Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.88 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ BÍCH HẰNG

XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI D¦íI 18 TUỔI
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ THANH MAI

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu trong
Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của luận văn chưa từng được
công bố trong các công trình khác.
Hà Nội, ngày 30 tháng 03 năm 2018
Tác giả luận văn


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ


ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI ................. 9
1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18
tuổi ..................................................................................................................... 9
1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo
là người dưới 18 tuổi ....................................................................................... 18
1.3. Ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18
tuổi ................................................................................................................... 25
CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM
2015 VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI ......................................................... 29
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi ................................................... 29
2.2. Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18
tuổi ................................................................................................................... 44
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc ......................................... 58
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI
18 TUỔI .......................................................................................................... 64
3.1. Giải pháp về mặt pháp luật....................................................................... 64
3.2. Những giải pháp khác bảo đảm thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 về xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi .... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCA

: Bộ Công an


BCT

: Bộ Chính trị

BTP

: Bộ Tư pháp

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

HĐXX

: Hội đồng xét xử

HTND


: Hội thẩm nhân dân

TTHS

: Pháp luật tố tụng hình sự

TAND

: Toà án nhân dân

TTHS

: Tố tụng hình sự

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật Việt Nam đã có quy định thủ tục xét xử đối với người dưới 18
tuổi (trong BLTTHS năm 2003 quy định là người chưa thành niên). Các quy
định này đã được tiếp tục hoàn thiện trong BLTTHS năm 2015. Các quy định về
thủ tục xét xử s¬ thÈm đối với người dưới 18 tuổi về cơ bản là đầy đủ, cụ thể, tuy
nhiên vẫn cần phải nghiên cứu để hiểu rõ các quy định của pháp luật về vấn đề
này, thống nhất trong nhận thức cũng như trong thực tiễn thi hành ph¸p luật.
Thực tiễn xét xử các vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi những năm
gần đây 2012-2017 theo quy định của BLTTHS năm 2003 mặc dù đã đạt được
những kết quả nhất định, tuy nhiên còn có những hạn chế, vướng mắc như: Tình
trạng vi phạm thủ tục tố tụng vẫn còn xảy ra, bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc
người đại diện hợp pháp của họ không mời luật sư bào chữa nhưng các cơ quan
THTT không chỉ định luật sư bào chữa là chưa bảo đảm quyền bào chữa cho bị
can, bị cáo; trình độ của một số Thẩm phán chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
được giao; sự đánh giá, nhìn nhận đối với lứa tuổi là người dưới 18 tuổi phạm tội
theo nhiều chiều khác nhau dẫn đến đường lối xử lý chưa thống nhất còn mang
nặng tính răn đe vì vậy tác dụng giáo dục, phòng ngừa không cao chưa đáp ứng
được yêu cầu đấu tranh phòng chống đối với loại tội phạm do người dưới 18 tuổi
thực hiện và xu thế hội nhập quốc tế. Những vướng mắc về mặt pháp luật về cơ
bản đã được khắc phục trong BLTTHS năm 2015, tuy nhiên còn có những
nguyên nhân chủ quan và khách quan khác cần được nghiên cứu, làm rõ để có
biện pháp khắc phục.
Đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về vấn đề này, các nghiên cứu đã

làm rõ rất nhiều những vấn đề lí luận cũng như thực tiễn về thủ tục xét xử đối
với người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, khi BLTTTHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) với những quy định mới về TTXX người dưới 18
tuổi phạm tội, bắt đầu có hiệu lực thi hành (kể từ ngày 01.01.2018) thì việc
nghiên cứu vấn đề này để hiểu rõ quy định của BLTTHS năm 2015, đề xuất
những giải pháp cần thiết để triển khai thực hiện Bộ luật và những giải pháp

1


nhằm bảo đảm thực hiện các quy định của BLTTHS năm 2015 về thủ tục xét xử
đối với người dưới 18 tuổi là rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý
luận lẫn thực tiễn.
Vì vậy, học viên chọn đề tài "Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo
là người dưới 18 tuổi” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ngay sau khi giành độc lập Đảng và Nhà nước ta đã hướng tới xây dựng
Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong đó luôn nêu cao yêu cầu trong việc
đảm bảo quyền con người, ngay cả đối với những người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội và đặc biệt rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền con người đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội lại càng được quan tâm, chỉ đạo khi tiến hành
TTHS nói chung và tiến hành xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới
18 tuổi phạm tội nói riêng; với yêu cầu ngoài việc quyết định hình phạt đối với
họ, Tòa án còn phải thực hiện việc giáo dục họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển lành
mạnh về thể chất và tinh thần, tạo điều kiện giúp họ sớm hòa nhập cuộc sống
bình thường. Chính vì vậy trong công tác xét xử án hình sự, việc xét xử các
VAHS mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, là một trong những nội dung
quan trọng. Nên ngay từ những đầu thế kỷ 21 đã có một số ít những nhà khoa
học lựa chọn đề tài nghiên cứu về công tác xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội,

có thể kể đến một số đề tài khoa học cụ thể như sau:
- Luận án Tiến sỹ luật học: “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Trần
Hưng Bình, Học viện khoa học xã hội, năm 2013 [2]. Ở luận án này, học viên
nhân thấy tác giả đã đưa ra những giải pháp, kiến nghị có giá trị thực tiễn cao
nhằm hoàn thiện thể chế, thiết chế (các cơ quan tiến hành tố tụng) cũng như các
thiết chế gia đình - xã hội đối với người chưa thành niên.
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Thủ tục xét xử những vụ án mà bị cáo là
người chưa thành niên: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, của tác giả Nguyễn
Thu Huyền, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2007 [26]. Ở luận văn này,

2


học viên nhận thấy tác giả đã nghiên cứu và nêu ra các quy định pháp của pháp
luật về trình tự thủ tục xét xử VAHS đối với người chưa thành niên, tác giả đã
trình bày thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS trong quá trình giải quyết vụ án mà
bị cáo là người chưa thành niên trên phạm vi cả nước; nêu ra những tồn tại, hạn
chế, vướng mắc và tìm ra những phương hướng để giải quyết sao cho phù hợp
trong quá trình áp dụng pháp luật tố tụng đối với người chưa thành niên.
- Luận văn Thạc sĩ luật học: “Hiệu quả phòng ngừa người chưa thành niên
phạm tội ở tỉnh Vĩnh Phúc” của tác giả Phạm Quang Hùng, Viện Nhà nước và
pháp luật, Học Viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2010 [24].
Ở luận văn này, học viên nhận thấy tác giả đã dùng lý luận về nhà nước và pháp
luật để nêu và phân tích về khái niệm người chưa thành niên phạm tội, các tiêu chí
đánh giá và các điều kiện bảo đảm hiệu quả phòng ngừa người chưa thành niên
phạm tội; tác giả đã khái quát chung về s¬ lược lịch sử và kinh nghiệm phòng
ngừa người chưa thành niên phạm tội ở địa phương tỉnh Vĩnh Phúc.
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành
niên theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Đỗ Xuân Hồng, Khoa luật,

Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014 [23]. Ở luận văn này, học viên nhận thấy tác
giả đã nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến việc xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên; đưa ra những giải
pháp góp phần hoàn thiện những quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa
thành niên trong dự thảo BLTTHS mới (2015).
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người
chưa thành niên phạm tôi, từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, của tác giả Trần
Thị Tuyết Nhung, Viện hàn lâm, Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học
xã hội, năm 2016 [36]. Ở luận văn này, học viên nhận thấy tác giả nêu và phân
tích về khái niệm người chưa thành niên; những vấn đề chung về xét xử sơ thẩm
VAHS đối với người chưa thành niên phạm tội; liên hệ với thực tiễn xét xử sơ
thẩm án hình sự người chưa thành niên phạm tội và đưa ra một số giải pháp
nhằm thực hiện tốt các quy định của pháp luật về xét xử người chưa thành niên
phạm tội ở địa phương thành phố Đà Nẵng.

3


- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị
cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn
thành phố Hồ Chí Minh”, của tác giả Phạm Hồng Khải, Viện hàn lâm, Khoa học
xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, năm 2017 [29]. Ở luận văn này, học
viên nhận thấy tác giả trình bày lý luận và khái quát về lịch sử phát triển của
pháp luật về thủ tục xét xử người dưới 18 tuổi, nêu nên thực trạng và đưa ra một
số giải pháp nhằm thực tốt thủ tục xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là người
dưới 18 tuổi ở địa phương thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị
cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng”, của tác giả Bùi Thị Dung, Viện hàn lâm, Khoa học xã hội
Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, năm 2017 [15]. Ở luận văn này, học viên

nhân thấy tác giả nêu và phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của
thủ tục xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội; tác giả luận vặn đã chỉ ra những
điểm khác biệt giữa thủ tục xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội với thủ tục xét xử
khác; nêu khái quát về lịch sử phát triển của pháp luật về thủ tục xét xử người
dưới 18 tuổi, nêu nên thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm thực tốt thủ tục
xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi ở địa phương thành
phố Đà Nẵng.
Học viên nhận thấy tất cả các công trình nghiên cứu và đề tài khoa học
nêu trên đều là những công trình có giá trị về mặt lý luận khoa học và thực tiễn,
tuy nhiên, nội dung các đề tài chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên cứu những
vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên và
người dưới 18 tuổi thực hiện hoặc là đề cập đến quá trình giải quyết vụ án mà bị
can, bị cáo là người chưa thành niên và người dưới 18 tuổi phạm tội trong cả các
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử cho đến thi hành án trong một phạm vi khoảng
thời gian nhất định hoặc là có đề tài nghiên cứu nâng cao chất lượng xét xử sơ
thẩm của toà án cấp huyện đối với mọi đối tượng phạm tội đề cập đến những vấn
đề liên quan đến xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người chưa thành niên phạm
tội và người dưới 18 tuổi. Vì vậy, theo đánh giá của học viên, mặc dù có rất

4


nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến người dưới 18 tuổi phạm tội. Nhưng
chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu độc lập toàn diện
về công tác xét xử sơ thẩm vụ hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi trên
phạm vi toàn quốc trên cơ sở đối chiếu BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015,
BLTTHS 2003 và BLTTHS năm 2015.
Để nghiên cứu và thực hiện Luận văn “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị
cáo là người dưới 18 tuổi”, học viên đã tham khảo, kế thừa có chọn lọc kết quả
của các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố trên đây

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu về lí luận cũng như thực tiễn xét xử sơ thẩm VAHS
đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện và bảo đảm thực hiện các quy định của BLTTHS năm 2015 về xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về việc xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; xây dựng khái niệm xét xử sơ thẩm
VAHS mà bị cáo là người dưới 18 tuổi ở góc độ là thủ tục tố tụng, ý nghĩa của
thủ tục xét xử sơ thẩm VAHS mà bị cáo là người dưới 18 tuổi.
- Phân tích, đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2015 về xét xử sơ
thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi; so sánh các quy định này với
quy định của BLTTHS năm 2003 để thấy được những điểm mới;
- Phân tích làm rõ thực tiễn xét xử VAHS mà bị cáo là người dưới 18
trong thời gian 5 năm (từ 2012 - 2017). Tập trung xác định những hạn chế,
vướng mắc, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn
xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.
- Đề xuất sửa đổi, bổ sung BLTTHS về xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị
cáo là người dưới 18 tuổi và đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật
khác có liên quan; đồng thời đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện quy định

5


pháp luật về xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi như giải thích,
hướng dẫn pháp luật, nâng cao năng lực đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân;
kiện toàn bộ máy TAND và một số giải pháp khác.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm VAHS đối
với bị cáo là người dưới 18 tuổi và thực tiễn xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo
là người dưới 18 tuổi ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về lí luận, luận văn nghiên cứu về cơ sở lí luận và thực tiễn của xét xử
sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi; khái niệm và ý nghĩa của
xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.
- Về pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu những quy định về thủ tục
tố tụng đặc biệt trong việc Xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới 18
tuổi trong BLTTHS năm 2015, so sánh với BLTTHS năm 2003.
- Về thực tiễn thi hành, do BLTTHS năm 2015 chưa có thực tiễn thi hành,
nên luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 trong 05 năm
(2012-2017) trên phạm vi cả nước. Việc nghiên cứu này vẫn có ý nghĩa khi xác
định trong số những nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc về mặt PL có nguyên
nhân nào còn tồn tại chưa được BLTTHS năm 2015 khắc phục, trên cơ sở đó tiếp
tục đề xuất hoàn thiện pháp luật. Ngoài ra, việc nghiên cứu thực tiễn thi hành
BLTTHS năm 2003 vẫn giúp chúng ta xác định được những nguyên nhân khách
quan, chủ quan khác dẫn đến những hạn chế, vướng mắc trong việc xét xử sơ
thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi, để từ đó đề xuất giải pháp khắc
phục. Luận văn chỉ nghiên cứu thực tiễn xét xử sơ thẩm VAHS đối với người
dưới 18 tuổi của TAND, không nghiên cứu thực tiễn xét xử sơ thẩm VAHS đối
với người dưới 18 tuổi của Tòa án quân sự (về lý thuyết, Tòa án quân sự vẫn có
quyền xét xử người dưới 18 tuổi trong trường hợp nhập vụ án hoặc gây thiệt hại
cho quân đội hoặc liên quan đến bộ máy quân sự…).

6


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng các phương pháp luận của Chủ nghĩa Duy vật biện
chứng, Chủ nghĩa Duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng
Cộng Sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật và quyền con người, quyền công dân;
nhất là các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp đến năm 2020 và hệ
thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước xử lý người dưới 18 tuổi phạm pháp
hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi
nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết khi nghiên
cứu những vấn đề lí luận; sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, và
phương pháp phân tích và tổng hợp khi nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt
Nam và một số nước; áp dụng phương pháp phân tích và tổng hợp thực tiễn,
phương pháp chuyên gia, phương pháp lựa chọn điển hình khi nghiên cứu thực
tiễn xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là người người dưới 18 tuổi; luận văn
sử dụng phương pháp lí luận kết hợp với thực tiễn và phương pháp loogic để đưa
ra giải pháp hoàn thiện bảo đảm thực hiện quy định của BLTTHS năm 2015 về
xét xử sơ thẩm VAHS mà bị cáo là người dưới 18 tuổi.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về ý nghĩa lý luận
Luận văn khái quát những vấn đề lý luận về những qui định của pháp luật,
chính sách của Đảng và Nhà nước trong xét xử sơ thẩm VAHS đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội trong TTHS Việt Nam; đồng thời góp phần hoàn thiện
phong phú hơn về mặt lý luận và hoàn thiện pháp luật trong việc xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.
6.2. Về ý nghĩa thực tiễn
- Từ việc nghiên cứu thực tiễn trong việc xét xử VAHS có bị cáo là người
dưới 18 tuổi, luận văn đã nêu lên những bất hợp lý và những vướng mắc trong
việc áp dụng các quy phạm PLTTHS trong thực tiễn xét xử các VAHS đối với bị


7


cáo là người dưới 18 tuổi; nêu ra những tồn tại, hạn chế trong công tác xét xử sơ
thẩm VAHS người dưới 18 tuổi của Toà án để từ đó đề xuất những giải pháp để
hạn chế phần nào những sai lầm, khuyết điểm của cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng, góp phần nâng cao chất lượng xét xử các VAHS mà bị
cáo là người dưới 18 tuổi.
- Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ
giảng dạy pháp luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang
bị những kiến thức chuyên sâu cho kiểm sát viên và thẩm phán đang công tác tại
Viện kiểm sát và Tòa án trong quá trình thụ lý giải quyết VAHS đối với bị cáo là
người dưới 18 tuổi phạm tội được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 10 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị
cáo là người dưới 18 tuổi
Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về xét xử sơ
thẩm án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi và thực tiễn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về xét xử sơ thẩm án hình sự đối với
bị cáo là người dưới 18 tuổi.

8


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người
dưới 18 tuổi
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xét xử là từ Hán Việt, được hiểu là sự xem xét và phân xử của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền (Toà án). Theo Từ điển Tiếng Việt thì “xét xử” là việc “xét
tội lỗi rồi phân xử”. Như vậy, ý nghĩa của xét xử chính là việc một “người” nào
đó đóng vai trò chủ thể tiến hành xem xét sự việc, phân định phải trái rồi phán
quyết [61].
Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động
bảo vệ pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp; trong đó,
theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Tòa án được xác định là cơ quan thực
hiện quyền tư pháp, theo nghĩa chức năng xét xử của Tòa án có tính quyết định
trong thực hiện quyền tư pháp, còn hoạt động tư pháp của các cơ quan khác chỉ
là nhằm thực hiện quyền tư pháp.
Nói cách khác, xét xử là chức năng được pháp luật giao duy nhất cho Toà
án, Tòa án nhân danh Nhà nước tiến hành việc xét xử. Theo quy định tại Điều
102 Hiến pháp năm 2013:
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác
do luật định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý,… [45].

9



Để phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 1 Luật tổ chức
TAND năm 2014 cũng quy định "Tòa án Nhân dân Tối cao, các Tòa án Nhân
dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Các Tòa án xét xử những vụ
án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải
quyết những việc khác theo quy định của pháp luật”. Còn tại Điều 9 BLTTHS
năm 2003 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chỉ hình phạt khi chưa có
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Theo Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của trường Đại
học Quốc gia Hà Nội thì giai đoạn tố tụng hình sự được hiểu: Là bước của quá
trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp
hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện
các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để
giải quyết vụ án hình sự một cách công minh, khách quan, có căn cứ và đúng
pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các
quyền và tự do của công dân [18].
Việc xét xử của Tòa án được thực hiện không chỉ đối với VAHS mà còn
xét xử các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh thương mại,
hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Đối
tượng xét xử là yếu tố để phân định sự khác nhau giữa xét xử VAHS với xét xử
các loại án khác. Đối tượng xét xử của VAHS là tội phạm và người thực hiện
hành vi phạm tội. Việc Tòa án tiến hành các thủ tục xét xử VAHS được gọi
chung là hoạt động xét xử hình sự.
Theo các quy định trên, thì xét xử là một hoạt động đặc thù của Nhà nước,
là chức năng được Nhà nước giao cho một chủ thể duy nhất thực hiện đó là Tòa
án. Việc tuyên bố một người là có tội và phải chịu hình phạt nhất thiết phải được
thực hiện thông qua hoạt động xét xử và quyết định bằng một bản án. Như vậy,
xét xử là hoạt động của Tòa án nhân danh Nhà nước để xem xét và ra phán quyết

10



đối với các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại,
lao động, hành chính.
Việc xét xử phải được tiến hành tuân thủ các trình tự thủ tục (như thụ lý hồ
sơ, nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị xét xử, xét xử tại phiên tòa) theo quy định của
pháp luật. Hoạt động xét xử VAHS tại phiên tòa bắt buộc phải tiến hành thông
qua các thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận, nghị án, tuyên án và phải
tuân thủ các nguyên tắc: Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật; Tòa án xét xử công khai, trực tiếp, bằng lời nói và liên tục; Tòa
án xét xử tập thể và quyết định theo đa số; mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật;... . Thông qua các thủ tục tố tụng do pháp luật luật quy định, căn cứ
vào các quy định của pháp luật nội dung (luật hình sự, dân sự, hôn nhân và gia
đình,...), Tòa án (HĐXX) nhân danh Nhà nước ra bản án để phán xét một hành vi
nào đó là tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội; phán quyết về
tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi; xác định tính có căn cứ hay
không đối với các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể,...
Xét về bản chất thì hoạt động xét xử của Tòa án theo chức năng Hiến định
chính là hoạt động áp dụng pháp luật. Xét xử được hiểu là một quá trình áp dụng
pháp luật của Tòa án nhân danh Nhà nước nhằm xem xét và ra phán quyết về các
vụ án. Để đảm bảo cho việc xét xử được khách quan, công bằng, nghiêm minh
và đúng pháp luật, theo quy định của pháp luật hoạt động xét xử của Tòa án
được tiến hành theo các thủ tục: sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm. Theo nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, bản án và quyết định sơ
thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo t nh tự phúc thẩm. Bản án,
quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định th
có hiệu lực pháp luật nhưng nếu có kháng cáo, kháng nghị hợp pháp th vụ án
phải được xét xử phúc thẩm.
Như vậy, xét xử h nh sự sơ thẩm là cấp thủ tục xét xử l n đ u do T a án
có thẩm quyền tiến hành đối với vụ án h nh sự nhằm xử lý tội phạm nghiêm


11


minh và giải quyết tất cả các vấn đề về trách nhiệm pháp lý phát sinh từ hành vi
phạm tội. Đây cũng là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng hình sự và
được bắt đầu từ thời điểm Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án và kết thúc khi Tòa án ra
bản án hình sự sơ thẩm kết tội bị cáo hoặc tuyên không phạm tội. So với các
giai đoạn (thủ tục) xét xử khác, ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hầu hết những
người tham gia tố tụng đều được triệu tập để tham gia phiên tòa và tất cả các
nguyên tắc của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự đều được áp dụng. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng, không phải mọi trường hợp xét xử sơ thẩm đều là xét xử
lần đầu, trường hợp Tòa án có thẩm quyền xem xét, xét xử và quyết định hủy
bản án để điều tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại (Điều 250, 287, 300 BLTTHS
năm 2003) thì lúc đó việc xét xử sơ thẩm không còn là xét xử lần đầu.
* Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo dưới 18 tuổi.
Với vai trò và thẩm quyền hiến định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (Điều
102 Hiến pháp năm 2013), chỉ tòa án với bản án của mình mới có thẩm quyền
coi một người có tội và phải chịu hình phạt hay không đòi hỏi phải đưa họ ra
xét xử trước phiên tòa, trước hết là ở phiên tòa sơ thẩm. Trong khoa học Luật
TTHS, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu là giai đoạn TTHS
quan trọng do Tòa án thực hiện lần đầu ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét,
đánh giá toàn diện chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở đó ra bản
án, quyết định để xác định có hành vi phạm tội hay không, người thực hiện
hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác có liên quan trong vụ án hình
sự. Hoạt động tố tụng giải quyết vụ án hình sự được thể hiện tập trung cao nhất
là hoạt động xét xử tại phiên tòa, bởi vì tại phiên tòa, sau khi nghiêm cứu khách
quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết, chứng cứ của vụ án một cách công khai
thông qua hoạt động xét hỏi và tranh luận, HĐXX xác định một người có tội

hay không, hình phạt và biện pháp tư pháp đối với họ, dựa trên những căn cứ,
theo những trình tự do pháp luật TTHS quy định.

12


Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử cấp thứ nhất do tòa án có thẩm
quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo BLTTHS năm 2015, thủ
tục, trình tự tố tong đối với người dưới 18 tội phạm tôI là thủ tục đặc biệt.
Với những nội dung trên, “Xét xử sơ thẩm vụ án h nh sự đối với bị cáo là
người dưới 18 tuổi là việc xét xử vụ án h nh sự theo thủ tục tố tong đặc biệt mà
bị cáo trong phiên t a là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi do t a án có
thẩm quyền mở ra l n đ u ở cấp thứ nhất để xem xét đánh giá họ có tội hay
không có tôI theo cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.”
1.1.2. Khái niệm bị cáo là người dưới 18 tuổi
Khái niệm bị cáo
Trong lịch sử Việt Nam, việc nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng ra đời,
đã chấm dứt tình trạng sinh hoạt trì trệ, nguyên thủy, mở ra một kỷ nguyên mới,
để lại dấu ấn rất rõ vào các mặt sinh hoạt của dân tộc Việt Nam. Cùng với lịch sự
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là sự phát triển của cả một hệ thống pháp
luật, trong đó có pháp luật TTHS. Pháp luật TTHS được hình thành từ thời Hùng
Vương nhưng rất mờ nhạt. Bước sang các giai đoạn của các triều đại như Ngô,
Đinh, Lý, Trần cũng không đề cập đến khái niệm bị cáo cũng như thuật ngữ bị cáo
trong pháp luật TTHS của mình. Thuật ngữ “bị cáo” đầu tiên xuất hiện trong pháp
luật tố tụng thời Lê Sơ: lời khai của người làm chứng bị can bị cáo và biện pháp
thu thập chứng cứ là lấy lời khai người làm chứng hỏi cung bị can đối chất...
nhưng vẫn chưa có một khái niệm, định nghĩa nào về thuật ngữ bị cáo. Trải qua
quá trình phát triển lâu dài, cho đến sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định
Giơnevơ được kí kết, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị
đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Pháp luật TTHS miền Bắc được hình thành.

Đây là lần đầu có một định nghĩa pháp lý về thuật ngữ “bị cáo”.
Trong Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm theo
Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao, đã đưa ra
định nghĩa pháp lý của khái niệm bị cáo: theo đó "Bị cáo là người bị truy cứu

13


trách nhiệm h nh sự trước T a án nhân dân. Trong giai đoạn xét xử T a án nhân
dân chỉ được đưa một người ra xét xử với tư cách là bị cáo nếu Viện Kiểm sát
nhân dân đã truy tố người đó trước T a án nhân dân; nếu Viện Kiểm sát không
truy tố th T a án nhân dân không được xét xử một người với tư cách là bị cáo
trừ những người mà T a án nhân dân xét xử về những việc h nh sự nhỏ". [56]
Sau khi đất nước Việt Nam thống nhất cho đến nay đã có nhiều BLTTHS,
nghị quyết, thông tư được ban hành, sửa đổi, bổ sung. Hiện nay, nhà nước ta
đang sử dụng BLTTHS năm 2015. Điều 61 khoản 1 BLTTHS năm 2015 có nêu
khái niệm: “Bị cáo là người… đã bị T a án quyết định đưa ra xét xử”. [44]. Như
vậy, thời điểm bị can trở thành bị cáo là thời điểm thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Trước hết, cần tìm hiểu khái niệm về người chưa thành niên. Dựa trên đặc
điểm tâm sinh lý người chưa thành niên, pháp luật quốc tế và pháp luật mỗi quốc
gia đã đưa ra giới hạn về độ tuổi làm cơ sở xác định một đối tượng là người chưa
thành niên.
Điều 1 - Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (United Nations
Convention on the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông
qua ngày 20/11/1989 quy định: “Trong phạm vi công ước này, Trẻ em có nghĩa
là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định
tuổi thành niên sớm hơn”.
Quy tắc 2.2 - Quy tắc tối thiểu của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng chính

sách pháp luật đối với người chưa thành niên còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh
(United Nations Standard Minium Rules for the Administration of Juvenile
Justice/Beijing Rules) được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày
29/11/1985 đưa ra định 7 nghĩa: “Người chưa thành niên là trẻ em hoặc người ít
tuổi tùy theo từng hệ thống pháp luật” [5].

14


Như vậy theo pháp luật quốc tế, “Người chưa thành niên” đồng nhất với
“Trẻ em” và được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật quốc
gia quy định khác. Theo quan niệm quốc tế thì dựa vào độ tuổi để xác định trẻ
em, người chưa thành niên, thành niên… Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm
người chưa thành niên được hiểu như sau:
Theo từ điển tiếng Việt thì: “Người chưa thành niên là người chưa phát
triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ
quyền và nghĩa vụ công dân” [61]. Khái niệm này, có thể hiểu là người chưa
thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện thể lực, trí tuệ, tinh thần có
nghĩa là ở lứa tuổi này họ chưa phải là người lớn nhưng cũng không còn là trẻ
con. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố rất đặc biệt, đó là sự phát triển cơ
thể mất cân bằng nên người chưa thành niên rất dễ bị kích động, dễ nổi nóng cho
nên họ có những phản ứng nóng nảy, vô cớ, những hành vi bất thường.
Theo Điều 1 Thông tư liên tịch số: 01/2011/TTLT-VKSNDTCTANDTCBCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011 của VKSNDTC, TANDTC,
Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, hướng dẫn thi
hành một số quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là người chưa
thành niên, thì: “Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể
chất và tâm thần, là những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là khi họ tham
gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án... ” [59].
Điều 68 BLHS năm 1999 quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định

của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật
không trái với những quy định của Chương này” [40].
Chuyển tiếp và kế thừa BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 đã có một
số sửa đổi, bổ sung về quy định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên,
thay thế cụm từ người chưa thành niên thành người dưới 18 tuổi, Điều 90 BLHS
năm 2015 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm

15


hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ
nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này” [44]. Như vậy,
BLHS năm 2015 cũng không có quy định gì khác hơn so với BLHS năm 1999
về độ tuổi chịu TNHS của người chưa thành niên.
Điều 18 BLDS năm 2005 quy định: “Người chưa đủ mười tám tuổi là
người chưa thành niên” [39]. Điều 161 Bộ luật lao động năm 2012 quy định:
“Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác đều quy định
tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi. Các quy định trên đều cho thấy
sự thống nhất khi quy định về độ tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi.
Tuy nhiên, khác với quan niệm quốc tế, pháp luật Việt Nam có sự phân
định hai khái niệm “Người chưa thành niên” và “Trẻ em”. Điều 1 Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: “Trẻ em là công dân Việt nam
dưới 16 tuổi”. Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là người dưới 16
tuổi” [48]. Như vậy, trẻ em là NCTN nhưng NCTN không hẳn là trẻ em vì một bộ
phận người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không phải là trẻ em.
Tóm lại, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người chưa đủ 18
tuổi, chưa phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ quyền và
nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
Điều 12 của BLHS năm 1999 quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải

chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng
chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do
cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy, chỉ những NCTN từ đủ 14
tuổi trở lên mới phải chịu TNHS về hành vi phạm tội, còn NCTN dưới 14 tuổi
thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu TNHS về mọi tội phạm, còn người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16
tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng.

16


Điều 12 của BLHS năm 2015 quy định bổ sung loại tội cụ thể mà người
từ đủ 14 tuổi trở 9 lên, chưa đủ 16 tuổi phải chịu. Vì trong độ tuổi này họ chưa
làm chủ được bản thân nên khi thực hiện hành vi phạm tội họ không phải chịu
TNHS, không tính lỗi khi thực hiện hành vi. Quy định này là một trong những
bổ sung giúp NCTN nhận thức tốt hơn về những điều mà pháp luật ngăn cấm,
nâng cao hiệu quả giáo dục phòng ngừa.
Như vậy, từ những phân tích đánh giá nêu trên, theo học viên khái niệm
về bị cáo là người dưới 18 tuổi nên hiểu: “Là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi vi phạm pháp luật h nh sự bị Viện kiểm sát ra quyết định truy tố và bị
T a án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử về một tội phạm h nh sự theo quy định
của pháp luật”.
Từ phân tích ở mục 1.1.1 và 1.1.2 của luận văn, học viên nhận thấy pháp
luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng luôn luôn coi người dưới 18 tuổi là
trẻ em hoặc là người chưa thành niên, là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ
không chỉ trong cuộc sống hàng ngày mà ngay cả khi quyền trẻ em bị xâm phạm
cần được bảo vệ hoặc khi đối tượng này vi phạm pháp luật. Luật hình sự bảo vệ
người dưới 18 tuổi bị coi là người phạm tội và cũng quy định một chế tài riêng
để xử lý thủ tục tố tụng cũng phải phù hợp với lứa tuổi dươi 18 tuổi nhằm thể

hiện tính nhân đạo trong chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy
BLTTHS năm 2015 đã có một phần: Phần thứ bảy Thủ tục đặc biệt và một
chương riêng (Chương XXVIII) quy định về thủ tục tố tụng đối với vụ án mà
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người dươi 18 tuổi. Tuy nhiên, trong Điều 413
BLTTHS năm 2015 quy định về phạm vi áp dụng: Thủ tục tố tụng đối với người
bị buộc tội ... là người dưới 18 tuổi, nhà làm luật không hề ghi nhận khái niệm
pháp lý thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là gì? Qua nghiên
cứu các quy định về thủ tục tố tụng hình đối với người dưới 18 tuổi trong
Chương XXVIII BLTTHS năm 2015 [44], học viên thấy: Các quy định về thủ
tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có những đặc trưng so với thủ

17


tục tố tụng áp dụng đối với trên 18 tuổi (người thành niên). Những đặc trưng này
thể hiện ở các quy định về tiêu chuẩn của người THTT, về đối tượng phải chứng
minh, về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, về việc bào chữa, việc tham gia của
gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội vào tố tụng cũng như công tác xét xử và
thi hành án. BLTTHS cũng quy định các quyền tố tụng và bảo đảm cho việc điều
tra, truy tố, xét xử vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật đối với đối
tượng này.
Như vậy, có thể hiểu khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị
cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật TTHS Việt Nam: “Là thủ tục đặc biệt
do Tòa án có thẩm quyền thực hiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bị Tòa
án quyết định đưa ra xét xử hình sự cấp thứ nhất một cách khách quan, toàn
diện và đúng pháp luật đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị
cáo trong hoạt động xét xử”.
1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối
với bị cáo là người dưới 18 tuổi
1.2.1. Cơ sở lý luật

- Về đặc điểm tâm sinh lý
Người dưới 18 tuổi là người ở độ tuổi chuyển tiếp của sự tăng trưởng,
phát triển từ độ tuổi “trẻ em” đến thời điểm bắt đầu của tuổi trưởng thành, đây là
giai đoạn thay đổi quan trọng nhất về thể chất, cảm xúc và ý thức xã hội diễn ra
ở mỗi cá nhân. Sự tăng trưởng của các tuyến nội tiết đã thúc đẩy phát triển các
bộ phận cơ thể trưởng thành theo một trình tự nhất định. Đây là giai đoạn “quá
độ”, sự phát triển tâm lý rất phức tạp, mẫn cảm, dễ thay đổi và khó lường trước.
Tâm lý học xác định quá trình hình thành và phát triển của người dưới 18 tuổi
phụ thuộc mạnh mẽ về tâm sinh lý, tùy thuộc độ tuổi, nhưng ở mức độ không
đồng đều và với những dấu hiệu tâm sinh lý rất khác nhau ở mỗi giới tính; đồng
thời có thể bị phân hóa để tạo thành tính cách khác nhau khi bị tác động bởi
những môi trường, điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.

18


Xuất phát từ những đặc điểm riêng của sự phát triển tâm sinh lý đó, nên khi
người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thường xuất phát từ nhiều
yếu tố khác nhau và do đó, vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi có các đặc
điểm, cơ chế khác với hành vi vi phạm pháp luật của người đã trên 18 tuổi.
Đối với những người dưới 18 tuổi có điều kiện, mức sống bình thường thì
hoạt động xã hội của họ ở giai đoạn này chủ yếu là môi trường học tập tại nhà
trường. Sự giao tiếp bạn bè cùng lứa và các mối quan hệ cá nhân ngày càng gắn
bó, mở rộng và chịu ảnh hưởng từ quan hệ bạn bè rất mạnh, thậm chí là nghe
theo lời bạn nhiều hơn nghe lời khuyên can của cha mẹ, gia đình. Tính cách của
các em thường phát triển theo khuynh hướng thích chứng tỏ “đã” là người lớn và
mong muốn người xung quanh thừa nhận; do vậy, thường gặp sai lầm trong khi
muốn xử lý gấp mọi vấn đề khó khăn gặp phải, nhằm chứng tỏ sự trưởng thành
của mình. Nhiều trường hợp người dưới 18 tuổi ở giai đoạn này đã tỏ ra khó
chịu, tự ái, thậm chí trở nên hung dữ khi bị coi là còn con nít hoặc bị người lớn

gọi là “chú bé”, “cô bé”. Sự tự trọng thái quá trở thành tự tôn hay tự ti, mặc cảm
và khi bị xúc phạm, dễ có tâm lý tiêu cực, mà hệ quả thông thường là phản ứng
bằng những hành vi sai trái hoặc hành vi vi phạm pháp luật. Những người dưới
18 tuổi này thường thiếu tự chủ, luôn hướng tới sự ham thích mới lạ, hiếu động,
bồng bột và dễ sa ngã. Nhiều em dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào những hoạt
động phiêu lưu, mạo hiểm, muốn trở thành “người hùng” để bạn bè khâm phục.
Những em bị mặc cảm do kết quả học tập sa sút và bị thầy cô, gia đình khiển
trách, bạn bè chế giễu... cũng dễ có hành vi sai trái hoặc hành vi vi phạm pháp
luật. Khác với người trên 18 tuổi (hay còn gọi là người thành niên) khi vi phạm
pháp luật luôn có động cơ, mục đích cụ thể, thì những người dưới 18 tuổi thường
vi phạm pháp luật với suy nghĩ rất đơn giản, thậm chí chỉ do nguyên nhân hiếu
thắng, không tự chủ mà họ đã gây ra nhiều vụ vi phạm pháp luật rất nghiêm
trọng và họ thường có xu hướng sử dụng bạo lực thể chất, như gây rối trật tự
công cộng, cố ý gây thương tích...

19


Như vậy, đặc điểm trước hết trong vi phạm pháp luật của người dưới 18
tuổi hầu hết là do tác động của môi trường, điều này cũng giải thích vì sao động
cơ, mục đích vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi thường là bột phát, nhất
thời và không rõ ràng. Cũng do hành động a dua, hùa theo bạn bè làm trái pháp
luật, nên vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi còn có yếu tố vi phạm tập
thể, tuy chưa đến mức vi phạm pháp luật có tổ chức (vì thiếu dấu hiệu thống nhất
ý chí, phân công thực hiện…), nhưng là cách thức nhiều người cùng thực hiện
một loại hành vi trái pháp luật, điều này thể hiện rõ nhất trong các vụ gây rối trật
tự công cộng, đua xe trái phép…
Đặc điểm này giúp ta khái quát được nguyên nhân cơ bản dẫn đến vi
phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi, từ đó có biện pháp chủ động trong ngăn
chặn, phòng ngừa vi phạm, tội phạm ở các lứa tuổi dưới 18 tuổi.

Người trên 18 tuổi khi thực hiện hành vi trái pháp luật vì kiếm lợi bất chính thì
cách thức, thủ đoạn tiến hành thường được chuẩn bị trước, có khi rất tinh vi,
phức tạp và quyết tâm hoàn thành hành vi dù có trở ngại khách quan. Trái lại,
đối với người dưới 18 tuổi, nhất là những em có hoàn cảnh đặc biệt, như khuyết
tật, mồ côi, không nơi nương tựa, bị bỏ rơi, bỏ nhà sống lang thang, những em là
nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân của nghiện ngập ma túy; những em có
thói quen đua đòi mua sắm, tiêu xài sang trọng... thì cách thức, hành vi vi phạm
pháp luật đơn giản hơn nhiều. Vì các em này thường bị áp lực do lệ thuộc về vật
chất, nghiện ngập, nên dễ bị người trên 18 tuổi điều khiển, sai khiến hoặc tự
mình tham gia những việc làm trái pháp luật như mua bán ma túy, trộm cắp,
cướp, cướp giật và giết người để chiếm đoạt tài sản, có thể có đồng phạm cùng
tham gia, nhưng chỉ là vi phạm pháp luật mang tính tổ chức giản đơn nên quyết
tâm vi phạm pháp luật không cao… Và khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
do bị người khác điều khiển, xúi giục hoặc vì nhu cầu vật chất cá nhân thì hành
vi vi phạm pháp luật của các em thường có đặc điểm dễ nhận thấy là hành động
phạm pháp đơn giản, nhanh lẹ vội vã và ít có quyết tâm thực hiện đến cùng nếu

20


bị ngăn trở. Mặt khác, cũng do độ tuổi nên khi phạm pháp, các em thường không
lường trước, lường hết được sự nguy hiểm, tác động và hậu quả của hành vi mà
mình sẽ thực hiện; nhiều trường hợp làm trái pháp luật, có hậu quả nghiêm trọng
xảy ra, được người lớn giải thích các em mới biết sai trái của mình.
Nghiên cứu thấu đáo đặc điểm này sẽ giúp xem xét dấu hiệu lỗi trong mặt
chủ quan của hành vi vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi. Khi là lỗi cố ý
trực tiếp thì mới có căn cứ quy kết hành vi trái pháp luật của họ là vi phạm pháp
luật và xác định trách nhiệm pháp lý; còn nếu là lỗi gián tiếp hay lỗi vô ý thì sẽ
không cấu thành vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi, nhất là đối với trẻ em
theo các quy định của pháp luật về độ tuổi.

Khi hiểu rõ những đặc điểm của người dưới 18 tuổi sẽ giúp cho cơ quan,
người có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi có nhận
thức đúng đắn về hành vi vi phạm pháp luật của họ và từ đó thực hiện áp dụng
biện pháp xử lý phù hợp. Theo quy định của pháp luật, người dưới 18 tuổi chỉ
được thừa nhận là chủ thể có quyền và nghĩa vụ trong một số quan hệ xã hội
nhất định như: Hợp đồng lao động dịch vụ, lao động giản đơn... Vì lý do đó,
trong thực tế đời sống, sinh hoạt, người dưới 18 tuổi chỉ có khả năng, điều kiện
tham gia trong một số môi trường xã hội nhất định, hay nói theo quan điểm cấu
thành vi phạm thì người dưới 18 tuổi chỉ có thể có điều kiện xâm hại một số
khách thể nhất định được pháp luật bảo vệ, như: Xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự nhân phẩm, trật tự công cộng, quyền sở hữu; Còn một số những những
quan hệ xã hội mà dù có cố ý, thì người dưới 18 tuổi cũng không thể tham gia
hoặc không thể có điều kiện thực hiện hành vi trái pháp luật, như trong các quan
hệ pháp luật về chức vụ, về các hoạt động tư pháp hoặc quản lý kinh tế...; như
vậy, vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi còn có đặc điểm là chỉ có thể xảy
ra trong những môi trường, hay nói cách khác là trong một số quan hệ xã hội
nhất định.

21


×