân dân đồng tình hưởng ứng; nhiều gia đình tự nguyện hiến đất, chặt cây,
phá cổng, dỡ tường rào mở rộng mặt đường theo quy hoạch; góp công, góp của
làm nền đường và cống thoát nước. Sau khi Ủy ban nhân dân tỉnh có cơ chế hỗ
trợ xi măng người dân đã hăng hái tham gia góp công, góp tiền mua vật liệu
7


cát, đá làm đường thôn xóm, đường nội đồng; tỉnh đã hỗ trợ xi măng cho các
xã 318.000 tấn. Các địa phương đã tập trung triển khai cứng hóa 455 km đường
trục chính nội đồng, nâng tổng số đường trục chính nội đồng được cứng hóa trên
950 km/1.008 km; làm mới trên 60 km đường giao thông nông thôn, nâng tổng
số đường giao thông nông thôn lên gần 1.900 km. Đến nay, có 52/98 xã đạt tiêu
chí giao thông.
Về Trường học: Các xã đã tập trung huy động nguồn lực triển khai xây
mới và nâng cấp được 749 phòng học các cấp, nâng tổng số phòng học được xây
mới, nâng cấp đưa vào sử dụng hết năm 2017 là 2.759 phòng. Đến nay, có 68/98
xã đạt tiêu chí trường học.
Về Cơ sở vật chất văn hóa: Đến thời điểm hiện tại các địa phương đã
triển khai nâng cấp và xây mới đưa vào sử dụng 10 nhà văn hóa xã; 82 nhà văn

hóa thôn, xóm nâng tổng số hết năm 2017 là 42 nhà văn hóa xã; 567 nhà văn
hóa thôn, xóm. Đến nay, có 48/98 xã đạt tiêu chí về cơ sở vật chất văn hóa. Hệ
thống điện và hệ thống thông tin và truyền thông các xã đã đạt chuẩn theo tiêu
chí nông thôn mới, 98/98 xã đạt tiêu chí.
Cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn: Trên địa bàn tỉnh Hà Nam hiện nay
có 110 chợ, trong đó có 94 chợ nông thôn chiếm 85,45%. Trên địa bàn các xã
nông thôn đặc biệt các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới thì hầu hết các xã có các
cửa hàng kinh doanh tổng hợp, cửa hàng tự chọn với quy mô vừa và nhỏ nhằm
nâng cao chất lượng phục vụ và văn minh thương nghiệp để phục vụ tốt nhu cầu
ngày càng cao tại các khu dân cư. Theo quy hoạch mạng lưới chợ toàn quốc tỉnh
Hà Nam có quy hoạch chợ đầu mối rau, củ, quả tại phường Liêm Chính, thành
phố Phủ Lý, đến nay có 96/98 xã đạt tiêu chí.
Về Nhà ở dân cư: Chính quyền các cấp phối hợp với các sở, ngành vận
động nhân dân tích cực triển khai xóa nhà tạm, nhà không an toàn. Đến nay,
100% số xã đạt chuẩn về tiêu chí nhà ở dân cư.
2.3. Về môi trường nông thôn: Hiện nay các xã đã thành lập tổ thu gom
rác thải và hoạt động có hiệu quả trong công tác thu gom rác thải nông thôn. Tỷ
lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh đến năm 2017 đạt 93,5%. Có 86/98
xã đạt chuẩn tiêu chí môi trường.
2.4. Về thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn: Thu nhập
bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2017 đạt 33,3 triệu
đồng/người/năm, tăng 15,396 triệu đồng so với năm 2011. Đến nay, trên địa bàn
tỉnh có 94/98 xã đạt tiêu chí về thu nhập.
3. Về xóa đói giảm nghèo, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa xã hội
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn
3.1. Về xóa đói giảm nghèo:
Trong 10 năm qua, Tỉnh ủy, UBND tỉnh luôn xác định xây dựng và tổ
chức thực hiện các chính sách giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các chương trình mục
8



tiêu giảm nghèo đã được triển khai đồng bộ cùng với việc đầu tư phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh, Chương trình đã đạt được kết quả cao, huy động được nhiều
nguồn lực tập trung ưu tiên đầu tư nhiều hơn cho xã có tỷ lệ nghèo cao, cho hộ
nghèo và cận nghèo, đáp ứng được tình hình thực tế, giải quyết được nhu cầu
bức xúc của người nghèo. Vì vậy, mục tiêu của chương trình đã hoàn thành, đạt
và vượt so với kế hoạch đề ra. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 8,89% năm 2008, xuống
3,28% năm 2017 (theo chuẩn nghèo mới), dự kiến năm 2018 giảm còn 3,14%.
3.2 Về phát triển y tế
Trong những năm qua, các chỉ tiêu kế hoạch hàng năm về y tế của tỉnh
đều đạt và vượt, nhiều chỉ tiêu hoàn thành xuất sắc như: phòng chống dịch bệnh,
phòng chống các bệnh xã hội, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân
dân, xây dựng các trạm y tế xã phường, thị trấn đạt bộ Tiêu chí Quốc gia về y tế,
góp phần thực hiện “xây dựng làng văn hóa sức khỏe”, đảm bảo an sinh xã hội
trên địa bàn tỉnh. Tỉnh luôn chủ động tích cực, quyết liệt trong công tác phòng
chống dịch bệnh, do vậy trong 10 năm qua không có dịch lớn và tử vong do dịch
bệnh xảy ra. Khống chế thành công dịch tả năm 2010, dịch tay chân miệng và
rubella năm 2011 và dịch sởi năm 2014, 2017.
Công tác xã hội hoá y tế ngày một phát triển, các nguồn lực đầu tư cho y tế
đã ngày một tăng, trong đó việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng các bệnh viện,
trạm y tế đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần đảm bảo cơ sở vật chất,
nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân
trong tỉnh. Cơ sở vật chất, chất lượng dịch vụ y tế cho người dân nông thôn được
nâng lên, góp phần đảm bảo sức khỏe cộng đồng; công tác tuyên truyền, vận
động người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế được các địa phương triển
khai có hiệu quả. Đến nay, toàn tỉnh có 67/98 xã đạt chuẩn về tiêu chí y tế.
3.3 Về văn hóa xã hội nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân
cư nông thôn
Với mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của dân

cư nông thôn, việc thực hiện tiêu chí văn hóa đối với các xã xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2016 - 2020 phải có từ 70% số khu dân cư được công nhận Làng
văn hóa trở lên. Từ tỉnh đến cơ sở đã tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân
thực hiện tốt phong trào xây dựng gia đình văn hóa. Năm 2008, toàn tỉnh có
181.343 gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa, đạt 87,4%, đến năm 2017 toàn
tỉnh có 231.003 gia đình văn hóa đạt 88,38%. Trong 10 năm qua, từ kết quả đạt
danh hiệu văn hóa của các khu dân cư đã khẳng định hiệu quả từ phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã góp phần không nhỏ vào kết
quả chương trình xây dựng nông thôn mới và thực hiện Nghị quyết số 26NQ/TW. Năm 2008, có 792/1296 số khu dân cư đạt danh hiệu văn hóa, đạt
61,1%; đến năm 2017, toàn tỉnh có 1106/1234 số khu dân cư văn hóa đạt danh
hiệu văn hóa, đạt 89,62%. Các di tích lịch sử, văn hoá từng bước được đầu tư
trùng tu, tôn tạo từ nhiều nguồn vốn. Các hoạt động văn hoá thể thao quần
chúng, các lễ hội truyền thống được bảo tồn, phát triển và xây dựng các thiết chế
văn hóa ở nông thôn. Đến nay có 97/98 xã đạt tiêu chí về văn hóa.
9


4. Về đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có
hiệu quả ở nông thôn
Kinh tế tập thể có bước phát triển cả về loại hình hợp tác xã và tổ hợp tác.
Đến hết năm 2015 tỉnh Hà Nam đã cơ bản hoàn thành việc tổ chức lại hoạt động
của các HTX Nông nghiệp theo Luật HTX năm 2012. Kết quả từ 162 HTX
Nông nghiệp trước đây, sau Đại hội chuyển đổi còn 156 HTX giảm 6 HTX. Sau
chuyển đổi các HTXDVNN đã hoạt động có hiệu quả, thực hiện tốt các dịch vụ
thiết yếu trong sản xuất, tiêu thụ nông sản cho xã viên. Theo kết quả đánh giá
xếp loại HTX của các huyện năm 2017, số HTX tốt chiếm khoảng 33,97%,
HTX khá chiếm 48,72%, HTX trung bình, yếu chiếm 17,31%. Năm 2017 thành
lập 8 HTX kiểu mới, năm 2018, dự kiến thành lập từ 12 - 15 HTX trong lĩnh vực
nông nghiệp, tham gia liên kết theo chuỗi giá trị, trong đó mục tiêu mỗi huyện,
thành phố có ít nhất 1 HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong sản

xuất, chế biến nông sản. Việc thực hiện liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị đã tạo
sự ổn định đầu ra sản phẩm cho nông dân yên tâm sản xuất; hỗ trợ lẫn nhau về
nguồn lực và chia sẻ rủi ro trong quá trình sản xuất; tăng chất lượng và giá trị
sản phẩm; tạo động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển bền vững.
5. Về phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa
học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hóa nông
nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn
Trong những năm qua, tỉnh Hà Nam chú trọng đẩy mạnh chuyển giao và
ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp; quan tâm đào tạo,
thu hút nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hóa nông nghiệp, công nghiệp
hóa nông thôn; đổi mới cơ chế chính sách về khoa học công nghệ, tạo điều kiện
thuận lợi để huy động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân nghiên cứu, chuyển
giao khoa học công nghệ, tăng cường vai trò của doanh nghiệp trong chuyển
giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp. Kết quả, tỉnh đã
phê duyệt triển khai thực hiện trên 10 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh
về ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp của tỉnh, đề xuất
với Bộ Khoa học Công nghệ 13 dự án về ứng dụng khoa học và công nghệ trong
nông nghiệp, đến nay đã có 08 dự án được phê duyệt triển khai, một số dự án
đang triển khai và thu được kết quả bước đầu. Như vậy đến nay thông qua việc
triển khai các dự án khoa học và công nghệ, đã tiếp nhận chuyển giao 28 quy
trình kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi cho nông dân, doanh nghiệp trên địa bàn; tổ
chức đào tạo tập huấn cho hàng trăm lượt cán bộ quản lý, kỹ thuật viên cơ sở và
hàng nghìn lượt nông dân nhằm giải quyết các vấn đề về: nâng cao trình độ kỹ
thuật trong trồng trọt, chăn nuôi, sử dụng giống có năng suất, chất lượng và hiệu
quả kinh tế cao, nhằm tăng thu nhập trên một đơn vị canh tác tại địa phương;
phát triển một số sản phẩm lợi thế của địa phương.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 23 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong 10
năm qua các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã tổ chức tuyển sinh và đào tạo được
156.377 người, bình quân mỗi năm đào tạo nghề cho 15.637 người, nâng tỷ lệ

10


lao động qua đào tạo nghề của tỉnh đạt 29% năm 2009, tăng lên 51% đến hết
năm 2017. Toàn tỉnh đã giải quyết việc làm mới cho 157.747 lao động, bình
quân mỗi năm có 15.775 lao động được giải quyết việc làm mới, giải quyết việc
làm thêm cho 207.120 người, bình quân mỗi năm 20.172 người, vượt chỉ tiêu kế
hoạch của tỉnh đề ra. Ngày 20/5/2011 UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số
584/QĐ-UBND phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Hà
Nam đến năm 2020”. Kết quả triển khai thực hiện như sau: Đến nay, đã tổ chức
đào tạo được 19.516 lao động nông thôn bằng nguồn kinh phí hỗ trợ. Sau khi học
nghề cơ bản lao động nông thôn đều nắm được kiến thức và kỹ năng thực hành
của nghề đào tạo và có khả năng làm việc trong các doanh nghiệp hoặc tự tạo
việc làm, tỷ lệ lao động có việc làm sau học nghề chiếm 80-85%.
6. Về đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn
lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nông dân
UBND tỉnh đã ban hành các cơ chế, chính sách để khuyến khích xây dựng
nông thôn, thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh. Cơ chế,
chính sách có sự thay đổi, cải cách mạnh mẽ so với giai đoạn trước đó, xác định
đúng đối tượng cần hỗ trợ và áp dụng hình thức hỗ trợ sau đầu tư để đảm bảo cơ
chế đạt được kết quả, dễ kiểm soát và giảm thiểu các rủi ro. Tích cực phối hợp,
tranh thủ tối đa các nguồn lực hỗ trợ từ Trung ương và nghiên cứu, xây dựng các
cơ chế thu hút, huy động các nguồn lực cho đầu tư xây dựng các công trình hạ
tầng ở các địa phương, đặc biệt là các nguồn lực từ tư nhân, tích cực tham mưu
xây dựng các cơ chế khuyến khích, huy động đóng góp từ người dân, doanh
nghiệp cho đầu tư hạ tầng kỹ thuật nông thôn, góp phần thực hiện xây dựng
nông thôn mới. Tổng nguồn vốn huy động đầu tư cho nông nghiệp, nông dân,
nông thôn giai đoạn 2010 - 2018 khoảng 6.872 tỷ đồng.
7. Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát

huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn
Mười năm qua, Ban Chấp hành đảng bộ tỉnh đã ban hành các Nghị quyết
về việc tiếp tục nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể; cấp ủy, chính quyền các huyện, xã đã ban hành
quy chế làm việc và hoạt động theo quy chế, qua đó hệ thống chính trị ở nông
thôn thường xuyên được củng cố, kiện toàn về tổ chức bộ máy, đổi mới nội
dung, hình thức sinh hoạt, chất lượng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Thực hiện sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, các cấp ủy
đảng, chính quyền địa phương trên địa bàn tỉnh Hà Nam đã xác định công tác triển
khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, nhất là nội dung xây dựng nông thôn mới phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo
trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy đảng; từ đó phát huy tinh thần đoàn kết, phát huy
sức mạnh của hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ về sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước qua đó đổi mới nội dung và phương thức hoạt
11


động của Đảng bộ, Chi bộ cơ sở để thực sự là hạt nhân lãnh đạo toàn diện trên địa
bàn nông thôn, nhất là trong lĩnh vực xây dựng nông thôn mới.
Công tác đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn luôn được quan tâm và phát huy vai
trò, hiệu quả; từng bước thúc đẩy phát triển kinh tế ở các địa phương. 10 năm
qua, các tổ chức đoàn thể tại các địa phương đều hoàn thành tốt các nhiệm vụ
được giao, góp phần tích cực vào thực hiện thắng lợi các nghị quyết, kế hoạch
của trung ương và của tỉnh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đặc biệt là công
tác xây dựng nông thôn mới.
Công tác cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh được chú trọng, các địa
phương trên địa bàn nông thôn từng bước đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm
thu hút vốn đầu tư, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, đồng thời tạo điều kiện

thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân đến làm việc. Công tác nâng cao trình độ cho
đội ngũ cán bộ công chức được các cấp ủy đảng, chính quyền tại các địa phương
quan tâm đúng mức nhằm thúc đẩy bộ máy làm việc ngày một hiệu quả hơn, đáp
ứng được yêu cầu ngày càng cao của công việc.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG

1. Những thành tựu cơ bản
Trong những năm qua, nông nghiệp nông thôn tiếp tục được tỉnh quan
tâm, đầu tư nên đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tổng giá trị sản xuất
nông nghiệp (theo giá so sánh 2010) năm 2008 đạt 5.566,367 tỷ đồng, tăng lên
7.644,4 tỷ đồng năm 2017. Tốc độ tăng trưởng bình quân ngành nông nghiệp
giai đoạn 2011 - 2015 đạt 1,82%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 phấn đấu đạt
4%/năm. Cơ cấu kinh tế của tỉnh đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp - xây dựng, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, cụ thể cơ cấu nông, lâm
nghiệp, thủy sản năm 2008 là 26%, giảm xuống còn 10,6% năm 2017. Tỉnh đã
ban hành nhiều cơ chế chính sách để phát triển nông nghiệp, nông thôn thông
qua việc ban hành các chương trình, đề án, tạo điều kiện cho người dân trực tiếp
tham gia các chương trình, đề án, từ đó nhân rộng các mô hình hiệu quả, từng
bước góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, giảm tỷ lệ hộ nghèo, giảm tỷ lệ lao
động nông nghiệp trên tổng lao động xã hội. Kết quả thu được tích cực, khả
quan, thu nhập bình quân của người dân nông thôn ngày một cải thiện từ 17,904
triệu đồng/người/năm (năm 2011), tăng lên 33,3 triệu đồng/người/năm (năm
2017), đời sống người dân ngày càng tăng cả về vật chất và tinh thần. Tỷ lệ hộ
nghèo giảm từ 8,89% năm 2008, xuống còn 3,28% năm 2017. Bên cạnh đó, tỷ lệ
hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh tăng từ 70,91% năm
2010 lên 93,5% năm 2017; tỷ lệ cơ giới hóa trong sản xuất ngày một tăng.
Lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được tỉnh quan tâm đầu
tư, thu hút được doanh nghiệp lớn đầu tư sản xuất, đến nay đã có sản phẩm đưa
ra thị trường, từng bước hình thành vùng lõi lan tỏa, góp phần tạo việc làm cho
lao động nông thôn, tăng thu nhập cho người dân, giúp cho cán bộ, đảng viên và

người dân có thêm cách nhìn, tư duy mới về sản xuất nông nghiệp trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
12


Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai mạnh mẽ, đồng bộ;
diện mạo nông thôn có nhiều khởi sắc; đời sống vật chất, tinh thần của người
dân nông thôn được cải thiện, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày
một thu hẹp; hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được đầu tư nâng cấp, từng bước
phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao. Kết quả đến hết năm 2017 toàn tỉnh có huyện Duy Tiên và 78/98 xã
đạt chuẩn nông thôn mới, UBND tỉnh đã hoàn thiện hồ sơ trình Bộ Nông nghiệp
& PTNT thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ xét công nhận huyện Kim Bảng
đạt chuẩn nông thôn mới năm 2017, dự kiến đến năm 2020 có 98 xã và 6 huyện,
thành phố đạt chuẩn nông thôn mới, vượt Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX
đề ra.
2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Trong những năm qua, khí hậu thời tiết cực đoan, dịch bệnh trên đàn gia
súc, gia cầm luôn có chiều hướng phát sinh; bên cạnh đó, đầu ra cho một số sản
phẩm hàng hóa chưa nhiều, số lượng doanh nghiệp ký kết hợp đồng bao tiêu sản
phẩm ít so với thực tế sản xuất đã ảnh hưởng lớn đến việc phát triển sản xuất
nông nghiệp.
Công tác phát triển sản xuất nông nghiệp trong những năm qua gặp rất
nhiều khó khăn do diện tích đất phục vụ sản xuất nông nghiệp có xu hướng
giảm, năng suất cây trồng đã đạt đỉnh, giá nông sản nhiều thời điểm chưa ổn
định. Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp chưa được đầu tư tương xứng.
Mặc dù đã tiến hành xong việc dồn đổi ruộng đất, một số địa phương đã hình
thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, tuy nhiên phần lớn diện tích
đất sản xuất nông nghiệp của các hộ vẫn ở quy mô nhỏ, vì vậy việc đưa cơ giới
hóa vào sản xuất không thuận lợi, nhất là các loại máy có công suất lớn.

Kết quả phát triển tổng đàn như đàn lợn, bò sinh sản, bò thịt chất lượng
cao tại các địa phương còn chậm.Tiến độ thực hiện đề án phát triển chăn nuôi bò
sữa chưa đạt so với mục tiêu và chỉ tiêu hàng năm cả về tổng đàn và sản lượng
sữa. Việc xây dựng hạ tầng các khu quy hoạch chăn nuôi bò sữa chậm. Quy
hoạch đất trồng cỏ chưa được các địa phương quan tâm tương xứng.
Chính sách pháp luật Đất đai hiện hành còn có những nội dung chưa phù
hợp với thực tế, gây khó khăn cho việc tích tụ ruộng đất, tạo quỹ đất đủ lớn,
phục vụ cho việc phát triển nông nghiệp quy mô, tập trung,công nghệ cao.Công
tác thu hút đầu tư đã được đẩy mạnh, có nhiều doanh nghiệp đến nghiên cứu,
khảo sát môi trường đầu tư tuy nhiên còn có ít doanh nghiệp đề xuất chủ trương
lập dự án đầu tư về lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Việc triển
khai các mô hình tích tụ ruộng đất để sản xuất nông sản sạch làm vệ tinh liên kết
sản xuất, tiêu thụ chậm so với yêu cầu, các HTX sản xuất nông sản sạch chưa
thực sự đổi mới phương pháp quản lý, tổ chức sản xuất để sản xuất ra các sản
phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường.
Việc ứng dụng các tiến bộ, công nghệ mới vào sản xuất nuôi trồng thủy
sản trên địa bàn tỉnh còn ít; chưa có ứng dụng công nghệ cao trong nuôi trồng
13


thủy sản; chưa có liên kết chuỗi chặt chẽ, đặc biệt yếu ở khâu chế biến, tiêu thụ
sản phẩm.
Năng lực nội tại của nhiều HTXNN còn yếu, năng lực cạnh tranh thấp;
vốn, cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện còn thiếu và lạc hậu; các HTX rất khó
khăn trong việc huy động thêm vốn góp của các thành viên; trình độ, năng lực
đội ngũ cán bộ HTXNN còn hạn chế.
Cơ chế hỗ trợ thực hiện cơ giới hóa của tỉnh còn thấp so với thực tế, phần hỗ
trợ của tỉnh cho các tổ chức cá nhân mua máy làm đất, gặt đập liên hợp chỉ bằng
25% giá trị máy; diện tích đất sản xuất nông nghiệp của hộ vẫn là quy mô nhỏ.
* Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại, yếu kém

a) Nguyên nhân khách quan:
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết. Đặc biệt là
tháng 10 năm 2017 do ảnh hưởng của mưa lũ lịch sử đã làm cho sản xuất nông
nghiệp thiệt hại 539,7 tỷ đồng, dẫn đến giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy
sản năm 2017 giảm mạnh, giảm 3,05% so với năm 2016, ảnh hưởng lớn đến tốc
độ tăng trưởng ngành nông nghiệp bình quân giai đoạn 2016-2020.
Các khu nông nghiệp ứng dụng dụng công nghệ cao của tỉnh quy hoạch
phần lớn trên diện tích đất 2 vụ lúa nên cốt đất thấp, hệ thống tưới tiêu chưa phù
hợp với trồng rau củ quả (khu Đồng Du, An Mỹ, hiện nay chưa có doanh nghiệp
vào đầu tư nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao).
Cơ chế chính sách của tỉnh có nhiều ưu đãi nhưng thủ tục hành chính theo
quy định còn nhiều bất cập, cơ chế về tích tụ ruộng đất của tỉch còn một số nội
dung chưa phù hợp theo quy định của pháp luật.
Ruộng đất manh mún nhỏ lẻ, hạ tầng chưa đồng bộ nên việc áp dụng tiến
bộ KHKT, cơ giới hóa còn hạn chế. Hệ thống công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh
ngày một xuống cấp, khả năng phục vụ tưới, tiêu giảm. Kinh phí để đầu tư nâng
cấp, tu bổ các công trình trọng điểm còn thiếu. Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp
với vốn đầu tư ban đầu lớn, lợi nhuận sinh ra trong quá trình sản xuất thấp và rủi
ro cao do ảnh hưởng trực tiếp của thiên tai nên các nhà đầu tư vào nông nghiệp,
đặc biệt là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn băn khoăn do dự.
Việc thúc đẩy chăn nuôi, đặc biệt là những con nuôi chủ lực như đàn lợn,
đàn bò sinh sản, bò thịt chất lượng cao gặp rất nhiều khó khăn do giá thịt lợn hơi
xuất chuồng xuống thấp đến mức kỷ lục trong một thời gian dài, đến nay mặc dù
đã tăng nhưng thu nhập từ chăn nuôi lợn rất thấp. Giá bò hơi giảm so với năm
2016 từ 20.000-30.000 đồng/kg đã ảnh hưởng lớn tới việc thực hiện đề án phát
triển chăn nuôi bò thịt, bò sinh sản chất lượng cao trên địa bàn tỉnh.
b) Nguyên nhân chủ quan:
Công tác chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền một số địa phương chưa cương
quyết về lịch gieo cấy, đặc biệt thời vụ gieo cấy lúa Mùa trà sớm và gieo thẳng
không đạt theo yêu cầu, có nơi quá muộn so với lịch chỉ đạo 10 - 15 ngày.

14


Đối với sản xuất vụ Đông: một số địa phương chỉ đạo không kiên quyết
ngay từ đầu vụ như bố trí thời vụ, ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm nên không
mở rộng được diện tích.
Việc phát triển chăn nuôi bò sữa chậm do khó khăn trong việc việc lựa
chọn hộ chăn nuôi (nhà đầu tư); khó khăn về giống bò sữa do trên địa bàn không
có đơn vị cung ứng giống. Một số địa phương không quyết liệt trong chỉ đạo nên
việc quy hoạch đất trồng cỏ không đạt yêu cầu, mới đạt 6,5% Nghị quyết số 05,
dẫn đến nguồn thức ăn cỏ cho bò còn thiếu;
Nguồn lực đầu tư cho phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS) còn hạn chế,
cơ sở hạ tầng phục vụ NTTS chưa đảm bảo yêu cầu; diện tích NTTS còn manh
mún, nhỏ lẻ; ý thức của một bộ phận người NTTS còn hạn chế, còn tư tưởng
trông chờ vào hỗ trợ của nhà nước, chưa tích cực đầu tư, ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất; chưa có ứng dụng công nghệ cao, liên kết chuỗi chặt chẽ
trong NTTS;
Việc tích tụ ruộng đất tại các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
còn chậm. Khu Liêm Tiết sau khi cho thuê đất phải thu hồi do danh nghiệp
không có khả năng đầu tư sản xuất. Mặc dù một số khu nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao đã được doanh nghiệp đầu tư sản xuất, tuy nhiên mới đảm nhận
chức năng chính là sản xuất ra các sản phẩm rau, củ quả sạch, khảo nghiệm trình
diễn một số giống mới, chưa tạo ra sự lan tỏa mạnh mẽ, khuyến khích, hấp dẫn
đối với người người nông dân trong việc thay đổi tập quán sản xuất mang lại
hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh đó, mặc dù giá trị sản xuất trên ha canh tác cao
(ước đạt từ 1.200 - 3.000 triệu đồng/ha/năm, tuy nhiên diện tích thực tế sản xuất
tại khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao hiện tại trên 200 ha, chiếm tỷ lệ
thấp so với tổng diện tích đất giành sản xuất nông nghiệp (năm 2017 khoảng
40.000 ha). Vì vậy chưa góp phần thúc đẩy tăng mạnh giá trị sản xuất ngành trồng
trọt trên tổng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản.

Năng lực nội tại của nhiều HTXNN còn yếu, khả năng cạnh tranh kém;
vốn, cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện còn thiếu và lạc hậu; các HTX rất khó
khăn trong việc huy động thêm vốn góp của các thành viên. Trình độ, năng lực
của một số cán bộ HTXNN còn hạn chế.
3. Bài học kinh nghiệm
Phải thực sự phát huy vai trò chủ thể của người dân, chú trọng công tác
tuyên truyền, vận động để làm thay đổi nhận thức của cán bộ và nhân dân; cần
làm rõ được quan điểm “dựa vào nội lực là chính, nhà nước đóng vai trò định
hướng, hỗ trợ”, từ đó xóa dần tư tưởng trông chờ, ỷ lại, thụ động trong triển khai
thực hiện. Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền phù hợp theo từng thời kỳ,
đồng thời nâng cao chất lượng thông tin tuyên truyền về những kinh nghiệm
hay, điển hình tốt trong xây dựng nông thôn mới để nhân rộng.
Huy động được cả hệ thống chính trị vào cuộc để toàn dân, toàn xã hội
tham gia xây dựng nông thôn mới và quan trọng nhất là người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền. Có cơ chế, chính sách kích cầu, khơi dậy nguồn lực tại chỗ của
15


nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, đồng thời biết phát huy tối đa quy chế
dân chủ cơ sở, công khai, minh bạch các nguồn đầu tư. Đặc biệt quan tâm hỗ trợ
phát triển sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên kết với doanh nghiệp,
gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
Phải có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên sâu sát, quyết liệt của
các cấp ủy, chính quyền, sự tham gia tích cực và phối hợp chặt chẽ của các Ban,
ngành đoàn thể. Trong đó người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đoàn thể có vai
trò quan trọng, đồng thời có cơ chế, chính sách hỗ trợ cụ thể, rõ ràng, hướng dẫn
chi tiết, dễ hiểu, dễ làm là yếu tố quyết định sự thành công.
Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc nhắc nhở đến
tận cơ sở, thôn, xóm để phát hiện những khó khăn, vướng mắc, đề xuất giải pháp
tháo gỡ kịp thời.

Trong quá trình triển khai cần thực hiện lồng ghép có hiệu quả và đồng bộ
các chương trình, dự án kết hợp giữa phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của người dân với quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng,
phát triển văn hóa xã hội và môi trường theo quy hoạch và đề án xây dựng nông
thôn mới. Việc huy động đóng góp của người dân phải được thực hiện trên cơ sở
tự nguyện, bàn bạc dân chủ, chỉ đạo lựa chọn những nội dung công việc phù hợp
với điều kiện và khả năng của nhân dân từng xã để làm trước, làm điểm tạo tiền
đề thuận lợi cho các bước tiếp theo.
Phần thứ ba
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
VỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN, NÔNG THÔN GIAN ĐOẠN TỚI
I. DỰ BÁO TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC VÀ KHU VỰC GIAN
ĐOẠN TỚI

Triển vọng nền kinh tế trong nước và thế giới tiếp tục phát triển. Việc hội
nhập khu vực và quốc tế ngày càng sâu, rộng. Có nhiều tiến bộ khoa học kỹ
thuật trong sản xuất nông nghiệp đã và đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới
và trong nước. Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn, nhất là Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới, tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông
thôn phát triển. Nông dân là lực lượng đông đảo, người nông dân ngày càng
được nâng cao về trình độ, ý thức, vai trò chủ động sáng tạo trong sản xuất.
Trong thời gian tới, Hà Nam sẽ có nguồn thu ngân sách khá từ các khu
công nghiệp, nên nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn sẽ
tăng lên. Những kết quả quan trọng đạt được trong thời gian qua là cơ sở, tiền đề
quan trọng cho sự phát triển nông nghiệp của tỉnh trong thời gian tới.
II. QUAN ĐIỂM

Xây dựng nông nghiệp, nông dân, nông thôn của tỉnh phát triển toàn diện
theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng,

hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực
16


quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, gắn
nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã
hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi
trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của
Đảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công
nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị
vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Công nghiệp hóa nông nghiệp nhằm thay đổi tập quán sản xuất nông
nghiệp từ phương thức truyền thống sang sản xuất nông nghiệp ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, công nghệ cao để tạo ra khối lượng nông sản hàng hóa chất
lượng cao, quy mô lớn, có giá trị gia tăng cao, khả năng cạnh tranh lớn, cung
cấp cho thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu. Công nghiệp hóa nông
nghiệp phải gắn với chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu lao động trong nông nghiệp,
nông thôn sang lĩnh vực công nghiệp dịch vụ, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh.
III. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu tổng quát
Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 4%/năm, đảm bảo vững chắc
an ninh lương thực. Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và
kinh tế nông thôn, xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá có nhiều sản phẩm đạt
chất lượng cao. Phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp toàn diện, bền vững, có cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện đại, tiên tiến. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng ở nông thôn. Kết hợp phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và

ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư
nông thôn gấp 2,5 lần so với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn dưới 30%.
Tạo chuyển biến căn bản về quy mô, năng suất, chất lượng, hiệu quả và
khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp có tiềm năng, lợi thế, có thị
trường tiêu thụ. Phấn đấu đến năm 2035, cơ bản hình thành được nền nông
nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, công nghệ cao; xây dựng được một số thương
hiệu của các sản phẩm có lợi thế, có thị trường tiêu thụ; xây dựng con người Hà
Nam văn hóa, sản xuất nông sản, thực phẩm sạch vì sức khỏe cộng đồng. Nâng
cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân nông thôn, giảm tỷ lệ hộ nghèo
bình quân 1,3%/năm.
2. Mục tiêu cụ thể
a) Giai đoạn 2016 - 2025:
Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp bình quân giai đoạn 2016 - 2025
đạt trên 4%. Cơ cấu kinh tế nội bộ ngành năm 2020: trồng trọt - lâm nghiệp
39%; chăn nuôi - thủy sản 54%; dịch vụ 7%; Năm 2025: trồng trọt - lâm nghiệp
30%; chăn nuôi - thủy sản 60%; dịch vụ 10%.
17


Đến năm 2020, có từ 3 huyện và 65 xã trở lên đạt chuẩn nông thôn mới.
Cơ giới hóa trong sản xuất năm 2020: làm đất đạt 100%, thu hoạch 50%; gieo
trồng 60%, bảo quản chế biến 20%; Năm 2025: thu hoạch 80%, gieo trồng 80%;
bảo quản chế biến 50%.
Đến năm 2020, tỷ lệ hộ dân nông thôn được dùng nước sạch, nước hợp vệ
sinh đạt 95% (trong đó sử dụng nước sạch đạt 80%). Tỷ lệ lao động nông
nghiệp/tổng lao động xã hội còn dưới 30%, tỷ lệ thu gom rác thải nông thôn đạt
95% (70-80% được xử lý).
Giá trị sản xuất/ha canh tác đến năm 2020: 250 triệu đồng/ha/năm, trong
khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao 1.500 triệu đồng/ha/năm; Năm 2025:
350 triệu đồng/ha/năm, trong khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao 2.500

triệu đồng/ha/năm.
Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2020: 52 triệu
đồng/người/năm; Năm 2025: 100 triệu đồng/người/năm.
b) Giai đoạn 2025 - 2035:
Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp bình quân giai đoạn 2026 - 2035
đạt trên 4,5%; Cơ cấu kinh tế nội bộ ngành đến năm 2035: trồng trọt - lâm
nghiệp còn khoảng 25%; chăn nuôi, thủy sản, dịch vụ đạt khoảng 75%.
Cơ giới hóa trong sản xuất đến năm 2035: hầu hết các khâu trong sản xuất
đều áp dụng cơ giới hóa. Giá trị sản xuất/ha canh tác đến năm 2035 đạt khoảng
500 triệu đồng/ha/năm.
Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2035 tăng ít nhất
2,5 lần so với năm 2025.
IV. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

1. Nhận thức về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Tiếp tục quán triệt đầy đủ, sâu sắc những nội dung cơ bản Nghị quyết 26NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, Chương trình hành động số 45CTr/TU về việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung
ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Nghị quyết số 03-NQ/TU,
Nghị quyết 05-NQ/TU của Tỉnh ủy Hà Nam; nâng cao nhận thức cho toàn Đảng,
toàn dân về các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của các Nghị quyết.
Đồng thời, rà soát chương trình hành động, kế hoạch thực hiện, bổ sung, điều
chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết
và Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới phù hợp với yêu
cầu nhiệm vụ trong thời gian tới. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, làm rõ hơn
từng vấn đề của Nghị quyết, nâng cao ý thức, nhận thức cho đảng viên, cán bộ
và nhân dân về tầm quan trọng các Nghị quyết và Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới; tuyên truyền, vận động sâu rộng về vai trò, nhiệm
vụ của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn phát triển mới. Đổi
mới hình thức tuyên truyền, tăng cường phổ biến những cách làm hay, mô hình
tốt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới; đẩy
18



mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh”, “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch”.
2. Đẩy mạnh tái cơ cấu, phát triển nông nghiệp toàn diện, theo hướng
hiện đại
Thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng và phát triển bền vững với các nội dung chủ yếu:
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tăng nhanh ứng dụng khoa học
kỹ thuật, xây dựng mô hình sản xuất theo chuỗi (sản xuất - bảo quản, chế biến tiêu thụ) để nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, ổn định khoảng
30.000 ha đất lúa, sản lượng lương thực có hạt đạt 410.000 tấn/năm. Giai đoạn
từ 2025 đến 2035, tiếp tục tích tụ ruộng đất, giao cho doanh nghiệp thuê lại để
xây dựng phát triển mới các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và nhân
rộng các mô hình HTX kiểu mới, liên kết hộ gia đình hình thành các vùng sản
xuất có quy mô diện tích lớn để sản xuất theo chuỗi.
Duy trì và phát triển chăn nuôi hộ gia đình gắn với giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, từng bước có cơ chế thúc đẩy chăn nuôi hộ gia đình chuyển sang
chăn nuôi bán công nghiệp, công nghiệp, tập trung phát triển chăn nuôi bò sữa
tại các huyện Duy Tiên, Lý Nhân, Kim Bảng, Thanh Liêm. Phấn đấu giá trị sản
phẩm chăn nuôi thủy sản đạt 54-60% giá trị sản xuất nông nghiệp. Phấn đấu đến
năm 2025 đưa tỷ trọng chăn nuôi bán công nghiệp, công nghiệp chiếm trên 50%
tổng giá trị sản xuất. Khuyến khích tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư sản
xuất cây, con giống với thu mua, chế biến thực phẩm sạch. Duy trì chợ đầu mối
và nâng cấp thương hiệu lợn sạch tại Bối Cầu huyện Bình Lục, xây dựng thêm
chợ đầu mối lợn sạch tại huyện Lý Nhân.
Từng bước đầu tư củng cố, nâng cấp hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản
xuất để thu hút các doanh nghiệp đầu tư nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Tăng nhanh tỷ lệ cơ giới hóa trong các khâu của sản xuất nông nghiệp gắn với
đẩy mạnh chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp - dịch vụ.
Đẩy mạnh việc xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, xây dựng thương hiệu

sản phẩm nông nghiệp sạch Hà Nam; phấn đấu đến năm 2020 có ít nhất 5 thương
hiệu, năm 2025 có ít nhất 10 thương hiệu, năm 2035 có ít nhất 15 thương hiệu.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các cơ chế chính sách về phát triển nông
nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới phù hợp với chủ trương tái cơ cấu
ngành nông nghiệp của tỉnh.
3. Phát triển các ngành công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ, chuyển
dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông thôn
Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả của các hình thức tổ chức sản xuất;
rà soát, đánh giá tình hình hoạt động của các hợp tác xã, tiếp tục tuyên truyền và
thực hiện chính sách hỗ trợ, khuyến khích thành lập mới hợp tác xã kiểu mới, tổ
hợp tác trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản.
19


Đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ ở nông
thôn; có chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực nông nghiệp nhất là chế biến nông lâm thủy sản và liên kết với nông
dân trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
Khuyến khích phát triển và tăng cường mối liên kết chặt chẽ giữa các
doanh nghiệp, hợp tác xã, hiệp hội ngành nghề, ngân hàng trong sản xuất, tiêu
thụ hàng hóa nông sản, các hình thức hoạt động tín dụng trong nông thôn.
4. Xây dựng nông thôn mới gắn với đô thị hóa, xây dựng nông thôn
mới văn minh, hiện đại
Thực hiện công tác quy hoạch nông thôn mới gắn với quy hoạch phát
triển hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường; quy hoạch sử dụng đất, phát triển các
khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có trên địa bàn xã theo
hướng hiện đại, khắc phục tình trạng cấp, bán đất bám theo trục đường giao
thông mà không đầu tư hạ tầng. Phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, cần tập trung
ưu tiên đầu tư các công trình phục vụ cho sản xuất và đời sống dân sinh như:
Kiên cố hóa kênh mương nội đồng; xây dựng các công trình điện, nước sạch, hệ

thống cấp thoát nước, các điểm thu gom, xử lý rác thải và đường giao thông
trong thôn, xóm.
5. Đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội nông thôn
Thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo; góp phần
quan trọng thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, cải
thiện đời sống, tăng thu nhập của người dân, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ
nghèo tiếp cận tốt nhất các dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, nhà ở, nước
sinh hoạt và vệ sinh, tiếp cận thông tin), góp phần hoàn thành mục tiêu giảm tỷ
lệ hộ nghèo đến năm 2020, và những năm tiếp theo.
Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người nghèo; thực
hiện cung cấp, chi trả các dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề, vay vốn... đơn giản,
dễ dàng, thuận tiện, đảm bảo kịp thời, chính xác và đầy đủ quyền lợi để người
nghèo tiếp cận các dịch vụ sản xuất, dịch vụ xã hội cơ bản; tăng cường nâng cao
chất lượng các dịch vụ và bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ thiết thực
liên quan đến đời sống người dân.
Tăng cường sự tham gia của người dân vào các hoạt động của công tác
giảm nghèo; lấy phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh công
tác giảm nghèo là nhiệm vụ trung tâm. Phát huy quyền làm chủ và khả năng sáng
tạo của nhân dân tham gia thực hiện giảm nghèo, từ việc xác định đối tượng thụ
hưởng chính sách đến việc lập kế hoạch, triển khai thực hiện ở xã, thôn, tổ dân
phố; quản lý nguồn vốn; giám sát và đánh giá. Thông tin đầy đủ tới người dân các
chủ trương, chính sách của Nhà nước về giảm nghèo; tổ chức cho nhân dân tham
gia các hoạt động, bảo đảm tính công khai, dân chủ và minh bạch. Động viên
người dân phát huy nội lực, tự lực vươn lên làm giàu chính đáng.
Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa các hoạt động về giảm nghèo bằng các
nguồn lực khác có thể huy động được trên địa bàn qua phong trào “Ngày vì
20


người nghèo”. Thực hiện hiệu quả việc huy động nguồn lực tại chỗ. Lồng ghép

các Chương trình phát triển kinh tế xã hội, giảm nghèo. Khuyến khích các hoạt
động tự nguyện, nhân đạo vì người nghèo. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện phong
trào xã, phường, thị trấn làm tốt công tác chăm sóc, giúp đỡ hỗ trợ các gia đình
có hoàn cảnh khó khăn để góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững và
chống tái nghèo.
6. Bảo vệ tài nguyên, môi trường, nâng cao khả năng thích ứng với
biến đổi khí hậu phòng chống thiên tai
Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày
31/8/2016 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi
trường, Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 18/3/2013 của Chính phủ về một số vấn đề
cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đến các cấp, các ngành, địa phương
và toàn thể nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đáp ứng yêu
cầu trong tình hình mới: Tiếp tục kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về môi
trường từ tỉnh đến cơ sở; tăng cường nhân lực tương xứng với nhiệm vụ được
giao trong lĩnh vực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở cấp huyện và cấp
xã, đảm bảo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn đáp ứng được nhu cầu thực
tiễn. Tiếp tục đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định
pháp luật về bảo vệ môi trường tại các khu công nghiệp, làng nghề và các cơ sở
sản xuất kinh doanh dịch vụ trên địa bàn tỉnh; đặc biệt chú trọng tới các cơ sở có
nguy cơ ô nhiễm môi trường, cơ sở phát sinh nhiều chất thải. Đồng thời xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Triển khai xây
dựng, lắp đặt hệ thống cơ sở hạ tầng tiếp nhận dữ liệu quan trắc tự động nước
thải, khí thải của cơ sở có nguồn thải lớn. Trang bị các thiết bị đo nhanh các
thông số môi trường các huyện, thành phố nhằm phát hiện các nguồn gây ô
nhiễm môi trường tại cơ sở.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ môi trường trong Đề án tổng thể
giảm thiểu ô nhiễm môi trường khu vực phía Tây sông Đáy địa bàn các huyện
Thanh Liêm, Kim Bảng đã được tỉnh phê duyệt.Tăng cường công tác bảo vệ và
xử lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, quy hoạch phát triển các làng nghề,

các cụm làng nghề đảm bảo các yêu cầu bảo vệ môi trường. Triển khai có hiệu
quả, đúng tiến độ, điều tra, lập phương án xử lý ô nhiễm môi trường đối với một
số khu vực ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Xây dựng và triển khai Quy
hoạch tài nguyên nước tỉnh Hà Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
Triển khai các giải pháp trong Đề án tổng thể bảo vệ môi trường lưu vực sông
Nhuệ - sông Đáy trên địa bàn tỉnh.
Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, phát triển các dịch vụ
thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác bảo vệ môi
trường với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Huy động tối đa các nguồn
lực đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường từ các doanh nghiệp, xã hội hóa để
huy động các nguồn lực địa phương, tích cực tranh thủ nguồn lực Trung ương và
các tổ chức quốc tế.
21


7. Đổi mới cơ chế chính sách và tổ chức sản xuất ở nông thôn thúc
đẩy phát triển nông thôn gắn với xây dựng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Ban hành cơ chế chính sách hỗ trợ cho các hộ dân tham gia tích tụ ruộng
đất liên kết sản xuất nông nghiệp sạch làm vệ tinh, liên kết với các doanh nghiệp
nông nghiệp công nghệ cao theo hướng hỗ trợ sau đầu tư để người dân dễ tiếp
cận được nguồn kinh phí. Hỗ trợ hạ tầng nông nghiệp, nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao.
Ban hành cơ chế về việc xây dựng thí điểm mô hình thôn (xóm) NTM
kiểu mẫu để nâng cao chất lượng tiêu chí trong xây dựng NTM, gắn xây dựng
NTM ở cộng đồng và mỗi hộ gia đình gắn với xây dựng khu dân cư, gia đình
văn hóa.
Phê duyệt, bố trí nguồn kinh phí kịp thời để thực hiện các Chương trình,
Đề án như: Đề án Chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất cốt cao tỉnh Hà Nam giai
đoạn 2017-2020; Dự án xây dựng trang trại bò sữa của Công ty TNHH MTV Bò

sữa Việt Nam tại xã Thanh Nguyên huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam; Đề án
Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm
2030 tỉnh Hà Nam; mô hình nuôi cá công nghệ cao "sông trong ao"...
8. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất
Chỉ đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất nông
nghiệp một cách toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá, sản xuất nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao; phát triển chăn nuôi lợn, bò sữa, bò sinh sản, bò thịt
chất lượng cao, nuôi trồng thủy sản theo hướng tập trung, đầu tư thâm canh nâng
cao năng suất. Phát triển mạnh kinh tế hộ, kinh tế trang trại theo hướng mỗi làng
mỗi nghề, mỗi xã một sản phẩm. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác
xã dịch vụ nông nghiệp, từng bước phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
nông thôn.
9. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho nông thôn
Thực hiện có hiệu quả kế hoạch giải quyết việc làm và đào tạo nghề, bình
quân mỗi năm giải quyết việc làm mới cho trên 15.000 người, trong đó xuất khẩu
lao động 1.000 người và giải quyết việc làm thêm cho 19.000 người. Tạo điều
kiện về vốn, môi trường, kinh nghiệm, thông tin thị trường cho người lao động
thông qua các chương trình khuyến công, khuyến nông. Khuyến khích mọi thành
phần kinh tế đầu tư phát triển để tạo thêm nhiều việc làm mới, thu hút lao động.
Tăng cường đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhằm đáp ứng về nhu
cầu, đảm bảo chất lượng và việc làm lao động nông thôn sau học nghề, phấn đấu
mỗi năm đào tạo từ 10.000 - 15.000 người. Tiếp tục tăng cường tập huấn nâng
cao năng lực cho đội ngũ khuyến nông viên cơ sở, nghiệp vụ công tác Khuyến
nông, các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi, trồng trọt, lâm nghiệp, thuỷ sản v.v.

22


10. Phát triển khoa học và công nghệ
Ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học và

công nghệ; rà soát, bổ sung, sửa đổi chính sách hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ,
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Quan tâm đầu tư phát triển ngành
khoa học và công nghệ nói chung và Trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ nói riêng để làm nòng cốt cho phát triển khoa học và công nghệ của tỉnh,
trước mắt tập trung phục vụ phát triển nông nghiệp.
Tăng cường mối liên kết giữa 4 nhà (nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh
nghiệp và nhà nông); lấy doanh nghiệp làm nòng cốt để phát triển, chú trọng và
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã, các mô hình liên
kết hộ gia đình... được tiếp cận với các cơ chế chính sách hỗ trợ của nhà nước.
Đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao kết quả của các đề tài, dự án vào phát triển
sản xuất nông nghiệp. Tổ chức sản xuất gắn với bao tiêu sản phẩm góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành nông
nghiệp theo hướng phát triển nhanh và bền vững, tạo việc làm, tăng thu nhập
cho người dân.
Xây dựng và phát triển các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ gen, nuôi cấy mô, công nghệ tưới tiết kiệm
nước; công nghệ sinh học trong nuôi, trồng, bảo quản, chế biến nông sản... Tập
trung quy hoạch, phát triển vùng sản xuất rau, củ, quả sạch công nghệ cao; chăn
nuôi bò sữa, bò thịt, lợn, thủy sản, gia cầm, thủy cầm... Chú trọng ứng dụng các
giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện và có thể trở thành sản phẩm
chủ lực của từng vùng, từng địa phương, tạo đột phá về năng suất và chất lượng
sản phẩm. Đẩy nhanh tiến độ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp ở tất cả các khâu.
Thực hiện tốt chính sách kêu gọi đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ
chức, doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và
bảo quản, chế biến, tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp. Huy động, lồng ghép
các nguồn lực để đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ phát triển
sản xuất nông nghiệp. Tăng tỷ trọng đầu tư nguồn lực khoa học công nghệ cho
các đề tài, dự án về nông nghiệp.
11. Chủ động hội nhập, hợp tác quốc tế
Làm tốt công tác xúc tiến, thu hút đầu tư, mời gọi doanh nghiệp trong và

ngoài nước, ưu tiến doanh nghiệp đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc đầu tư vào lĩnh
vực nông nghiệp, đặc biệt là đầu tư trong khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao đã được quy hoạch.
Tổ chức hội chợ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao để giới thiệu sản
phẩm, tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Chú trọng phát triển mở rộng thị trường tiêu
thụ nông sản trong và ngoài tỉnh, chú trọng thị trường Hà Nội và các tỉnh có
tiềm năng để tìm đầu ra đối với sản phẩm nông sản. Đẩy mạnh công tác nghiên
cứu thị trường, công tác tiếp thị và tiêu thụ nông sản. Hỗ trợ các doanh nghiệp,
tổ chức kinh tế xây dựng trung tâm trưng bày, giới thiệu sản phẩm nông nghiệp
sạch, chất lượng cao.
23


12. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực bộ máy
quản lý nhà nước; đổi mới phương thức quản lý, đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân,
nông thôn; phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội,
xã hội nghề nghiệp
Tiếp tục củng cố, hoàn thiện, đổi mới hệ thống chính trị nhất là ở cơ sở
theo tinh thần Kết luận 64-KL/TW, Hội nghị Trung ương 7 khóa XI; nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở; phát huy vai trò, trách
nhiệm của cấp ủy các cấp trong chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện Nghị quyết. Tiếp tục
đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng tinh gọn, minh bạch, công
khai, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Bổ sung nhân lực và tăng cường năng
lực, trình độ chuyên môn, trình độ chính trị và kiến thức hội nhập cho đội ngũ
cán bộ, công chức cơ sở cơ bản đạt chuẩn.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, hướng vào phục vụ dân, sát dân, vận
động nhân dân tích cực phát triển sản xuất, kinh doanh, xoá đói, giảm nghèo và
xây dựng nông thôn mới; khơi dậy ý chí tự lực, tự cường của nông dân và dân

cư nông thôn để vươn lên làm giàu cho chính mình và gia đình, góp phần xây
dựng nông thôn ngày càng văn minh, hiện đại.
Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức, kiện toàn ban chỉ đạo, tổ công tác của
các cấp, các sở, ngành đảm bảo chỉ đạo thống nhất từ tỉnh đến cơ sở, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Cấp ủy đảng, chính quyền các cấp xác
định rõ vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn và xây dựng nông thôn mới là
nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị với phương châm quyết liệt, kiên
trì, liên tục; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các phong trào thi đua yêu nước trong
sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát cơ sở để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình
thực hiện; chấn chỉnh những đơn vị thực hiện chưa tốt, không hoàn thành nhiệm
vụ; thường xuyên làm tốt công tác thi đua khen thưởng; sơ kết, tổng kết từ xã
đến cấp huyện và tỉnh để biểu dương, khen thưởng và tuyên truyền nhân rộng
các điển hình, các cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả trên các lĩnh vực.
V. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT

Đề nghị Trung ương cho phép tỉnh Hà Nam thực hiện thí điểm tích tụ, tập
trung đất đai để phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao./.
TM/BCS ĐẢNG UBND TỈNH

24



×