Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN THỊ TRANG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TỪ
THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN THỊ TRANG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH SƠN LA
Ngành:

Luật kinh tế

Mã số:

838 01 07



LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ NGỌC HIỂN

Hà Nội, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của TS. Hồ Ngọc Hiển. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.Những số liệu trong bài phục vụ cho
việc phân tích, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ
trong phần tài liệu tham khảo.Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét,
đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn
và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về nội dung luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phan Thị Trang


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

KDTM


Kinh doanh thương mại

TAND

Tòa án nhân dân

TTDS

Tố tụng dân sự


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN ........................................................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về tranh chấp kinh doanh, thương mại ........................ 7
1.2. Cơ sở pháp lý về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án 12
Chương 2 PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ
CÁC TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA .............................................. 25
2.1. Những nguyên tắc pháp lý cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án .............................................................................. 25
2.2 Những yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Tòa án .................................................................................................................. 31
2.3. Thực tiễn xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân
các cấp trên địa bàn tỉnh Sơn La. ........................................................................ 45
Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI

QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN
VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ TRANH
CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA 71
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại bằng Tòa án ...................................................................................... 71
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Sơn La......................... 74
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 81


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1: So sánh phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, Trọng tài, Hòa
giải, Thương lượng .............................................................................................. 15
Bảng 2: Phân loại theo loại vụ việc (quan hệ tranh chấp) .................................. 46
Bảng 3: Phân loại theo năm xét xử ..................................................................... 47
Bảng 4: Phân loại theo cấp xét xử ...................................................................... 48
Bảng 5: Số án phúc thẩm đã thụ lý theo loại án như sau: .................................. 48


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động kinh doanh, thương mại là một hoạt động có từ rất lâu trên thế
giới. Ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện các thương gia, các nhà buôn và giữa họ
diễn ra các hoạt động trao đổi hàng hoá. Chính các hoạt động này đã góp phần
không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc. Ngày
nay, khái niệm kinh doanh, thương mại ngày càng được hoàn thiện và mở rộng
hơn để phù hợp với sự phát triển của xã hội, nó không chỉ còn là một khái niệm
chung chung mà đã được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật. Hầu hết các

quốc gia đều có các văn bản pháp luật để điều chỉnh, mặc dù có thể tên gọi có
thể khác nhau và có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại
ngày càng phát triển. Ngày nay nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã tạo điều
kiện cho các quan hệ thương mại hình thành, phát triển đa dạng và phức tạp. Để
điều chỉnh và tạo khung pháp lý cho hoạt động KDTM của các doanh nghiệp,
Việt Nam đã ban hành hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh
doanh, thương mại trong đó có Bộ luật dân sự 2015, Luật Doanh nghiệp 2014,
Luật Thương mại 2005, Luật đầu tư 2014 và Luật trọng tài thương mại 2014…,
bước đầu đã giúp hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp phát triên toàn
diện hơn.
Cùng với sự phát triển đa dạng và phức tạp của các quan hệ kinh doanh,
thương mại thì việc xảy ra các tranh chấp trong quan hệ kinh doanh, thương mại
là điều tất yếu khách quan. Để giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương
mại các bên có thể lựa chọn một phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp dựa
trên các yếu tố như mục tiêu đạt được, mối quan hệ giữa các bên, thời gian và
chi phí…Theo pháp luật Việt Nam quy định thì có các phương thức giải quyết
tranh chấp trong kinh doanh sau: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại
và tòa án. Theo đó khi xảy ra tranh chấp các bên có thể trực tiếp thương lượng
với nhau để giải quyết, trường hợp không thương lượng được thì có thể thực
hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua hòa giải, trọng tài hoặc tòa án.
1


Mỗi phương thức đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng nhưng nhìn chung
đều hướng tới việc giải quyết xung đột giữa các bên, bảo vệ lợi ích hợp pháp và
chính đáng của các bên khi tham gia vào hoạt động kinh doanh thương mại.
Ở Việt Nam, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng
con đường toà án đang là phương thức giải quyết thông dụng và phổ biến hiện
nay. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng con đường toà án
mang tính cưỡng chế cao và các bên không cần phải có sự thoả thuận trước.

Trong quá trình học tập và kết hợp với thời gian công tác tại địa phương
mình thì em thấy được sự cần thiết của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại ở nước ta là vô cùng quan trọng, không chỉ bảo đảm quyền lợi, lợi
ích giữa các bên mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế
đất nước nói chung và của địa bàn tỉnh Sơn La nói riêng. Giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại sẽ góp phần lớn lao trong việc xây dựng môi trường
kinh doanh lành mạnh cho sự phát triển riêng của toàn bộ hệ thống tổ chức
doanh nghiệp trên toàn tỉnh.
Trong giai đoạn này, Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Sơn La cũng đã
đạt được những mục tiêu về kết quả nhất định trong công tác giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên trên thực tiễn thì công tác giải quyết
tranh chấp về kinh doanh, thương mại cũng đã gặp phải những vẫn đề vướng
mắc cần phải nghiên cứu và khắc phục. Như thực tiễn áp dụng pháp luật để giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại còn nhiều nhận thức khác nhau; nhiều
văn bản hướng dẫn các quy định về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại vẫn chưa có sự thống nhất...dẫn đến tình trạng có nhiều vụ án bị kéo dài thời
gian giải quyết, phải giải quyết qua nhiều cấp thẩm quyền; tình trạng bản án bị
sửa đổi, bỏ, hủy càng nhiều.Tình hình trên do nhiều nguyên nhân chủ quan và
nguyên nhân khách quan.
Với ý nghĩa góp phần giải đáp những yêu cầu nói trên, đóng góp những tri
thức lý luận nhằm phục vụ công tác nghiên cứu khoa học về pháp luật dân sự,
thương mại nói chung và nhằm nâng cao nhận thức về vai trò của Tòa án và các
2


quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại nói riêng, tác giả chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Sơn La”
làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ Luật Kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Thực tế trước đây đã có một số đề tài, công trình nghiên cứu khoa học
quan trọng về việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ở các cấp độ
khác nhau và theo nhiều khía cạnh khác nhau như: do nhà nước thực hiên “
Trọng tài kinh tế Nhà nước” do Bộ Tư pháp chủ trì; Luận văn thạc sĩ Luật học
của Nguyễn Thị Vân Anh về “ Giải quyết tranh chấp công ty bằng Tòa án ở Việt
Nam” ; Luận văn thạc sĩ của Cung Mỹ Anh về “ Giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự”...
Tất cả những công trình nêu trên chủ yếu đã tiếp cận được thực trạng về
quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ góc độ luật thực định,
nhưng vẫn còn một vài vấn đề chưa nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có
hệ thống cả trong tố tụng và ngoài tố tụng và đa phần chưa nghiên cứu sâu về
quá trình, trình tự tố tụng để giải quyết tranh chấp trên. KDTM tại các TAND
còn nhiều lúng túng, chưa có định hướng cụ thể. Vì vậy, rất cần thiết có nhiều
hơn nữa các nghiên cứu chuyên sâu về nội dung này, đặc biệt là những nghiên
cứu mang tính áp dụng thực tế.
Chính vì thế, việc nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Sơn La, sẽ đóng góp
định hướng sửa đổi hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực này để
phục vụ cho công tác của ngành TAND và VKSND, góp phần nâng cao hiệu
quả giải quyết tranh chấp KDTM trên thực tế là thật sự cần thiết và hoàn toàn
phù hợp với yêu cầu mới trong giai đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu các vấn đề
thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án - sẽ mang
tới những cái nhìn mới mẻ hơn về thực tiễn giải quyết loại tranh chấp này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3


3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành quả của các đề tài, công
trình nghiên cứu đi trước, luận văn hướng tới mục đích nghiên cứu sâu sắc

thêm về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng của các quy định của pháp luật về
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại thông qua việc nghiên cứu,
đánh giá việc giải quyết loại tranh chấp này trên địa bàn tỉnh Sơn La, từ đó đề
ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử các tranh chấp
kinh doanh, thương mại.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để làm sáng tỏ các mục đích nghiên cứu trên, luận văn đi vào thực hiện
những nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung của pháp luật Việt Nam về giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Nghiên cứu về thực tiễn xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
TAND trên địa bàn tỉnh Sơn La trong giai đoạn 4 năm (từ năm 2014 đến năm
2017).
Đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại và phương hướng hoàn thiện pháp luật tố tụng hiện nay
ở Việt Nam để phục vụ tốt hơn trong quá trình hội nhập kinh tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại từ thực tiễn xét xử tại
TAND trên địa bàn tỉnh Sơn La.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại TAND trên địa bàn tỉnh Sơn La trong giai đoạn 04 năm,
từ năm 2014 đến năm 2017.
Do điều kiện nghiên cứu và quá trình thực hiện còn hạn chế, luận văn
chỉ tập trung vào nghiên cứu thủ tục và trình tự giải quyết tranh chấp KDTM ở
4


giai đoạn sơ thẩm tại TAND trên địa bàn tỉnh Sơn La.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn giải quyết các nội dung khoa học của đề tài dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng của Triết học Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; các văn
bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành; các đề tài, công trình nghiên
cứu khoa học trước đó và các tài liệu tham khảo chuyên ngành. Đồng thời, luận
văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như: phương pháp
phân tích tổng hợp; phương pháp thống kê số liệu, phương pháp so sánh đối
chiếu, phương pháp logic, thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của tác giả dưới góc độ luật
dân sự, thương mại, có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn đối với công
tác giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn tỉnh Sơn La nói
riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
Về mặt lý luận, luận văn là công trình nghiên cứu góp phần hiểu rõ hơn về
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng phương thức Tòa án,
đồng thời luận văn còn có ý nghĩa góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu
tham khảo nhằm phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học pháp luật
dân sự, thương mại.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu thể hiện trong luận văn là tư liệu góp
phần giúp đỡ các cơ quan THTT và người THTT trên địa bàn tỉnh Sơn La cũng
như trên phạm vi toàn quốc áp dụng đúng các quy định của pháp luật về việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong thực tiễn, đóng góp cho việc
nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp KDTM và thống nhất áp dụng
pháp luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cơ cấu thành ba chương:
5



Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp kinh doanh, thương mại
và giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân.
Chương 2: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, thương mại bằng Tòa án ở
Việt Nam và thực tiễn xét xử các tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án
nhân dân trên địa bàn tỉnh Sơn La.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại bằng Tòa án và các giải pháp nâng cao chất lượng xét
xử tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn tỉnh Sơn La.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN
1.1.

Những vấn đề lý luận về tranh chấp kinh doanh, thương mại

1.1.1. Khái niệm kinh doanh, thương mại
a) Khái niệm kinh doanh
Kinh doanh là một trong những hoạt động phong phú nhất của loài người.
Hoạt động kinh doanh thường được thông qua các thể chế kinh doanh như công
ty, tập đoàn, tư nhân... nhưng cũng có thể là hoạt động tự thân của các cá nhân.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm kinh doanh. Tuy nhiên, bài
viết chỉ xét khái niệm kinh doanh dưới góc độ từ điển và dưới góc độ pháp lý.
Khái niệm hoạt động thương mại quy định tại khoản 1 Điều 3 LTM
2005:“Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm

mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Theo khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 có quy định: “Kinh
doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi”.
b) Khái niệm thương mại
Thuật ngữ “thương mại” ban đầu được dùng để chỉ các hoạt động buôn
bán của các thương gia. Chính vì thế, theo nghĩa hẹp khái niệm thương mại được
hiểu là hoạt động mua bán hàng hoá với mục đích kiếm lời. Cùng với quá trình
phát triển kinh tế thị trường, khái niệm thương mại được mở rộng dần sang các
lĩnh vực khác liên quan đến mua bán hàng hoá, ban đầu là các dịch vụ kèm theo
như vận tải, bảo hiểm, thanh toán…Đến nay, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới
khái niệm thương mại ngày càng được mở rộng ra với một nội hàm rộng lớn,
bao gồm tất cả các hoạt động nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ việc trao đổi
mua bán và sản xuất hàng hóa.
7


Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Tóm lại, Hoạt động kinh doanh, thương mại là hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác quy định tại Khoản 1 Điều 3
Luật Thương mại 2005.
1.1.2. Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại
Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ quen
thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Khái
niệm này được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây

cùng với sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen
thuộc của cơ chế kế hoạch hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý của
người Việt Nam....
Dưới góc độ pháp lý: Tranh chấp được hiểu là những xung đột, bất đồng
về quyền, quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ
pháp luật.
Tại điều 238 Luật Thương mại năm 1997 quy định “Tranh chấp thương
mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
hợp đồng trong hoạt động thương mại”.
Luật Thương mại 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 định
nghĩa “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đich sinh lợi khác” (điều 3 khoản 1 Luật Thương mại 2005)
nhưng không đưa ra khái niệm về tranh chấp kinh doanh thương mại. Tuy nhiên
lại đưa ra các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại.
Như vậy, có thể hiểu tranh chấp kinh doanh, thương mại là những mâu
thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể phát sinh trong việc thực hiện các hoạt động có
liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, đầu tư và thương mại.
Và theo quan điểm của tác giả, có thể định nghĩa một cách ngắn gọn đối
8


với tranh chấp kinh doanh, thương mại như sau: “Tranh chấp kinh doanh,
thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền lợi và nghĩa
vụ giữa các chủ thể tham gia các quá trình của hoạt động kinh doanh, thương
mại”.
1.1.3. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Từ những phân tích về cách hiểu của nội hàm tranh chấp KDTM như trên
có thể cho thấy tranh chấp KDTM là các tranh chấp bao hàm các đặc điểm pháp
lý sau:

Thứ nhất, chủ thể trong tranh chấp KDTM là các chủ thể tham gia hoạt
động KDTM bao gồm các chủ thể tham gia toàn bộ quá trình từ lao động sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm, cung ứng các dịch vụ trên thị trường, các hoạt động
xúc tiến, đầu tư thương mại, cung ứng dịch vụ trên thị trường và các hoạt động
khác với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Do đó, trên thực tế chủ thể của tranh
chấp KDTM có thể là thương nhân hoặc các nhà đầu tư khác.
Thứ hai, tranh chấp KDTM là tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện
các hoạt động KDTM giữa các chủ thể, khi ít nhất một bên cho là quyền và
nghĩa vụ hợp pháp của mình bị bên kia xâm phạm, và yêu cầu phải được giải
quyết.
Thứ ba, tranh chấp KDTM chủ yếu là những tranh chấp phát sinh trong
hợp đồng đã cam kết giữa các bên (hợp đồng thương mại, góp vốn thành lập
công ty, mua bán chứng khoán ...)
1.1.4. Nguyên nhân hình thành tranh chấp kinh doanh, thương mại
Trên thực tế, các tranh chấp kinh doanh, thương mại xảy ra rất đa dạng,
phức tạp, các tranh chấp này xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy
nhiên, ta có thể thấy, một số nguyên nhân cơ bản đó là:
Thứ nhất, do lợi nhuận;
Thứ hai, do hạn chế kiến thức pháp luật;
Thứ ba, do chưa có sự hoàn thiện của các quy định pháp luật điều chỉnh
quan hệ tranh chấp kinh doanh, thương mại.
1.1.5. Phân biệt tranh chấp kinh doanh, thương mại với tranh chấp dân
9


sự
Trên thực tế, các tranh chấp diễn ra trong hoạt động kinh doanh, thương
mại cũng như mua bán, trao đổi hàng hóa mang bản chất tương đương nhau,
đồng thời ranh giới giữa hai loại tranh chấp này lại khó xác định và khá phức
tạp. Tuy nhiên, đây lại là vấn đề khó khăn trong việc xác định thẩm quyền giải

quyết các tranh chấp này tại Tòa án. Do vậy, việc xác định một tranh chấp là
tranh chấp dân sự hay tranh chấp kinh doanh thương mại có ý nghĩa quan trọng
trong việc giải quyết vụ việc tranh chấp. Nếu xác định sai quan hệ pháp luật
tranh chấp sẽ dẫn đến áp dụng sai pháp luật nội dung đối với vụ việc.
Tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh doanh thương mại có thể phân biệt
ngắn gọn như sau:
- Tranh chấp dân sự là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể của luật dân
sự (cá nhân, pháp nhân) trong quan hệ pháp luật dân sự (về nhân thân và/hoặc
tài sản).
- Tranh chấp kinh doanh thương mại là tranh chấp phát sinh giữa các
thương nhân có đăng ký kinh doanh trong hoạt động thương mại, đầu tư, kinh
doanh.
Trong một số trường hợp, việc xác định đâu là tranh chấp dân sự và đâu là
tranh chấp kinh doanh thương mại khá phức tạp. Cụ thể:
(i) Tranh chấp phát sinh mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh
doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận.
Trường hợp này, nếu căn cứ theo Khoản 1 Điều 30 Bộ Luật Tố tụng Dân
sự 2015 thì đây được xác định là tranh chấp dân sự vì một bên hoặc các bên
thiếu điều kiện về chủ thể là có đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, việc xác định
như vậy có phần không hợp lý vì các lý do sau:
- Việc một bên hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh có thể do
nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan như: chưa kịp tiến hành đăng ký kinh
doanh; đã tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh nhưng chưa được cấp hoặc bị từ
chối cấp; cố ý vi phạm nghĩa vụ đăng ký kinh doanh của thương nhân.
Điều 7 Luật thương mại 2005 quy định về nghĩa vụ đăng ký kinh doanh
10


của thương nhân: “Thương nhân có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật. Trường hợp chưa đăng ký kinh doanh, thương nhân vẫn phải chịu

trách nhiệm về mọi hoạt động của mình theo quy định của Luật này và quy định
khác của pháp luật”. Như vậy, việc một bên hoặc các bên không/chưa có đăng
ký kinh doanh khi giao dịch không làm loại trừ trách nhiệm phát sinh từ giao
dịch.
- Các bên trong tranh chấp đều có mục đích lợi nhuận. Ý chí của các bên
khi tham gia giao dịch đều nhằm mục tiêu lợi nhuận nên dù không có đăng ký
kinh doanh, họ đều hiểu và chấp nhận những quy tắc của giao dịch thương mại.
- Việc xác định loại tranh chấp này là tranh chấp kinh doanh thương mại
phù hợp với hướng dẫn tại Điểm b Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 03/2012/NQHĐTP của Hội đồng thẩm phán: “Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết
các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29
và Điều 30 của BLTTDS; các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một
hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận”.
(ii) Tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại giữa các bên
đều có mục đích lợi nhuận mà chỉ một bên có đăng ký kinh doanh, bên còn
lại có các loại giấy tờ pháp lý khác không phải là đăng ký kinh doanh như:
Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, Giấy phép thành lập và hoạt động.
Đây là trường hợp mà bên không có đăng ký kinh doanh được thành lập
và hoạt động theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Trong các trường hợp
này, việc xác định loại tranh chấp cần căn cứ vào quy định tương ứng tại các văn
bản pháp luật khác.
Ví dụ 1: tranh chấp phát sinh giữa Tổ chức hành nghề luật sư (có Giấy
đăng ký hoạt động) với khách hàng là Doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp
(có đăng ký kinh doanh) trong việc cung ứng dịch vụ thì đây xác định là tranh
chấp dân sự theo Khoản 1 Điều 59 Luật Luật sư.
Ví dụ 2: tranh chấp phát sinh liên quan đến Hợp đồng BOT (Hợp đồng
Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao) giữa Nhà đầu tư là Doanh nghiệp có
đăng ký kinh doanh và Cơ quan có thẩm quyền (Bộ, UBND) được xác định là
11



tranh chấp thương mại theo quy định tại Khoản 4 Điều 63 Nghị định
15/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 về đầu tư theo hình thức đối tác
công tư. Nghị định này quy định: “Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài
theo quy định tại hợp đồng dự án và các hợp đồng liên quan là tranh chấp
thương mại”. Ngoài ra, cần lưu ý là cũng tồn tại một số ít loại hình tổ chức đặc
thù vừa có Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động vừa có đăng ký kinh doanh.
(iii)

Tranh chấp mà một bên không có mục đích lợi nhuận nhưng

chọn áp dụng Luật Thương mại.
Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại quy định phạm vi điều chỉnh của Luật
Thương mại bao gồm cả “hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên
trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục
đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này”.
Như vậy, nếu bên không có mục đích lợi nhuận chọn áp dụng Luật
Thương mại thì liệu có thể xác định tranh chấp này là tranh chấp kinh doanh
thương mại và áp dụng Luật Thương mại để giải quyết hay không?
Để làm rõ hơn vấn đề này, tác giả xin phân tích sâu ở phần thực tiễn giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại chương 2 của Luận văn.
1.2.

Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án

1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Có thể nhận thấy, mối quan hệ trong hoạt động KDTM vừa mang tính
xung đột, vừa hợp tác. Vì thế, khi xảy ra tranh chấp các bên luôn tìm cách nhanh
chóng để giải quyết các xung đột, mâu thuẫn này để sớm đưa hoạt động kinh
doanh, sản xuất của mình trở lại bình thường ổn định. Do đó, việc giải quyết

tranh chấp KDTM đòi hỏi các bên tranh chấp cũng như cơ quan giải quyết tranh
chấp phải tiến hành nhanh chóng, kín đáo, không làm ảnh hưởng đến quá trình
sản xuất kinh doanh của các bên đồng thời phải luôn đảm bảo được sự hợp tác
trong hoạt động KDTM.
Như đã phân tích, tranh chấp KDTM là việc phát sinh các mâu thuẫn, bất
đồng từ hoạt động sản xuất, đầu tư hay cung ứng các dịch vụ... (được gọi chung
12


là các hoạt động KDTM). Đây là một trong các loại việc thuộc lĩnh vực tư, do
đó các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp kinh
doanh ngay từ trước khi nó xảy ra (quyền định liệu trước) hoặc sau khi tranh
chấp xảy ra. Việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án của
các bên được thực hiện trên cơ sở sự nhanh chóng, ít tốn kém và phải đảm bảo
các quyền tự do kinh doanh của các chủ thể, không cản trở các hoạt động kinh
doanh của chủ thể và không làm mất cơ hội kinh doanh của họ.
Hiện nay, pháp luật chưa có khái niệm thống nhất về giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại bằng Tòa án, tuy nhiên, trên thực tế đã có rất nhiều bài
nghiên cứu của các tác giả liên quan đến việc giải thích khái niệm giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án.
Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Như Phát thì: “Giải quyết tranh chấp
bằng Toà án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán Nhà nước
thực hiện. Toà án nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc
bên có nghĩa vụ phải thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Do đó các đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của tòa án như một giải pháp để
bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích của mình khi họ thất bại trong việc sử
dụng cơ chế thương lượng hoặc hoà giải và cũng không muốn đưa vụ tranh
chấp của họ để giải quyết bằng trọng tài”.1
Theo quan điểm của tác giả Đinh Thị Trang cho rằng: “Giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án là hình thức giải quyết các tranh

chấp thuộc phạm vi hoạt động kinh doanh, thương mại do cơ quan tài phán của
nhà nước, mang ý chí quyền lực của nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ
tục nghiêm ngặt, chặt chẽ. Các phán quyết của Tòa án mang tính cưỡng chế
cao, được cơ quan nhà nước bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của
nhà nước. Hiệu lực của bản án, quyết định có giá trị pháp lý cao, buộc các bên
phải thực hiện”.2
1

Nguyễn Như Phát - Pháp luật tố tụng và các hình thức tố tụng kinh tế - Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
11/2001 - trang 32
2
Đinh Thị Trang, Luận văn thạc sỹ luật học, Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo thủ
tục tố tụng Tòa án ở Việt Nam hiện nay, Hà Nội 2013, trang 35.

13


Nhìn chung, khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
bằng Tòa án theo quan điểm của mỗi tác giả trên đã bao hàm được bản chất của
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án. Tuy nhiên, tôi
cho rằng, quan điểm của tác giả Nguyễn Như Phát còn mang tính chung chung,
tác giả chỉ dừng lại ở việc đưa ra chức năng của Tòa án là nhân danh quyền lực
Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc bên có nghĩa vụ phải thi hành, mà không
thể hiện được rõ vai trò của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
bằng Tòa án. Đối với quan điểm của Đinh Thị Trang thì đã thể hiện khá rõ vai
trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp KDTM. Tuy nhiên, cả hai tác giả
chỉ dừng lại ở việc nêu ra chức năng, vai trò của Tòa án mà chưa nhấn mạnh đến
cơ sở đầu tiên của việc giải quyết TCKDTM bằng Tòa án là khi có yêu cầu của
một trong các bên cho rằng lợi ích của họ bị xâm phạm.
Từ những phân tích nêu trên, theo quan điểm của tôi cho rằng: “Giải

quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án là hình thức giải quyết
tranh chấp được tiến hành khi có yêu cầu của một trong các bên trong quan hệ
tranh chấp kinh doanh, thương mại. Tòa án trong phạm vi thẩm quyền giải
quyết tranh chấp KDTM của mình, nhân danh quyền lực nhà nước, tiến hành
các trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ để đưa ra các phán quyết mang tính
cưỡng chế cao, được cơ quan nhà nước bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng
chế của nhà nước. Hiệu lực của bản án, quyết định có giá trị pháp lý cao, buộc
các bên phải thực hiện nhằm loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi
ích kinh tế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ
tranh chấp”.
1.2.2. Đặc điểm của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại Tòa án
Với khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án
được trình bày ở phần trên, có thể thấy, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp KDTM được tiến hành khi có ít nhất
một bên cho rằng mình có quyền lợi hợp pháp bị bên kia xâm phạm và có yêu
14


cầu được giải quyết. Kết quả là các quyền và nghĩa vụ của các bên được xác
định lại hoặc mâu thuẫn hay xung đột giữa các bên được dung hòa thông qua các
phán quyết của người đứng ra giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại toà án có sự
tham gia của bên thứ ba đó là toà án thông qua hoạt động xét xử của hội đồng
xét xử gồm có các thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Toà án là cơ quan xét xử
nhân danh quyền lực nhà nước và việc giải quyết tranh chấp bằng toà án không
cần phải có sự thoả thuận trước. Nếu như các bên không có thoả thuận gì về
phương thức giải quyết tranh chấp thì tranh chấp sẽ được giải quyết tại toà án
nếu như các bên không tự thương lượng hoặc hoà giải được. Cũng giống như

hình thức trọng tài thì các thành viên tham gia hội đồng xét xử cũng phải thoả
mãn các điều kiện mà pháp luật có quy định. Nếu không thoả mãn các điều kiện
này thì không được tham gia xét xử, nếu không thì bản án do những người này
tuyên có thể không có hiệu lực.
Thứ ba, việc giải quyết tranh chấp tại toà án phải tuân thủ nguyên tắc tố
tụng do pháp luật quy định. Việc sai nguyên tắc tố tụng có thể bị kháng cáo
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc thủ tục xét lại bản án đã có hiệu lực
pháp luật.
Thứ tư, kết quả của việc giải quyết tranh chấp là bản án do Hội đồng xét
xử tuyên có giá trị bắt buộc đối với các bên khi nó có hiệu lực pháp luật, nó có
thể bị kháng cáo, kháng nghị. Khi bản án đã có hiệu lực thi hành thì các bên phải
tự nguyện thi hành, nếu không sẽ bị cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
Cả trọng tài thương mại và toà án đều là hai phương thức giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại theo mang tính chất tố tụng nhưng chúng có những
điểm khác biệt cơ bản sau: toà án là cơ quan nhà nước, do đó phán quyết của toà
án mang tính quyền lực, pháp lý; còn trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp
(phi chính phủ), do đó phán quyết của trọng tài mang tính xã hội, pháp lý. Toà
án có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp kinh tế theo quy định của pháp
luật. Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại nếu trước hoặc khi xảy ra tranh chấp các bên có thoả thuận
15


trọng tài và thoả thuận đó không vô hiệu. Toà án xét xử công khai, trừ trường
hợp cần xét xử kín để giữ gìn bí mật của nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân
tộc hoặc để giữ kín bí mật của các đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.
Phiên họp giải quyết tranh chấp theo thủ tục của trọng tài thương mại không
công khai. Nguyên tắc hoà giải là thủ tục bắt buộc trừ một số trường hợp đối với
phương thức toà án, còn trọng tài thì không cần. Lựa chọn trọng tài thương mại
để giải quyết tranh chấp các bên có nhiều quyền tự định đoạt hơn như là có thể

chọn trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài do các bên thành lập, có thể lựa
chọn và đề nghị thay đổi trọng tài viên còn trong tố tụng toà án thì các bên
không có quyền chọn mà chỉ có thể đề nghị thay đổi thành phần hội đồng xét xử
nếu chứng minh được rằng họ không thoả mãn điều kiện do pháp luật quy định.
1.2.3. Cơ sở pháp lý của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại tại Tòa án
Để làm rõ hơn việc giải quyết tranh tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Tòa án, tác giả xin đưa ra một số nội dung chủ yếu của việc giải quyết tranh
chấp KDTM tại Tòa án dựa trên khía cạnh pháp luật như sau: Một là, các
phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại; Hai là, thẩm quyền
giải quyết tranh KDTM tại Tòa án; Ba là, phân loại các tranh chấp kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án; Bốn là, so sánh phương thức giải
quyết TCKDTM bằng Tòa án so với các phương thức khác.
1.2.3.1. Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Nhìn chung, nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam đều quy định có 4
phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại đó là: thương lượng,
hòa giải, trọng tài và Tòa án.3
Thương lượng: Là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các
bên cùng nhau bàn bạc, thảo luận để tự giải quyết bất đồng.
Hòa giải: Là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên
3

Điều 317 Luật Thương mại năm 2005 quy định các hình thức giải quyết tranh chấp bao gồm: 1. Thương lượng
giữa các bên. 2. Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm
trung gian hoà giải. 3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.

16


thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm

kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài: Là phương
thức tranh chấp được thực hiện bởi các trung tâm trọng tài. Theo đó, thông qua
hoạt động của trọng tài viên việc tranh chấp được giải quyết bằng một phán
quyết trọng tài mà hai bên tranh chấp phải thực hiện.
Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án: Là phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại do cơ quan xét xử nhân danh quyền lực
nhà nước là Tòa án nhân dân tiến hành theo trình tự thủ tục do pháp luật quy
định.
1.2.3.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Tòa án
Việc áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh,
thương mại được thông qua nhiều hoạt động khác nhau như: Xem xét cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh, cấp giấy phép thành lập và hoạt động, hay cấp
giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh
doanh cá thể; giải quyết tranh chấp trong thương mại; giải quyết yêu cầu mở thủ
tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã… Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập
đến việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án.
Trong kinh doanh thương mại, khi xảy ra tranh chấp không phải lúc nào
toà án cũng có thẩm quyền giải quyết. Toà án chỉ giải quyết khi có yêu cầu của
đương sự (nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự) và tranh
chấp đó phải thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án. Ở nước ta, hệ thống toà án
được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ, để tránh chồng chéo thì việc phân
định thẩm quyền giữa các toà án là rất quan trọng, tránh tình trạng một vụ án có
thể được rất nhiều toà thụ lý hoặc không có toà nào thụ lý. Điều này cũng góp
phần cho toà án giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ việc. Bên cạnh đó,
việc xác định thẩm quyền giữa các toà án một cách hợp lý, còn tạo điều kiện
thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
trước toà án, giảm bớt những phiền phức cho đương sự. Ngoài ra, việc xác định
17



thẩm quyền của các toà án một cách hợp lý và khoa học còn có ý nghĩa quan
trọng trong việc xác định những điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết
của đội ngũ cán bộ ở mỗi toà án và các điều kiện khác, trên cơ sở đó có kế hoạch
đáp ứng bảo đảm cho toà án thực hiện được chức năng, nhiệm vụ.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại là quyền
xem xét giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại, quyền ra quyết định
khi giải quyết các tranh chấp đó theo quy định của pháp luật. Khác với thẩm
quyền xét xử hành chính và thẩm quyền xét xử hình sự của toà án, thẩm quyền
của Toà án trong giải quyết các tranh chấp kinh tế có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, Toà án nhân danh quyền lực nhà nước, độc lập trong việc xem
xét giải quyết và ra các phán quyết đối với các vụ việc phát sinh từ các quan hệ
mang tính chất kinh doanh thương mại.
Thứ hai, thẩm quyền của toà án được thực hiện theo thủ tục tố tụng dân
sự. Do vậy, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung về tố tụng thì toà án khi
xem xét và giải quyết các tranh chấp phải tôn trọng và bảo đảm quyền thoả
thuận, quyền tự do định đoạt của các đương sự. Phạm vi thẩm quyền được giới
hạn trong các các yêu cầu mà đương sự đưa ra và những vấn đề khác mà trên cơ
sở thoả thuận của họ. Thẩm quyền của toà án gồm:
Thẩm quyền theo vụ việc4;

(i)

(ii) Thẩm quyền theo cấp5;
(iii)

Thẩm quyền theo lãnh thổ6;

(iv)


Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu7

1.2.3.3. Phân loại các tranh chấp kinh doanh, thương mại
Theo quy định tại Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có quy định các
tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án,
bao gồm:
(i)

Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá

4

Xem: Điều 30 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015
Xem: Điều 35, 36, 37, 38 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015
6
Xem: Điều 39 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015.
7
Xem: Điều 40, Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015.
5

18


nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận.
(ii)

Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.


(iii)

Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao
dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.

(iv)

Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp
giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn
hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong
công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan
đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách,
bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.

(v)

Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc
thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của
pháp luật.
Như vậy, căn cứ vào Điều 30 BLTTDS, các tranh chấp thuộc thẩm quyền

giải quyết của toà án có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đó là những mâu thuẫn bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các
bên phát sinh từ hoạt động thương mại. Cụ thể, đó là những mâu thuẫn, bất đồng
về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Thứ hai, những tranh chấp đó phát sinh chủ yếu giữa các thương nhân,
đặc biệt là những tranh chấp phát sinh từ hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng

dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý… thăm dò khai thác đều được coi là tranh
chấp thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án khi những tranh chấp
này phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều
có mục đích lợi nhuận.
1.2.3.4. So sánh phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại bằng Tòa án so với các phương thức khác
19


×