Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.54 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ BÍCH HẰNG

XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ THANH MAI

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu trong
Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của luận văn chưa từng được công
bố trong các công trình khác.
Hà Nội, ngày 30 tháng 03 năm 2018
Tác giả luận văn


MỤC LỤC

CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ
XÉT XỬ SƠ THẨM ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI VÀ THỰC


TIỄN XÉT

TUỔI

XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18
29

2.1.
án

Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về xét xử sơ thẩm vụ


DANH MỤC CÁC CHỮ VIÉT TẮT
BCA

: Bộ Công an

BCT

: Bộ Chính trị

BTP
BLDS

: Bộ Tư pháp
: Bộ luật dân sự

BLHS
BLTTHS


: Bộ luật Hình sự
: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

HĐXX

: Hội đồng xét xử

HTND

: Hội thẩm nhân dân

TTHS

: Pháp luật tố tụng hình sự

TAND

: Toà án nhân dân

TTHS

: Tố tụng hình sự

TNHS


: Trách nhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VAHS
VKSND

: Vụ án hình sự
: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật Việt Nam đã có quy định thủ tục xét xử đối với người dưới 18 tuổi
(trong BLTTHS năm 2003 quy định là người chưa thành niên). Các quy định này đã
được tiếp tục hoàn thiện trong BLTTHS năm 2015. Các quy định về thủ tục xét xử sơ
thẩm đối với người dưới 18 tuổi về cơ bản là đầy đủ, cụ thể, tuy nhiên vẫn cần phải
nghiên cứu để hiểu rõ các quy định của pháp luật về vấn đề này, thống nhất trong
nhận thức cũng như trong thực tiễn thi hành pháp luật.
Thực tiễn xét xử các vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi những năm gần
đây 2012-2017 theo quy định của BLTTHS năm 2003 mặc dù đã đạt được những kết
quả nhất định, tuy nhiên còn có những hạn chế, vướng mắc như: Tình trạng vi phạm
thủ tục tố tụng vẫn còn xảy ra, bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc người đại diện hợp
pháp của họ không mời luật sư bào chữa nhưng các cơ quan THTT không chỉ định

luật sư bào chữa là chưa bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo; trình độ của
một số Thẩm phán chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; sự đánh giá, nhìn
nhận đối với lứa tuổi là người dưới 18 tuổi phạm tội theo nhiều chiều khác nhau dẫn
đến đường lối xử lý chưa thống nhất còn mang nặng tính răn đe vì vậy tác dụng giáo
dục, phòng ngừa không cao chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống đối
với loại tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện và xu thế hội nhập quốc tế. Những
vướng mắc về mặt pháp luật về cơ bản đã được khắc phục trong BLTTHS năm 2015,
tuy nhiên còn có những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác cần được nghiên
cứu, làm rõ để có biện pháp khắc phục.
Đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về vấn đề này, các nghiên cứu đã
làm rõ rất nhiều những vấn đề lí luận cũng như thực tiễn về thủ tục xét xử đối với
người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, khi BLTTTHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung 2017) với những quy định mới về TTXX người dưới 18 tuổi phạm
tội, bắt đầu có hiệu lực thi hành (kể từ ngày 01.01.2018) thì việc nghiên cứu vấn đề
này để hiểu rõ quy định của BLTTHS năm 2015, đề xuất những giải pháp cần thiết
để triển khai thực hiện Bộ luật và những giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện các quy

5


định của BLTTHS năm 2015 về thủ tục xét xử đối với người dưới 18 tuổi là rất cần
thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Vì vậy, học viên chọn đề tài "Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là
người dưới 18 tuổi” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ngay sau khi giành độc lập Đảng và Nhà nước ta đã hướng tới xây dựng Nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Trong đó luôn nêu cao yêu cầu trong việc đảm bảo
quyền con người, ngay cả đối với những người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội và đặc biệt rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền con người đối với người dưới

18 tuổi phạm tội lại càng được quan tâm, chỉ đạo khi tiến hành TTHS nói chung và
tiến hành xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội nói
riêng; với yêu cầu ngoài việc quyết định hình phạt đối với họ, Tòa án còn phải thực
hiện việc giáo dục họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần,
tạo điều kiện giúp họ sớm hòa nhập cuộc sống bình thường. Chính vì vậy trong công
tác xét xử án hình sự, việc xét xử các VAHS mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi,
là một trong những nội dung quan trọng. Nên ngay từ những đầu thế kỷ 21 đã có một
số ít những nhà khoa học lựa chọn đề tài nghiên cứu về công tác xét xử người dưới
18 tuổi phạm tội, có thể kể đến một số đề tài khoa học cụ thể như sau:
- Luận án Tiến sỹ luật học: “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Trần Hưng
Bình, Học viện khoa học xã hội, năm 2013 [2]. Ở luận án này, học viên nhân thấy tác
giả đã đưa ra những giải pháp, kiến nghị có giá trị thực tiễn cao nhằm hoàn thiện thể
chế, thiết chế (các cơ quan tiến hành tố tụng) cũng như các thiết chế gia đình - xã hội
đối với người chưa thành niên.
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Thủ tục xét xử những vụ án mà bị cáo là người
chưa thành niên: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, của tác giả Nguyễn Thu
Huyền, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2007 [26]. Ở luận văn này, học viên
nhận thấy tác giả đã nghiên cứu và nêu ra các quy định pháp của pháp luật về trình tự
thủ tục xét xử VAHS đối với người chưa thành niên, tác giả đã trình bày thực tiễn áp
6


dụng pháp luật TTHS trong quá trình giải quyết vụ án mà bị cáo là người chưa thành
niên trên phạm vi cả nước; nêu ra những tồn tại, hạn chế, vướng mắc và tìm ra
những phương hướng để giải quyết sao cho phù hợp trong quá trình áp dụng pháp
luật tố tụng đối với người chưa thành niên.
- Luận văn Thạc sĩ luật học: “Hiệu quả phòng ngừa người chưa thành niên
phạm tội ở tỉnh Vĩnh Phúc” của tác giả Phạm Quang Hùng, Viện Nhà nước và pháp
luật, Học Viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2010 [24]. Ở luận

văn này, học viên nhận thấy tác giả đã dùng lý luận về nhà nước và pháp luật để nêu
và phân tích về khái niệm người chưa thành niên phạm tội, các tiêu chí đánh giá và
các điều kiện bảo đảm hiệu quả phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội; tác giả
đã khái quát chung về sơ lược lịch sử và kinh nghiệm phòng ngừa người chưa thành
niên phạm tội ở địa phương tỉnh Vĩnh Phúc.
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành
niên theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam ”, của tác giả Đỗ Xuân Hồng, Khoa luật,
Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014 [23]. Ở luận văn này, học viên nhận thấy tác giả
đã nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
việc xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên; đưa ra những giải pháp góp
phần hoàn thiện những quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên
trong dự thảo BLTTHS mới (2015).
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người chưa
thành niên phạm tôi, từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, của tác giả Trần Thị Tuyết
Nhung, Viện hàn lâm, Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, năm
2016 [36]. Ở luận văn này, học viên nhận thấy tác giả nêu và phân tích về khái niệm
người chưa thành niên; những vấn đề chung về xét xử sơ thẩm VAHS đối với người
chưa thành niên phạm tội; liên hệ với thực tiễn xét xử sơ thẩm án hình sự người chưa
thành niên phạm tội và đưa ra một số giải pháp nhằm thực hiện tốt các quy định của
pháp luật về xét xử người chưa thành niên phạm tội ở địa phương thành phố Đà
Nẵng.
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị
cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn
7


thành phố Hồ Chí Minh”, của tác giả Phạm Hồng Khải, Viện hàn lâm, Khoa học xã
hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, năm 2017 [29]. Ở luận văn này, học viên
nhận thấy tác giả trình bày lý luận và khái quát về lịch sử phát triển của pháp luật về
thủ tục xét xử người dưới 18 tuổi, nêu nên thực trạng và đưa ra một số giải pháp

nhằm thực tốt thủ tục xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi ở
địa phương thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị
cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng”, của tác giả Bùi Thị Dung, Viện hàn lâm, Khoa học xã hội Việt
Nam, Học viện khoa học xã hội, năm 2017 [15]. Ở luận văn này, học viên nhân thấy
tác giả nêu và phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của thủ tục xét xử
người dưới 18 tuổi phạm tội; tác giả luận vặn đã chỉ ra những điểm khác biệt giữa
thủ tục xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội với thủ tục xét xử khác; nêu khái quát về
lịch sử phát triển của pháp luật về thủ tục xét xử người dưới 18 tuổi, nêu nên thực
trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm thực tốt thủ tục xét xử sơ thẩm VAHS đối với
bị cáo là người dưới 18 tuổi ở địa phương thành phố Đà Nẵng.
Học viên nhận thấy tất cả các công trình nghiên cứu và đề tài khoa học nêu
trên đều là những công trình có giá trị về mặt lý luận khoa học và thực tiễn, tuy
nhiên, nội dung các đề tài chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên cứu những vấn đề lý
luận chung về phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên và người dưới 18 tuổi
thực hiện hoặc là đề cập đến quá trình giải quyết vụ án mà bị can, bị cáo là người
chưa thành niên và người dưới 18 tuổi phạm tội trong cả các giai đoạn điều tra, truy
tố, xét xử cho đến thi hành án trong một phạm vi khoảng thời gian nhất định hoặc là
có đề tài nghiên cứu nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm của toà án cấp huyện đối
với mọi đối tượng phạm tội đề cập đến những vấn đề liên quan đến xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự của người chưa thành niên phạm tội và người dưới 18 tuổi. Vì vậy,
theo đánh giá của học viên, mặc dù có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến
người dưới 18 tuổi phạm tội. Nhưng chưa có một công trình nghiên cứu khoa học
nào nghiên cứu độc lập toàn diện về công tác xét xử sơ thẩm vụ hình sự đối với bị

8


cáo là người dưới 18 tuổi trên phạm vi toàn quốc trên cơ sở đối chiếu BLHS năm

1999 và BLHS năm 2015, BLTTHS 2003 và BLTTHS năm 2015.
Để nghiên cứu và thực hiện Luận văn “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo
là người dưới 18 tuổi”, học viên đã tham khảo, kế thừa có chọn lọc kết quả của các
công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố trên đây
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu về lí luận cũng như thực tiễn xét xử sơ thẩm VAHS đối
với bị cáo là người dưới 18 tuổi, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và
bảo đảm thực hiện các quy định của BLTTHS năm 2015 về xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về việc xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; xây dựng khái niệm xét xử sơ thẩm VAHS
mà bị cáo là người dưới 18 tuổi ở góc độ là thủ tục tố tụng, ý nghĩa của thủ tục xét
xử sơ thẩm VAHS mà bị cáo là người dưới 18 tuổi.
- Phân tích, đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2015 về xét xử sơ thẩm
VAHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi; so sánh các quy định này với quy định
của BLTTHS năm 2003 để thấy được những điểm mới;
- Phân tích làm rõ thực tiễn xét xử VAHS mà bị cáo là người dưới 18 trong
thời gian 5 năm (từ 2012 - 2017). Tập trung xác định những hạn chế, vướng mắc, tìm
ra nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn xét xử sơ thẩm VAHS
đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.
- Đề xuất sửa đổi, bổ sung BLTTHS về xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo
là người dưới 18 tuổi và đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật khác có
liên quan; đồng thời đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện quy định pháp luật về
xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi như giải thích, hướng dẫn pháp
luật, nâng cao năng lực đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân; kiện toàn bộ máy
TAND và một số giải pháp khác.
9



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm VAHS đối với
bị cáo là người dưới 18 tuổi và thực tiễn xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là
người dưới 18 tuổi ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về lí luận, luận văn nghiên cứu về cơ sở lí luận và thực tiễn của xét xử sơ
thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi; khái niệm và ý nghĩa của xét xử sơ
thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.
- Về pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu những quy định về thủ tục tố
tụng đặc biệt trong việc Xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi
trong BLTTHS năm 2015, so sánh với BLTTHS năm 2003.
- Về thực tiễn thi hành, do BLTTHS năm 2015 chưa có thực tiễn thi hành,
nên luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 trong 05 năm (20122017) trên phạm vi cả nước. Việc nghiên cứu này vẫn có ý nghĩa khi xác định trong
số những nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc về mặt PL có nguyên nhân nào còn
tồn tại chưa được BLTTHS năm 2015 khắc phục, trên cơ sở đó tiếp tục đề xuất hoàn
thiện pháp luật. Ngoài ra, việc nghiên cứu thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 vẫn
giúp chúng ta xác định được những nguyên nhân khách quan, chủ quan khác dẫn đến
những hạn chế, vướng mắc trong việc xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là người
dưới 18 tuổi, để từ đó đề xuất giải pháp khắc phục. Luận văn chỉ nghiên cứu thực
tiễn xét xử sơ thẩm VAHS đối với người dưới 18 tuổi của TAND, không nghiên cứu
thực tiễn xét xử sơ thẩm VAHS đối với người dưới 18 tuổi của Tòa án quân sự (về lý
thuyết, Tòa án quân sự vẫn có quyền xét xử người dưới 18 tuổi trong trường hợp
nhập vụ án hoặc gây thiệt hại cho quân đội hoặc liên quan đến bộ máy quân sự...).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng các phương pháp luận của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng,
Chủ nghĩa Duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng Cộng Sản

Việt Nam về nhà nước và pháp luật và quyền con người, quyền công dân; nhất là các
10


quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp đến năm 2020 và hệ thống các
quan điểm của Đảng, Nhà nước xử lý người dưới 18 tuổi phạm pháp hình sự nói
chung và xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết khi nghiên
cứu những vấn đề lí luận; sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, và
phương pháp phân tích và tổng hợp khi nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt
Nam và một số nước; áp dụng phương pháp phân tích và tổng hợp thực tiễn, phương
pháp chuyên gia, phương pháp lựa chọn điển hình khi nghiên cứu thực tiễn xét xử sơ
thẩm VAHS đối với bị cáo là người người dưới 18 tuổi; luận văn sử dụng phương
pháp lí luận kết hợp với thực tiễn và phương pháp loogic để đưa ra giải pháp hoàn
thiện bảo đảm thực hiện quy định của BLTTHS năm 2015 về xét xử sơ thẩm VAHS
mà bị cáo là người dưới 18 tuổi.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về ý nghĩa lý luận
Luận văn khái quát những vấn đề lý luận về những qui định của pháp luật,
chính sách của Đảng và Nhà nước trong xét xử sơ thẩm VAHS đối với người dưới 18
tuổi phạm tội trong TTHS Việt Nam; đồng thời góp phần hoàn thiện phong phú hơn
về mặt lý luận và hoàn thiện pháp luật trong việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối
với bị cáo là người dưới 18 tuổi.
6.2. về ý nghĩa thực tiễn
- Từ việc nghiên cứu thực tiễn trong việc xét xử VAHS có bị cáo là người
dưới 18 tuổi, luận văn đã nêu lên những bất hợp lý và những vướng mắc trong việc
áp dụng các quy phạm PLTTHS trong thực tiễn xét xử các VAHS đối với bị cáo là
người dưới 18 tuổi; nêu ra những tồn tại, hạn chế trong công tác xét xử sơ thẩm
VAHS người dưới 18 tuổi của Toà án để từ đó đề xuất những giải pháp để hạn chế

phần nào những sai lầm, khuyết điểm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng, góp phần nâng cao chất lượng xét xử các VAHS mà bị cáo là người
dưới 18 tuổi.

11


- Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành
cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng
dạy pháp luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những
kiến thức chuyên sâu cho kiểm sát viên và thẩm phán đang công tác tại Viện kiểm sát
và Tòa án trong quá trình thụ lý giải quyết VAHS đối với bị cáo là người dưới 18
tuổi phạm tội được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 10 tiết.
Chương 1 : Một số vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo
là người dưới 18 tuổi
Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về xét xử sơ thẩm
án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi và thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về xét xử sơ thẩm án hình sự
đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.

12


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN

HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới
18 tuổi
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xét xử là từ Hán Việt, được hiểu là sự xem xét và phân xử của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền (Toà án). Theo Từ điển Tiếng Việt thì “xét xử” là việc “xét tội
lỗi rồi phân xử”. Như vậy, ý nghĩa của xét xử chính là việc một “người” nào đó đóng
vai trò chủ thể tiến hành xem xét sự việc, phân định phải trái rồi phán quyết [61].
Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp
và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động bảo vệ
pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp; trong đó, theo tinh thần
của Hiến pháp năm 2013, Tòa án được xác định là cơ quan thực hiện quyền tư pháp,
theo nghĩa chức năng xét xử của Tòa án có tính quyết định trong thực hiện quyền tư
pháp, còn hoạt động tư pháp của các cơ quan khác chỉ là nhằm thực hiện quyền tư
pháp.
Nói cách khác, xét xử là chức năng được pháp luật giao duy nhất cho Toà án,
Tòa án nhân danh Nhà nước tiến hành việc xét xử. Theo quy định tại Điều 102 Hiến
pháp năm 2013:
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật
định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý,... [45].


Để phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 1 Luật tổ chức
TAND năm 2014 cũng quy định "Tòa án Nhân dân Tối cao, các Tòa án Nhân dân địa
phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử
của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Các Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân

sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc
khác theo quy định của pháp luật”. Còn tại Điều 9 BLTTHS năm 2003 quy định:
“Không ai bị coi là có tội và phải chỉ hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật”.
Theo Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của trường Đại học
Quốc gia Hà Nội thì giai đoạn tố tụng hình sự được hiểu: Là bước của quá trình tố
tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của
từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình
sự một cách công minh, khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố
pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân
[18].
Việc xét xử của Tòa án được thực hiện không chỉ đối với VAHS mà còn xét xử
các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh thương mại, hành
chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Đối tượng xét xử là
yếu tố để phân định sự khác nhau giữa xét xử VAHS với xét xử các loại án khác. Đối
tượng xét xử của VAHS là tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Việc Tòa
án tiến hành các thủ tục xét xử VAHS được gọi chung là hoạt động xét xử hình sự.
Theo các quy định trên, thì xét xử là một hoạt động đặc thù của Nhà nước, là
chức năng được Nhà nước giao cho một chủ thể duy nhất thực hiện đó là Tòa án.
Việc tuyên bố một người là có tội và phải chịu hình phạt nhất thiết phải được thực
hiện thông qua hoạt động xét xử và quyết định bằng một bản án. Như vậy, xét xử là
hoạt động của Tòa án nhân danh Nhà nước để xem xét và ra phán quyết đối với các


vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành
chính.
Việc xét xử phải được tiến hành tuân thủ các trình tự thủ tục (như thụ lý hồ sơ,
nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị xét xử, xét xử tại phiên tòa) theo quy định của pháp luật.
Hoạt động xét xử VAHS tại phiên tòa bắt buộc phải tiến hành thông qua các thủ tục

bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận, nghị án, tuyên án và phải tuân thủ các nguyên
tắc: Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án
xét xử công khai, trực tiếp, bằng lời nói và liên tục; Tòa án xét xử tập thể và quyết
định theo đa số; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật;... . Thông qua các thủ
tục tố tụng do pháp luật luật quy định, căn cứ vào các quy định của pháp luật nội
dung (luật hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình,...), Tòa án (HĐXX) nhân danh Nhà
nước ra bản án để phán xét một hành vi nào đó là tội phạm và áp dụng hình phạt đối
với người phạm tội; phán quyết về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi;
xác định tính có căn cứ hay không đối với các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể,...
Xét về bản chất thì hoạt động xét xử của Tòa án theo chức năng Hiến định
chính là hoạt động áp dụng pháp luật. Xét xử được hiểu là một quá trình áp dụng
pháp luật của Tòa án nhân danh Nhà nước nhằm xem xét và ra phán quyết về các vụ
án. Để đảm bảo cho việc xét xử được khách quan, công bằng, nghiêm minh và đúng
pháp luật, theo quy định của pháp luật hoạt động xét xử của Tòa án được tiến hành
theo các thủ tục: sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Theo nguyên tắc
thực hiện chế độ hai cấp xét xử, bản án và quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị
kháng cáo, kháng nghị theo t nh tự phúc thẩm. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị
kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định th có hiệu lực pháp luật nhưng nếu có
kháng cáo, kháng nghị hợp pháp th vụ án phải được xét xử phúc thẩm.
Như vậy, xét xử h nh sự sơ thẩm là cấp thủ tục xét xử l n đ u do T a án có thẩm
quyền tiến hành đối với vụ án h nh sự nhằm xử lý tội phạm nghiêm minh và giải
quyết tất cả các vấn đề về trách nhiệm pháp lý phát sinh từ hành vi phạm tội. Đây


cũng là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng hình sự và được bắt đầu từ thời
điểm Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án và kết thúc khi Tòa án ra bản án hình sự sơ thẩm kết
tội bị cáo hoặc tuyên không phạm tội. So với các giai đoạn (thủ tục) xét xử khác, ở
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hầu hết những người tham gia tố tụng đều được triệu
tập để tham gia phiên tòa và tất cả các nguyên tắc của pháp luật hình sự và tố tụng

hình sự đều được áp dụng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, không phải mọi trường hợp xét
xử sơ thẩm đều là xét xử lần đầu, trường hợp Tòa án có thẩm quyền xem xét, xét xử
và quyết định hủy bản án để điều tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại (Điều 250, 287, 300
BLTTHS năm 2003) thì lúc đó việc xét xử sơ thẩm không còn là xét xử lần đầu.
*

Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo dưới 18 tuổi.

Với vai trò và thẩm quyền hiến định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (Điều 102
Hiến pháp năm 2013), chỉ tòa án với bản án của mình mới có thẩm quyền coi một
người có tội và phải chịu hình phạt hay không đòi hỏi phải đưa họ ra xét xử trước
phiên tòa, trước hết là ở phiên tòa sơ thẩm. Trong khoa học Luật TTHS, phiên tòa xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu là giai đoạn TTHS quan trọng do Tòa án thực
hiện lần đầu ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh giá toàn diện chứng cứ, các
tài liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở đó ra bản án, quyết định để xác định có hành vi
phạm tội hay không, người thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác
có liên quan trong vụ án hình sự. Hoạt động tố tụng giải quyết vụ án hình sự được
thể hiện tập trung cao nhất là hoạt động xét xử tại phiên tòa, bởi vì tại phiên tòa, sau
khi nghiêm cứu khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết, chứng cứ của vụ án
một cách công khai thông qua hoạt động xét hỏi và tranh luận, HĐXX xác định một
người có tội hay không, hình phạt và biện pháp tư pháp đối với họ, dựa trên những
căn cứ, theo những trình tự do pháp luật TTHS quy định.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử cấp thứ nhất do tòa án có thẩm quyền
thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo BLTTHS năm 2015, thủ tục, trình tự tố
tong đối với người dưới 18 tội phạm tôI là thủ tục đặc biệt.


Với những nội dung trên, “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là
người dưới 18 tuổi là việc xét xử vụ án hình sự theo thủ tục tố tong đặc biệt, mà bị

cáo trong phiên tòa là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, do tòa án có thẩm
quyền mở ra lần đầu ở cấp thứ nhất để xem xét, đánh giá họ có tội hay không có tôI
theo cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.”
1.1.2.

Khái niệm bị cáo là người dưới 18 tuổi

Khái niệm bị cáo
Trong lịch sử Việt Nam, việc nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng ra đời,
đã chấm dứt tình trạng sinh hoạt trì trệ, nguyên thủy, mở ra một kỷ nguyên mới, để
lại dấu ấn rất rõ vào các mặt sinh hoạt của dân tộc Việt Nam. Cùng với lịch sự dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta là sự phát triển của cả một hệ thống pháp luật, trong
đó có pháp luật TTHS. Pháp luật TTHS được hình thành từ thời Hùng Vương nhưng
rất mờ nhạt. Bước sang các giai đoạn của các triều đại như Ngô, Đinh, Lý, Trần cũng
không đề cập đến khái niệm bị cáo cũng như thuật ngữ bị cáo trong pháp luật TTHS
của mình. Thuật ngữ “bị cáo” đầu tiên xuất hiện trong pháp luật tố tụng thời Lê Sơ:
lời khai của người làm chứng, bị can, bị cáo và biện pháp thu thập chứng cứ là lấy
lời khai người làm chứng, hỏi cung bị can, đối chất..., nhưng vẫn chưa có một khái
niệm, định nghĩa nào về thuật ngữ bị cáo. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, cho
đến sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được kí kết, miền Bắc hoàn
toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị.
Pháp luật TTHS miền Bắc được hình thành. Đây là lần đầu có một định nghĩa pháp
lý về thuật ngữ “bị cáo”.
Trong Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm theo Thông
tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao, đã đưa ra định nghĩa
pháp lý của khái niệm bị cáo: theo đó "Bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình
sự trước Tòa án nhân dân. Trong giai đoạn xét xử, Tòa án nhân dân chỉ được đưa
một người ra xét xử với tư cách là bị cáo, nếu Viện Kiểm sát nhân dân đã truy tố
người đó trước Tòa án nhân dân; nếu Viện Kiểm sát không truy tố thì Tòa án nhân



dân không được xét xử một người với tư cách là bị cáo, trừ những người mà Tòa án
nhân dân xét xử về những việc hình sự nhỏ ”. [56]
Sau khi đất nước Việt Nam thống nhất cho đến nay đã có nhiều BLTTHS,
nghị quyết, thông tư được ban hành, sửa đổi, bổ sung. Hiện nay, nhà nước ta đang sử
dụng BLTTHS năm 2015. Điều 61 khoản 1 BLTTHS năm 2015 có nêu khái niệm:
“Bị cáo là người... đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”. [44]. Như vậy, thời điểm
bị can trở thành bị cáo là thời điểm thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Trước hết, cần tìm hiểu khái niệm về người chưa thành niên. Dựa trên đặc
điểm tâm sinh lý người chưa thành niên, pháp luật quốc tế và pháp luật mỗi quốc gia
đã đưa ra giới hạn về độ tuổi làm cơ sở xác định một đối tượng là người chưa thành
niên.
Điều 1 - Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (United Nations
Convention on the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua
ngày 20/11/1989 quy định: “Trong phạm vi công ước này, Trẻ em có nghĩa là người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành
niên sớm hơn”.
Quy tắc 2.2 - Quy tắc tối thiểu của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng chính
sách pháp luật đối với người chưa thành niên còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh (United
Nations Standard Minium Rules for the Administration of Juvenile Justice/Beijing
Rules) được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 29/11/1985 đưa ra định 7
nghĩa: “Người chưa thành niên là trẻ em hoặc người ít tuổi tùy theo từng hệ thống
pháp luật” [5].
Như vậy theo pháp luật quốc tế, “Người chưa thành niên” đồng nhất với “Trẻ
em” và được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật quốc gia quy
định khác. Theo quan niệm quốc tế thì dựa vào độ tuổi để xác định trẻ em, người



chưa thành niên, thành niên... Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm người chưa thành
niên được hiểu như sau:
Theo từ điển tiếng Việt thì: “Người chưa thành niên là người chưa phát triển
đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và
nghĩa vụ công dân” [61]. Khái niệm này, có thể hiểu là người chưa thành niên là
người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện thể lực, trí tuệ, tinh thần có nghĩa là ở lứa
tuổi này họ chưa phải là người lớn nhưng cũng không còn là trẻ con. Đây là giai
đoạn diễn ra những biến cố rất đặc biệt, đó là sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên
người chưa thành niên rất dễ bị kích động, dễ nổi nóng cho nên họ có những phản
ứng nóng nảy, vô cớ, những hành vi bất thường.
Theo Điều 1 Thông tư

liên tịch số: 01/2011/TTLT-VKSNDTC-

TANDTCBCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011 của VKSNDTC, TANDTC, Bộ
Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, hướng dẫn thi hành
một số quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành
niên, thì: “Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm
thần, là những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là khi họ tham gia tố tụng trong
quá trình giải quyết các vụ án... ” [59].
Điều 68 BLHS năm 1999 quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của
Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái
với những quy định của Chương này” [40].
Chuyển tiếp và kế thừa BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 đã có một số
sửa đổi, bổ sung về quy định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, thay thế
cụm từ người chưa thành niên thành người dưới 18 tuổi, Điều 90 BLHS năm 2015
quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo
những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật
này không trái với quy định của Chương này” [44]. Như vậy, BLHS năm 2015 cũng



không có quy định gì khác hơn so với BLHS năm 1999 về độ tuổi chịu TNHS của
người chưa thành niên.
Điều 18 BLDS năm 2005 quy định: “Người chưa đủ mười tám tuổi là người
chưa thành niên” [39]. Điều 161 Bộ luật lao động năm 2012 quy định: “Người lao
động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác đều quy định tuổi của người chưa
thành niên là dưới 18 tuổi. Các quy định trên đều cho thấy sự thống nhất khi quy
định về độ tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi.
Tuy nhiên, khác với quan niệm quốc tế, pháp luật Việt Nam có sự phân định
hai khái niệm “Người chưa thành niên” và “Trẻ em”. Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: “Trẻ em là công dân Việt nam dưới 16 tuổi”.
Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [48]. Như
vậy, trẻ em là NCTN nhưng NCTN không hẳn là trẻ em vì một bộ phận người chưa
thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không phải là trẻ em.
Tóm lại, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi,
chưa phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ
pháp lý như người đã thành niên.
Điều 12 của BLHS năm 1999 quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa
đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy, chỉ những NCTN từ đủ 14 tuổi trở lên
mới phải chịu TNHS về hành vi phạm tội, còn NCTN dưới 14 tuổi thì không phải
chịu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi
tội phạm, còn người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS
về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Điều 12 của BLHS năm 2015 quy định bổ sung loại tội cụ thể mà người từ đủ
14 tuổi trở 9 lên, chưa đủ 16 tuổi phải chịu. Vì trong độ tuổi này họ chưa làm chủ
được bản thân nên khi thực hiện hành vi phạm tội họ không phải chịu TNHS, không



tính lỗi khi thực hiện hành vi. Quy định này là một trong những bổ sung giúp NCTN
nhận thức tốt hơn về những điều mà pháp luật ngăn cấm, nâng cao hiệu quả giáo dục
phòng ngừa.
Như vậy, từ những phân tích đánh giá nêu trên, theo học viên khái niệm về bị
cáo là người dưới 18 tuổi nên hiểu: “Là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi vi
phạm pháp luật hình sự bị Viện kiểm sát ra quyết định truy tố và bị Tòa án ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử về một tội phạm hình sự theo quy định của pháp luật”.
Từ phân tích ở mục 1.1.1 và 1.1.2 của luận văn, học viên nhận thấy pháp luật
nói chung và pháp luật hình sự nói riêng luôn luôn coi người dưới 18 tuổi là trẻ em
hoặc là người chưa thành niên, là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ không chỉ
trong cuộc sống hàng ngày mà ngay cả khi quyền trẻ em bị xâm phạm cần được bảo
vệ hoặc khi đối tượng này vi phạm pháp luật. Luật hình sự bảo vệ người dưới 18 tuổi
bị coi là người phạm tội và cũng quy định một chế tài riêng để xử lý thủ tục tố tụng
cũng phải phù hợp với lứa tuổi dươi 18 tuổi nhằm thể hiện tính nhân đạo trong chính
sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy BLTTHS năm 2015 đã có một phần:
Phần thứ bảy Thủ tục đặc biệt và một chương riêng (Chương XXVIII) quy định về
thủ tục tố tụng đối với vụ án mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người dươi 18
tuổi. Tuy nhiên, trong Điều 413 BLTTHS năm 2015 quy định về phạm vi áp dụng:
Thủ tục tố tụng đối với người bị buộc tội ... là người dưới 18 tuổi, nhà làm luật
không hề ghi nhận khái niệm pháp lý thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội là gì? Qua nghiên cứu các quy định về thủ tục tố tụng hình đối với người
dưới 18 tuổi trong Chương XXVIII BLTTHS năm 2015 [44], học viên thấy: Các quy
định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có những đặc trưng so
với thủ tục tố tụng áp dụng đối với trên 18 tuổi (người thành niên). Những đặc trưng
này thể hiện ở các quy định về tiêu chuẩn của người THTT, về đối tượng phải chứng
minh, về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, về việc bào chữa, việc tham gia của gia
đình, nhà trường và tổ chức xã hội vào tố tụng cũng như công tác xét xử và thi hành



án. BLTTHS cũng quy định các quyền tố tụng và bảo đảm cho việc điều tra, truy tố,
xét xử vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật đối với đối tượng này.
Như vậy, có thể hiểu khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là
người dưới 18 tuổi theo pháp luật TTHS Việt Nam: “Là thủ tục đặc biệt do Tòa án
có thẩm quyền thực hiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bị Tòa án quyết định
đưa ra xét xử hình sự cấp thứ nhất một cách khách quan, toàn diện và đúng pháp
luật, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo trong hoạt động xét
xử”.
1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị
cáo là người dưới 18 tuổi
1.2.1. Cơ sở lý luật
- Về đặc điểm tâm sinh lý
Người dưới 18 tuổi là người ở độ tuổi chuyển tiếp của sự tăng trưởng, phát
triển từ độ tuổi “trẻ em” đến thời điểm bắt đầu của tuổi trưởng thành, đây là giai
đoạn thay đổi quan trọng nhất về thể chất, cảm xúc và ý thức xã hội diễn ra ở mỗi cá
nhân. Sự tăng trưởng của các tuyến nội tiết đã thúc đẩy phát triển các bộ phận cơ thể
trưởng thành theo một trình tự nhất định. Đây là giai đoạn “quá độ”, sự phát triển
tâm lý rất phức tạp, mẫn cảm, dễ thay đổi và khó lường trước. Tâm lý học xác định
quá trình hình thành và phát triển của người dưới 18 tuổi phụ thuộc mạnh mẽ về tâm
sinh lý, tùy thuộc độ tuổi, nhưng ở mức độ không đồng đều và với những dấu hiệu
tâm sinh lý rất khác nhau ở mỗi giới tính; đồng thời có thể bị phân hóa để tạo thành
tính cách khác nhau khi bị tác động bởi những môi trường, điều kiện, hoàn cảnh
khác nhau.
Xuất phát từ những đặc điểm riêng của sự phát triển tâm sinh lý đó, nên khi
người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thường xuất phát từ nhiều
yếu tố khác nhau và do đó, vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi có các đặc
điểm, cơ chế khác với hành vi vi phạm pháp luật của người đã trên 18 tuổi.



Đối với những người dưới 18 tuổi có điều kiện, mức sống bình thường thì
hoạt động xã hội của họ ở giai đoạn này chủ yếu là môi trường học tập tại nhà
trường. Sự giao tiếp bạn bè cùng lứa và các mối quan hệ cá nhân ngày càng gắn bó,
mở rộng và chịu ảnh hưởng từ quan hệ bạn bè rất mạnh, thậm chí là nghe theo lời
bạn nhiều hơn nghe lời khuyên can của cha mẹ, gia đình. Tính cách của các em
thường phát triển theo khuynh hướng thích chứng tỏ “đã” là người lớn và mong
muốn người xung quanh thừa nhận; do vậy, thường gặp sai lầm trong khi muốn xử lý
gấp mọi vấn đề khó khăn gặp phải, nhằm chứng tỏ sự trưởng thành của mình. Nhiều
trường hợp người dưới 18 tuổi ở giai đoạn này đã tỏ ra khó chịu, tự ái, thậm chí trở
nên hung dữ khi bị coi là còn con nít hoặc bị người lớn gọi là “chú bé”, “cô bé”. Sự
tự trọng thái quá trở thành tự tôn hay tự ti, mặc cảm và khi bị xúc phạm, dễ có tâm lý
tiêu cực, mà hệ quả thông thường là phản ứng bằng những hành vi sai trái hoặc hành
vi vi phạm pháp luật. Những người dưới 18 tuổi này thường thiếu tự chủ, luôn hướng
tới sự ham thích mới lạ, hiếu động, bồng bột và dễ sa ngã. Nhiều em dễ bị kích động,
dễ bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, muốn trở thành “người
hùng” để bạn bè khâm phục. Những em bị mặc cảm do kết quả học tập sa sút và bị
thầy cô, gia đình khiển trách, bạn bè chế giễu... cũng dễ có hành vi sai trái hoặc hành
vi vi phạm pháp luật. Khác với người trên 18 tuổi (hay còn gọi là người thành niên)
khi vi phạm pháp luật luôn có động cơ, mục đích cụ thể, thì những người dưới 18
tuổi thường vi phạm pháp luật với suy nghĩ rất đơn giản, thậm chí chỉ do nguyên
nhân hiếu thắng, không tự chủ mà họ đã gây ra nhiều vụ vi phạm pháp luật rất
nghiêm trọng và họ thường có xu hướng sử dụng bạo lực thể chất, như gây rối trật tự
công cộng, cố ý gây thương tích...
Như vậy, đặc điểm trước hết trong vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi
hầu hết là do tác động của môi trường, điều này cũng giải thích vì sao động cơ, mục
đích vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi thường là bột phát, nhất thời và không
rõ ràng. Cũng do hành động a dua, hùa theo bạn bè làm trái pháp luật, nên vi phạm
pháp luật của người dưới 18 tuổi còn có yếu tố vi phạm tập thể, tuy chưa đến mức vi



phạm pháp luật có tổ chức (vì thiếu dấu hiệu thống nhất ý chí, phân công thực
hiện...), nhưng là cách thức nhiều người cùng thực hiện một loại hành vi trái pháp
luật, điều này thể hiện rõ nhất trong các vụ gây rối trật tự công cộng, đua xe trái
phép.
Đặc điểm này giúp ta khái quát được nguyên nhân cơ bản dẫn đến vi phạm
pháp luật của người dưới 18 tuổi, từ đó có biện pháp chủ động trong ngăn chặn,
phòng ngừa vi phạm, tội phạm ở các lứa tuổi dưới 18 tuổi.
Người trên 18 tuổi khi thực hiện hành vi trái pháp luật vì kiếm lợi bất chính thì cách
thức, thủ đoạn tiến hành thường được chuẩn bị trước, có khi rất tinh vi, phức tạp và
quyết tâm hoàn thành hành vi dù có trở ngại khách quan. Trái lại, đối với người dưới
18 tuổi, nhất là những em có hoàn cảnh đặc biệt, như khuyết tật, mồ côi, không nơi
nương tựa, bị bỏ rơi, bỏ nhà sống lang thang, những em là nạn nhân của bạo lực gia
đình, nạn nhân của nghiện ngập ma túy; những em có thói quen đua đòi mua sắm,
tiêu xài sang trọng... thì cách thức, hành vi vi phạm pháp luật đơn giản hơn nhiều. Vì
các em này thường bị áp lực do lệ thuộc về vật chất, nghiện ngập, nên dễ bị người
trên 18 tuổi điều khiển, sai khiến hoặc tự mình tham gia những việc làm trái pháp
luật như mua bán ma túy, trộm cắp, cướp, cướp giật và giết người để chiếm đoạt tài
sản, có thể có đồng phạm cùng tham gia, nhưng chỉ là vi phạm pháp luật mang tính
tổ chức giản đơn nên quyết tâm vi phạm pháp luật không cao. Và khi thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật do bị người khác điều khiển, xúi giục hoặc vì nhu cầu vật chất
cá nhân thì hành vi vi phạm pháp luật của các em thường có đặc điểm dễ nhận thấy
là hành động phạm pháp đơn giản, nhanh lẹ vội vã và ít có quyết tâm thực hiện đến
cùng nếu bị ngăn trở. Mặt khác, cũng do độ tuổi nên khi phạm pháp, các em thường
không lường trước, lường hết được sự nguy hiểm, tác động và hậu quả của hành vi
mà mình sẽ thực hiện; nhiều trường hợp làm trái pháp luật, có hậu quả nghiêm trọng
xảy ra, được người lớn giải thích các em mới biết sai trái của mình.
Nghiên cứu thấu đáo đặc điểm này sẽ giúp xem xét dấu hiệu lỗi trong mặt
chủ quan của hành vi vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi. Khi là lỗi cố ý trực



tiếp thì mới có căn cứ quy kết hành vi trái pháp luật của họ là vi phạm pháp luật và
xác định trách nhiệm pháp lý; còn nếu là lỗi gián tiếp hay lỗi vô ý thì sẽ không cấu
thành vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi, nhất là đối với trẻ em theo các quy
định của pháp luật về độ tuổi.
Khi hiểu rõ những đặc điểm của người dưới 18 tuổi sẽ giúp cho cơ quan,
người có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi có nhận thức
đúng đắn về hành vi vi phạm pháp luật của họ và từ đó thực hiện áp dụng biện pháp
xử lý phù hợp. Theo quy định của pháp luật, người dưới 18 tuổi chỉ được thừa nhận
là chủ thể có quyền và nghĩa vụ trong một số quan hệ xã hội nhất định như: Hợp
đồng lao động dịch vụ, lao động giản đơn... Vì lý do đó, trong thực tế đời sống, sinh
hoạt, người dưới 18 tuổi chỉ có khả năng, điều kiện tham gia trong một số môi
trường xã hội nhất định, hay nói theo quan điểm cấu thành vi phạm thì người dưới 18
tuổi chỉ có thể có điều kiện xâm hại một số khách thể nhất định được pháp luật bảo
vệ, như: Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, trật tự công cộng,
quyền sở hữu; Còn một số những những quan hệ xã hội mà dù có cố ý, thì người
dưới 18 tuổi cũng không thể tham gia hoặc không thể có điều kiện thực hiện hành vi
trái pháp luật, như trong các quan hệ pháp luật về chức vụ, về các hoạt động tư pháp
hoặc quản lý kinh tế...; như vậy, vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi còn có
đặc điểm là chỉ có thể xảy ra trong những môi trường, hay nói cách khác là trong
một số quan hệ xã hội nhất định.
Chính sách hình sự trong TTHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội
nhằm bảo đảm một cách tốt nhất quyền bào chữa cho đối tượng này, hạn chế một
cách tối đa việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế, hạn chế một cách thấp nhất
những tác động không thể tránh khỏi về tâm lý đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi
do hoạt động tố tụng hình sự gây ra, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm
rõ những nguyên nhân, điều kiện phạm tội của họ để Tòa án có thể xét xử và tuyên
bản án có tác động tích cực nhất đến tâm lý của đối tượng này. Vì thế, trong tất cả
các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi,



×