Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường đại học tôn đức thắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.38 KB, 110 trang )

BỘ QUÔC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


PHẠM VĂN HÙNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2013


BỘ QUÔC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


Ý kiến bổ sung.................................................................................
..................................................................................
Xin cảm
PHẠM
ơn sự VĂN
hợp tácHÙNG
của quý vị!

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG

Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 01 14



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN MINH KHẢI

HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH

Trang
3
13

VIÊN - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.2. Nội dung quản lý hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại học

13
24

Tôn Đức Thắng
Chương 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC

32


TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN
ĐỨC THẮNG
2.1. Giới thiệu tổng quan về Trường Đại học Tôn Đức Thắng
2.2.

32
35

Thực trạng hoạt động học tập của sinh viên trường Đại
học Tôn Đức Thắng
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học

39

Tôn Đức Thắng
Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN QUẢN LÝ

53

HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
3.1. Yêu cầu cần đạt được khi đề xuất các giải pháp
3.2. Giải pháp cơ bản quản lý hoạt động học tập của sinh viên

53
54

Trường Đại học Tôn Đức Thắng

3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

71
82
86
91


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BGH

Ban giám hiệu

CBQL

Cán bộ quản lý

CSVC

Cơ sở vật chất

CNH,HĐH


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GP

Giải pháp

GV

Giảng viên

GVCN

Giảng viên chủ nhiêm

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo

HSSV

Học sinh, sinh viên

SL

Số lượng

SV

Sinh viên


TBDH

Thiết bị dạy học

[3,tr.2]

Tài liệu thứ ba trang hai


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong trường Đại học, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sinh viên
chính là nhiệm vụ học tập; bằng các hoạt động học tập, người học tự hình
thành và phát triển nhân cách của mình. Trường Đại học có trách nhiệm tạo
mọi điều kiện thuận lợi về quản lý, hướng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ... để người học
có thể hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ học tập.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta xác định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của
sự phát triển kinh tế - xã hội. Để có được thế hệ người Việt Nam mới đáp ứng
những yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH trong bối cảnh toàn cầu hóa chúng
ta cần phải đổi mới một cách căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo trong đó
có hoạt động quản lý giáo dục.
Chất lượng giáo dục và đào tạo vừa phụ thuộc vào hoạt động dạy của
thầy nhưng cũng vừa phụ thuộc vào hoạt động học của trò, trong đó hoạt động
học của trò đóng vai trò rất quan trọng, vì chỉ khi các em tích cực chủ động
tiến hành các hoạt động nhận thức dưới sự tổ chức, điều khiển của thầy thì
hoạt động dạy học mới hoàn thành được mục đích của mình.
Quy chế Công tác học sinh, sinh viên [3, tr.2] được ban hành theo

Quyết định số 42/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 13 tháng 08 năm 2007 đã xác
định, công tác quản lý hoạt động học tập của học sinh, sinh viên là một trong
những công tác trọng tâm ở trường đại học. Đây là công tác hướng vào thực
hiện mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có
năng lực cao về chuyên môn, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ, bản
lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


4
Quản lý hoạt động học tập của SV không chỉ giới hạn trong quản lý giờ
học ở trên lớp mà còn gồm cả quản lý việc SV tự tổ chức quá trình học tập
của mình thông qua các hoạt động tự học, tự nghiên cứu, học nhóm, tham
quan, thực hành, thực tập, làm bài tập, học ở thư viện... Quản lý hoạt động
học tập bao hàm quản lý thời gian học tập, chất lượng học tập, tinh thần, thái
độ và phương pháp học tập của SV.
Trường Đại học Tôn Đức Thắng được thành lập và đi vào hoạt động đã
được 15 năm. Nhà trường đang trong quá trình củng cố, phát triển và mở rộng
quy mô, từng bước khẳng định vị trí, uy tín trong xã hội và trong hệ thống các
trường đại học Việt Nam. Thời gian qua, các hoạt động học tập của SV luôn
được Ban Giám hiệu nhà trường ưu tiên thực hiện. Trường đã có nhiều cố
gắng để đưa công tác quản lý hoạt động học tập của SV đi vào nề nếp như sắp
xếp thời khóa biểu học tập, lịch thi, kiểm tra phù hợp với điều kiện của nhà
trường và thuận lợi cho hoạt động học tập của SV.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, quản lý giáo dục, nhất là quản lý hoạt động
học tập của SV còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa được quan tâm đúng mức và
hiệu quả còn thấp. Đó là: Nhận thức về công tác quản lý hoạt động học tập
của SV ở một số cấp quản lý, CBQL, GV chưa thực sự đầy đủ; trình độ, năng
lực, kinh nghiệm, phương pháp quản lý còn yếu, nặng về quản lý hành chính

Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết phải chú trọng việc xây dựng và áp
dụng các biện pháp quản lý hoạt động học tập của SV nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường. Chính vì vậy tác giả đã lựa chọn vấn
đề “Quản lý hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại học Tôn Đức
Thắng” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các nhà giáo dục trên thế giới đã đưa ra nhiều quan điểm về hoạt động
học tập của HSSV dựa trên những cơ sở thuyết tâm lý, thuyết giáo dục khác


5
nhau. Phần lớn những nghiên cứu đều nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt
động hoc tập đối với sự phát triển tư duy cũng như hình thành thói quen học
tập và nghiên cứu suốt đời cho người học. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng: muốn nâng cao năng lực và hiệu quả học tập thì giáo viên phải biết tổ
chức hoạt động nhận thức, cũng như hướng dẫn tự học cho học sinh.
Ở thế kỷ thứ XVII, J.A. Komenski (1592 - 1670) [9] là người đầu tiên
đưa ra kiến nghị đổi mới một cách sâu sắc quá trình dạy học nói chung và
hình thức tổ chức dạy học nói riêng. Tư tưởng của J.A. Komenski đã được
tiếp nối và phát triển bởi nhiều nhà sư phạm lỗi lạc khác như: M.N. Xcatkin,
N.A. Danilop, B.P. Êxipốp, Ia. Lecne, J.J. Rousseau, John Deway...
Vào thập niên 30 của thế kỷ XX, nhà giáo dục nổi tiếng Nhật Bản
Tsunesaburo Makiguchi (1871 - 1944) [57, tr.152] đã nhấn mạnh: “Giáo viên
không bao giờ học thay cho học viên mà học viên phại tự mình học lấy. Nói
khác đi, dù giáo viên có làm gì đi nữa thì mọi tri thức truyền thụ vẫn không
có giá trị nếu họ không làm cho học sinh tự mình kiểm nghiệm và thực
nghiệm những tri thức đó.”
Trong tác phẩm “Tự học như thế nào”, nhà bác học, nhà văn hóa Nga
N.A. Rubakin (1862 - 1946) [50, tr.10] đã chỉ ra phương pháp tự học để nâng
cao kiến thức, mở rộng tầm nhìn. N.A. Rubakin đặc biệt chú trọng đến việc

đọc sách. Ông khẳng định: hãy mạnh dạn tự mình đặt câu hỏi rồi tự mình tìm
lây câu trả lời - đó chính là phương pháp tự học.
Năm 1996, Hội đồng quốc tế Jacques Delors về giáo dục cho thế kỷ XXI
đã gửi UNESCO bản báo cáo “Học tập - Một kho báu tiềm ẩn” [50, tr. 10]. Báo
cáo đã phân tích nhiều vấn đề của giáo dục trong thế kỷ XXI, trong đó đặc biệt
nhấn mạnh đến vai trò của người học, cách học cần phải được dạy cho thế hệ trẻ.
Hoạt động học tập của học sinh, sinh viên cũng đã được nhiều nhà tâm
lý học trên thế giới nghiên cứu để đưa ra những khái niệm và cơ chế của hoạt


6
động học tập. Có thể kể ra những nhà tâm lý học tiêu biểu nghiên cứu về lĩnh
vực này như: Pavlov, Watson, Thorndike, Skiner, J. Piaget, Ghestalt,
Benjamin Bloom, X.L.Vưgốtxki, A.N. Lesonchiev...
Ở Việt Nam, nhiều nhà giáo dục đã tiến hành nghiên cứu hoạt động học
tập của HSSV, trong đó, tập trung vào việc nghiên cứu phương pháp học tập
hiệu quả, vị trí, tầm quan trọng và cách thức tiến hành tự học đạt kết quả...
Chủ tịch Hồ Chí Minh [1, tr.90-91] - tấm gương sáng ngời về tự học đã khuyên chúng ta “phải biết tự động học tập”, “lấy tự học làm cốt”, “phải
nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải
đào sâu, hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có
vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ”. Hồ Chí
Minh đề ra năm yêu cầu của quá trình tự học: Một là, trong việc tự học, điều
quan trọng hàng đầu là xác định rõ mục đích học tập và xây dựng động cơ học
tập đúng đắn. Tức là phải hiểu “Học để làm gì? - Học để sửa chữa tư tưởng;
Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng; Học để tin tưởng; Học để hành”. Hai là,
phải tự mình lao động để tạo điều kiện cho việc tự học suốt đời. Ba là, muốn
tự học thành công, phải có kế hoạch sắp xếp thời gian học tập, phải bền bỉ,
kiên trì thực hiện kế hoạch đến cùng, không lùi bước trước mọi trở ngại. Bốn
là, phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi hình thức dể
tự học. Năm là, học đến đâu, ra sức luyện tập, thực hành đến đó.

Năm 1998, Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên) [46, tr.101-103] đã tập trung
luận bàn về tự học trong cuốn sách “Quá trình Dạy - Tự học”, đưa ra những
trở lực cho việc học, kinh nghiệm khắc phục và phương châm đảm bảo thắng
lợi của tự học. Tác giả cho rằng, mục tiêu đào tạo của các trường hiện nay cần
chú trọng rèn luyện cho người học “năm mọi” trong học tập (học mọi nơi, học
mọi lúc, học mọi người, học bằng mọi cách và học qua mọi nội dung) và bẩy
loại tư duy cần rèn luyện (tư duy logic, tư duy hình tượng, tư duy biện chứng,


7
tư duy quản lý, tư duy kinh tế, tư duy kỹ thuật và tư duy thuật toán). Đồng
thời, tác giả đưa ra một số xu thế mới về phát triển việc học trong mối quan
hệ biện chứng với dạy. Bên cạnh đó, tác giả còn nêu lên vai trò của gia đình
trong việc dạy tự học cho học sinh.
Hoàng Anh và Đỗ Thị Châu cũng đã khái quát chung về hoạt động học
tập - tự học của SV. Trong cuốn sách “Tự học của sinh viên” [1], các tác giả
đã đưa ra bản chất và đặc điểm của hoạt động học tập có mục đích, cấu trúc
của hoạt động học tập, động cơ học tập và các yếu tố tâm lý ảnh hưởng tới
hoạt động học tập - tự học của SV.
Bên cạnh vấn đề tự học còn có nhiều tác giả nói về dạy cách học và hướng
dẫn phương pháp học tập hiệu quả như: “Học và dạy cách học” do Nguyễn Cảnh
Toàn chủ biên [46]; “Phương pháp học tập hiệu quả” của Đỗ Linh và Lê Văn
[35];... Nhìn chung, các tác phẩm này đều đưa ra những cách thức, phương pháp
giúp người học đạt được hiệu quả cao khi tiến hành hoạt động học tập.
Vấn đề học tập, tự học của HSSV cũng đã được một số tác giả chọn
làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn thạc sĩ như: “Công tác quản lý hoạt động
học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên Đại học Quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh” của Đinh Ái Linh [33]. Tác giả Đinh Ái Linh tiếp cận vấn đề
học tập, tự học của SV ở góc độ nhà quản lý, đề tài thiên về lĩnh vực quản lý
giáo dục, cơ sở lý luận được xây dựng vững chắc, đề tài tập trung khai thác

thực trạng nghiên cứu khoa học của SV Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh, số lượng mẫu khảo sát được lựa chọn đều ở các trường thành viên khá
đồng đều, tuy nhiên, do các trường thành viên là đa ngành nghề, vì thế thực
trạng nghiên cứu khoa học của mỗi nhóm ngành nghề có những đặc điểm
khác nhau mà đề tài chưa nêu bật được. Tuy nhiên, ở góc độ một nhà quản lý,
đề tài có thể làm cơ sở để đưa ra các biện pháp nhằm cải thiện tốt hơn chất
lượng học tập và nghiên cứu khoa học.


8
Trong đề tài “Thực trạng quản lý học tập đối với sinh viên ngành Tiểu
học ở trường Cao Đẳng sư phạm Vĩnh Long”, tác giả Trà Thị Quỳnh Mai đã
tập trung nghiên cứu mẫu khảo sát là SV ngành Tiểu học của trường Cao đẳng
Sư phạm Vĩnh Long. Đề tài đã xây dựng một hệ thống cơ sở lý luận tương đối
cơ bản, khảo sát thực tiễn tình hình học tập và thực trạng quản lý học tập của
ngành Tiểu học. Đề tài đã nghiên cứu khá toàn diện, phân tích ở nhiều góc độ,
đưa ra được cái nhìn tổng quát về thực trạng quản lý học tập đối với SV
ngành tiểu học và đã đưa ra được nhiều biện pháp có ý nghĩa thực tiễn cao để
cải thiện vấn đề này.
Đề tài “Một số biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao
năng lực tự học cho sinh viên trường Cao đẳng sư phạm mẫu giáo Trung
ương 3” của Phạm Thị Thu Thủy [54] đã đi sâu vào nghiên cứu vấn đề tự học
của SV mà không bao quát toàn bộ hoạt động học tập của SV trường Cao
đẳng Sư phạm mẫu giáo Trung ương 3. Cùng với việc xây dựng hệ thống lý
luận cơ bản, đề tài đã nêu được thực trạng tự học của SV của trường và đề ra
nhiều nhóm biện pháp mà Ban giám hiệu đang từng bước nghiên cứu, thực
hiện để nâng cao chất lượng nghiên cứu, tự học của SV. Song song với việc
phân tích các nhóm biện pháp này, tác giả đã chú trọng đánh giá những mặt
được, những mặt hạn chế của từng nhóm biện pháp và nêu ra các hướng giải
pháp để mỗi biện pháp đạt được mức hiệu quả tốt nhất.

Trong đề tài “Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên
Trường Sĩ quan Lục quân 2” [31], tác giả Trần Bá Khiêm đã khảo sát đề tài ở
nhiều góc độ, GV, GVCN, SV; đồng thời nhấn mạnh và tập trung nghiên cứu
vấn đề tự học của học viên, khi khảo sát thực trạng tự học của học viên tại
trường, tác giả tiến hành lấy ý kiến của học viên, GVCN và GV đứng lớp; vì
thế, thực trạng quản lý hoạt động tự học của học viên Trường Sĩ Quan Lục
quân 2 được nhìn nhận một cách toàn diện và thấu đáo, từ đó, tác giả có cơ sở


9
chính xác để đưa ra các biện pháp cải thiện hoạt động tự học và các nhóm
biện pháp quản lý của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng tự học của học
viên. Tuy nhiên, nếu đề tài tiến hành khảo sát ý kiến của các CBQL trong nhà
trường thì vấn đề nghiên cứu của tác giả sẽ sâu sắc và chi tiết hơn, đạt được
hiệu quả cao hơn.
Tác giả Nguyễn Phấn Lý khi nghiên cứu hoạt động học tập của học
sinh trường Trung học Cảnh sát Nhân dân 1 đã chọn một hướng tiếp cận khá
khác biệt đó là mảng hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp (thể hiện qua đề tài
“Các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp của
học sinh trường Trung học Cảnh sát Nhân dân I”). Với điều kiện của học tập
trong môi trường đặc thù, nhà trường có nhiều cơ sở để quản lý tốt hơn hoạt
động học tập ngoài giờ lên lớp cho học sinh. Tác giả đề tài đã nắm được lợi
thế này và đề ra được khá nhiều nhóm biện pháp cho Ban giám hiệu, các
nhóm tương tác giữa học sinh, giáo viên nhằm nâng cao chất lượng học tập
ngoài giờ lên lớp. Đề tài đã đưa ra hệ thống cơ sở lý luận nền tảng của vấn đề
quản lý hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp, việc khảo sát ý kiến học sinh
cũng được thực hiện kỹ lưỡng với phiếu khảo sát khá chi tiết và ý nghĩa. Đề
tài đã tìm ra nhiều biện pháp nhằm sử dụng một cách hiệu quả tối đa nguồn cơ
sở vật chất của nhà trường trong việc nâng cao chất lượng quản lý hoạt động
học tập ngoài giờ lên lớp của học sinh.

Điểm qua các công trình nghiên cứu trên đây về hoạt động học tập của
SV, chúng ta thấy rằng hoạt động học tập của SV đã có những cơ sở lý luận
rất vững chắc. Tuy nhiên, những công trình đi sâu nghiên cứu về quản lý hoạt
động học tập của SV trong trường đại học còn ít được chú trọng và chưa có
nhiều. Trong đó, công tác quản lý hoạt động học tập của SV Trường Đại học
Tôn Đức Thắng chưa có tác giả nào nghiên cứu.


10
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng quản lý hoạt động học
tập của sinh viên trường Đại học Tôn Đức Thắng. Từ đó, đề xuất các giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động học tập của sinh
viên hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận cho việc quản lý hoạt động học tập của sinh viên.
Khảo sát, đánh giá, phân tích thực trạng quản lý hoạt động học tập của
sinh viên trường Đại học Tôn Đức Thắng.
Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt
động học tập của sinh viên trường Đại học Tôn Đức Thắng hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại học Tôn Đức Thắng.
Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại học Tôn Đức Thắng.
Phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng khảo sát: Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, sinh viên
Trường Đại học Tôn Đức Thắng.
Về mặt nội dung và thời gian khảo sát: Đề tài tập trung làm rõ thực

trạng quản lý hoạt động học tập của sinh viên chính quy Trường Đại học Tôn
Đức Thắng từ 2007 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại học Tôn Đức
Thắng hiện nay phụ thuộc vào sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố. Nếu các
chủ thể quản lý làm tốt công tác giáo dục và quản lý nhằm nâng cao nhận


11
thức về hoạt động học tập cho các lực lượng sư phạm; xây dựng và tổ chức
thực hiện tốt các kế hoạch học tập cho sinh viên; quản lý chặt chẽ hoạt động
giảng dạy của giảng viên; đổi mới công tác quản lý hoạt động học tập của
sinh viên; quản lý và tăng cường các điều kiện về cơ sở vật chất - trang thiết
bị dạy học; đồng thời phối hợp các lực lượng giáo dục tham gia vào quản lý
hoạt động học tập của sinh viên, thì chất lượng hoạt động học tập của sinh
viên Trường Đại học Tôn Đức Thắng sẽ được nâng lên
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của các
cấp về giáo dục – đào tạo và quản lý giáo dục - đào tạo.
Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phân tích - tổng hợp, phân loại và hệ thống hóa lý thuyết
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra: Điều tra xã hội học đối với SV, CBQL giáo dục,
GV để làm cơ sở đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân và đề xuất các biện
pháp hiệu quả trong quản lý hoạt động học tập của SV;
Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động quản lý của đội ngũ cán bộ,
hoạt động dạy học của GV, hoạt động học tập, rèn luyện và việc tự quản lý

hoạt động học tập của SV để rút ra những kết luận về nội dung nghiên cứu;
Phương pháp tọa đàm, trao đổi: Tọa đàm, trao đổi với CBQL, GV và
SV từ đó rút ra những kết luận cho nhiệm vụ nghiên cứu;
Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu từ những vấn đề đã và
đang diễn ra nhằm đúc rút thành những kinh nghiệm về quản lý hoạt động học
tập của SV ở Trường Đại học Tôn Đức Thắng;


12
Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Xin ý kiến của các nhà khoa học,
nhà quản lý về một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan trong quá trình
nghiên cứu đề tài;
Phương pháp khảo nghiêm: Sử dụng phương pháp toán học để tổng
hợp kết quả điều tra và xử lý số liệu.
7. Ý nhĩa của đề tài
Đề tài góp phần xây dựng và hoàn thiện các khái niệm: Hoạt động học
tập, quản lý hoạt động học tập của SV; Xây dựng hệ thống các GP giúp công
tác quản lý hoạt động học tập của SV Trường Đại học Tôn Đức Thắng.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài bao gồm: Mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận và kiến nghị, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


13
Chương 1
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.1.1. Hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại học Tôn Đức Thắng
Theo Phạm Minh Hạc [17,tr.49] “Hoạt động là quá trình tác động qua
lại giữa con người với thế giới xung quanh để tạo ra sản phẩm về phía thế

giới và sản phẩm về phía con người. Trong quá trình tác động qua lại đó, có
hai chiều tác động diễn ra đồng thời, thống nhất và bổ sung cho nhau”.
Như vậy, có thể hiểu hoạt động là sự tương tác tích cực giữa chủ thể và
đối tượng nhằm biến đổi đối tượng theo mục đích mà chủ thể tự giác đặt ra để
thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Hoạt động sinh ra từ nhu cầu nhưng lại được
điều chỉnh bởi mục tiêu mà chủ thể nhận thức được. Nhu cầu với tư cách là
động cơ, là nhân tố khởi phát của hoạt động nhưng lại chịu sự chi phối của
mục tiêu mà chủ thể nhận thức được.
Học tập là hoạt động cơ bản của con người nhằm hướng vào việc nghiên cứu và tìm
hiểu các quy luật của thế giới và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội - lịch sử. Bản chất của quá
trình học tập là quá trình nhận thức độc đáo của người học[58]. Như vậy, học tập là một
quá trình đưa đến những thành tựu và những kết quả cho người học.
Học tập là một quá trình hướng đích, có giá trị. Giá trị của học tập là làm cho kinh
nghiệm của bản thân người học thay đổi một cách bền vững, nhờ đó mà có được những thay
đổi trong nhận thức về hiện thực, có được những thay đổi trong phương thức hành vi và định
hình những thái độ xác định trong quan hệ với thế giới xung quanh. Những thay đổi này giúp
người học phát triển bản chất người vốn có của mình để thích ứng và hội nhập với cộng
đồng, với dân tộc, với nhân loại. Trong và bằng quá trình đó, người học tự khẳng định chính
mình. Như vậy, mục đích học tập của nhân loại, của dân tộc, của cộng đồng và của mỗi cá
nhân là để biết, để làm, để chung sống và để tự khẳng định.
Hoạt động học tập có nhiều hình thức và hình thức chính thống là học tập theo
phương thức nhà trường dưới sự chỉ đạo của giáo viên. Dù dưới hình thức nào người học


14
cũng luôn là chủ thể của hoạt động học tập. Người học là chủ thể của hoạt động học tập, là
chủ thể có ý thức chủ động, tích cực sáng tạo trong nhận thức và rèn luyện nhân cách.
Người học cũng là đối tượng giảng dạy và giáo dục của thầy giáo. Người học quyết định
chất lượng học tập của mình.
Khẳng định vai trò tích cực chủ động của người học không có nghĩa là bỏ qua vai

trò hết sức quan trọng của người dạy và các lực lượng giáo dục khác trong đó phải đặc biệt
nhấn mạnh đến vai trò của người thầy thể hiện ở chức năng định hướng, điều khiển, điều
chỉnh người học trong quá trình tiếp thu tri thức. Quá trình học tập của người học có thể
diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của người giáo viên như diễn ra trong tiết học, giờ
hướng dẫn thực hành, hoặc dưới sự tác động gián tiếp của giáo viên như việc tự học ở nhà
của học sinh, sinh viên. Khi có sự chỉ đạo của giáo viên, hoạt động tự giác, tích cực, chủ
động nhận thức học tập của học sinh thể hiện ở các mặt: tiếp nhận những nhiệm vụ, kế
hoạch học tập do giáo viên đề ra; tiến hành thực hiện những hành động, thao tác nhận thức
- học tập nhằm giải quyết những nhiệm vụ học tập được đề ra; tự điều chỉnh hoạt động
nhận thức - học tập của mình dưới tác động kiểm tra, đánh giá của giáo viên và tự đánh giá
của bản thân; phân tích những kết quả hoạt động nhận thức - học tập dưới tác động của
giáo viên, từ đó cải tiến hoạt động học tập.
Trường hợp quá trình hoạt động học tập thiếu sự chỉ đạo trực tiếp của giáo viên
hoạt động tự giác, tích cực, chủ động nhận thức học tập của học sinh được thể hiện như
sau: tự lập kế hoạch, cụ thể hoá các nhiệm vụ học tập của mình; tự kiểm tra, tự đánh giá và
tự điều chỉnh tiến trình hoạt động học tập của mình; tự phân tích các kết quả hoạt động
nhận thức - học tập mà cải tiến hoạt động học tập của mình.

Theo Phan Trọng Ngọ [41] thì “Học là quá trình tương tác giữa cá thể
với môi trường, kết quả là dẫn đến sự biến đổi bền vững về nhận thức, thái độ
hay hành vi của cá thể đó. Học tập là việc học có chủ ý, có mục đích trước,
được tiến hành bởi một hoạt động đặc thù - hoạt động học, nhằm thỏa mãn
nhu cầu học của cá nhân”.
Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức [24], “Tự học là một hình thức tổ
chức dạy học cơ bản ở Đại học. Đó là một hình thức hoạt động nhận thức
của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính bản thân


15
người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo

chương trình và sách giáo khoa đã quy định”.
Qua những khái niệm trên đây, có thể hiểu rằng hoạt động học tập của
SV là hoạt động có mục đích, có kế hoạch nhằm chiễm lĩnh văn hóa nhân
loại, chuyển thành tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ của bản thân để chuẩn bị
các điều kiện trở thành các chuyên gia - những người chủ tương lai của đất
nước, đáp ứng được các yêu cầu của nền sản xuất công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Hoạt động học tập bao giờ cũng nhằm thỏa mãn một nhu cầu học nhất
định, được kích thích bởi động cơ học và được thực hiện bởi một hoạt động
chuyên biệt - hoạt động học với nội dung, phương pháp, phương tiện học tập.
Và “tự học” là bộ phận quan trọng nhất trong hoạt động học tập của SV,
đó chính là sự tự ý thức về động cơ, mục đích, biện pháp học tập, SV phải giải
quyết các nhiệm vụ học tập do cán bộ giảng dạy và do chính người học đề ra.
Tự học là “tự động học tập”, thể hiện tính tự lực, tự giác, tích cực cao trong
quá trình lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kỹ năng. Vì vậy, tự học mang đậm sắc
thái cá nhân, biểu hiện ở tự xác định mục tiêu chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện
kỹ năng, hoàn thành các nhiệm vụ tự học cụ thể đặt ra trong từng giờ học,
buổi học; tự xác định nội dung, nhiệm vụ, lựa chọn phương pháp tự học, sử
dụng phương tiện tự học hợp lý, phù hợp với bản thân; tự kiểm tra, đánh giá,
tự điều chỉnh việc học của bản thân.
Trong hoạt động học tập ở bậc đại học, SV không thể chỉ có năng lực
nhận thức thông thường mà cần phải tiến hành hoạt động nhận thức mang tính
chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, sáng tạo phát triển mức
độ cao. Dưới vai trò chủ đạo của GV, SV không nắm máy móc những chân lý
có sẵn mà họ có khả năng tiếp nhận những chân lý đó với óc phê phán, có thể
khẳng định, phủ định, hoài nghi khoa học, lật ngược vấn đề, đào sâu, mở
rộng... Hơn nữa, trong quá trình học đại học, SV còn tham gia tìm kiếm chân


16
lý mới, đó là hoạt động nghiên cứu khoa học được tiến hành ở các mức độ

thấp đến cao tùy theo chương trình các bộ môn.
Từ những nhận định trên tác giả cho rằng: Hoạt động học tập của
sinh viên Trường Đại học Tôn Đức Thắng là những hành động học tập tự
giác, tích cực, chiếm lĩnh các kiến thức khoa học, phát triển trí tuệ, rèn
luyện các kỹ năng, kỹ xảo về nghề nghiệp, hình thành và phát triển nhân
cách người học, dưới sự chỉ đạo của người dạy và tổ chức quản lý trong
môi trường sư phạm.
Thực chất, hoạt động học tâp của SV là toàn bộ những hành động của
người học mang tính tự giác cao, có chủ đích, được điều khiển chỉ đạo của
các chủ thể quản lý theo một chương trình kế hoạch cụ thể, nhằm đạt được
các yêu cầu về lĩnh hội tri thức, rèn luyện phẩm chất nhân cách đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của nhà trường.
Nội dung hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại học Tôn Đức Thắng.
Ở Trường Đại học Tôn Đức Thắng, các hoạt động học tập của SV chủ
yếu thông qua kỹ năng nhận biết, so sánh, phân tích, phân loại, khái quát hóa,
thực hành, thực tập. Thời gian học tập của SV bao gồm cả thời gian lên lớp
chính khóa, thực hành, thực tập, tự học, thi, kiểm tra, bảo vệ khóa luận tốt
nghiệp... Không gian hoạt động học tập diễn ra ở trên lớp, đơn vị thực tập, ở
nhà... Phương tiện chủ yếu của hoạt động học tập là giấy, bút, sách, giáo trình,
máy tính, dụng cụ thực hành... Điều kiện hoạt động học tập có sự tham gia
của các yếu tố bên ngoài (ngoại lực) như: có sự hướng dẫn của thầy giáo,
phương tiện học tập... Và, điều kiện bên trong (nội lực) là sự vận động tự giác
của chính bản thân người học, trong đó, yếu tố nội lực đóng vai trò quan
trọng, quyết định.
Hoạt động học tập của SV gồm: Hoạt động học tập trên lớp, hoạt động
học tập tự học ở nhà và ở thư viện. Hoạt động học tập trên lớp đó là việc tham


17
gia đầy đủ các buổi học trên lớp; đi học đúng giờ; trong lớp tập trung lắng

nghe GV giảng bài; tích cực tham gia phát biểu, trao đổi học tập với GV, nêu
ý kiến; tham gia tích cực trong hoạt động thảo luận nhóm. Hoạt động học tập
tự học đó là việc xem lại bài giảng các môn vừa mới học trong ngày; làm bài
tập, đồ án, tiểu luận ở nhà; nghiên cứu bài mới sắp học; tìm đọc sách, tài liệu
tham khảo do GV giới thiệu; đi học thêm để nâng cao trình độ ( ngoại ngữ, tin
học, nghiệp vụ...).
Hoạt động học tập của SV có đầy đủ những đặc điểm và bản chất của quá trình học
tập nói chung là: Đối tượng của hoạt động học tập là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương
ứng. Người học phải chiếm lĩnh được hệ thống kiến thức trong chương trình học tập để sử
dụng chúng trong thực tiễn cuộc sống. Mục đích của hoạt động học tập hướng vào làm
thay đổi chính chủ thể của hoạt động.
Hoạt động học tập của SV mang tính độc lập, trí tuệ, trong mối quan hệ chặt chẽ với
hoạt động tập thể, hoạt động thực tiễn, hoạt động tự rèn luyện của SV trong đó yếu tố quyết
định kết quả học tập của SV chính là động cơ học tập.
Yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động học tập của sinh viên
Mục đích, động cơ học tập
Hoạt động của con người bao giờ cũng có tính mục đích. Một trong những mục
đích hoạt động của con người là làm biến đổi chính bản thân mình. Vì vậy, mục đích sẽ
hướng về nội dung, yêu cầu và phương thức hoạt động giúp con người đạt tới điều mình
mong muốn. Nói cách khác mục đích là mô hình đặt ra trước trong ý thức con người, nó
hướng dẫn hành động và điều chỉnh hành động.
Mục đích được thúc đẩy bởi những động cơ nhất định. Hoạt động học tập cũng vậy,
động cơ học tập là nguồn gốc tạo ra trạng thái tích cực trong học tập. Động cơ học tập rất
phong phú và đa dạng. Nó không thể được hình thành bằng cách áp đặt mà được hình
thành trong quá trình học tập và giải quyết các nhiệm vụ học tập, đồng thời nó còn được
hình thành trong quá trình giáo dục, tổ chức, điều khiển hoạt động học tập của SV. Nếu
trong quá trình dạy học, thầy tổ chức cho SV tự phát hiện ra những điều mới lạ, tự giải
quyết những nhiệm vụ học tập tạo ra những ấn tượng tốt đẹp đối với việc học thì dần dần
làm nảy sinh nhu cầu học tập ở các em. Khi học tập trở thành nhu cầu không thể thiếu



18
được của SV thì nó sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần thúc đẩy HSSV khắc phục khó khăn để
giành lấy tri thức. Để hình thành động cơ học tập cho SV trước hết cần khơi dậy mạnh mẽ
ở các em nhu cầu nhận thức. Cần phải làm cho SV hiểu rõ tại sao phải học tập, học để làm
gì. Chỉ khi nào SV thấy việc học sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân thì mới có thể
hy vọng sự tự giác, tích cực học tập của các em và điều đó là yếu tố cơ bản góp phần nâng
cao kết quả học tập.
Các điều kiện, phương tiện vật chất phục vụ học tập
Cơ sở vật chất, trang thiết bị là một yếu tố quan trọng phục vụ cho hoạt động giảng
dạy và học tập của SV. Vì vậy, quản lý CSVC và trang thiết bị là một nội dung quan trọng
trong công tác quản lý giáo dục trong nhà trường nhằm mục đích phục vụ tốt nhất cho việc
giảng dạy và học tập của SV.
Quản lý tốt cơ sở vật chất nhà trường không chỉ đơn thuần là bảo quản tốt, mà phải
phát huy tốt năng lực của chúng cho dạy học và giáo dục, đồng thời còn làm sao để có thể
thường xuyên bổ sung thêm những thiết bị mới và có giá trị.
CSVC, trang thiết bị, phương tiện học tập là điều kiện để SV tiến hành hoạt động
học tập. Đó là toàn bộ các thành tố vật chất giúp SV tiến hành thao tác học tập như: phòng
học, sách vở, xưởng thực hành với các máy móc, thiết bị học tập và các điều kiện về ăn ở,
học tập ở ký túc xá,...
Như vậy, một hoạt động muốn có kết quả phải có động cơ, mục đích, và phương
tiện. Vì vậy, muốn cho hoạt động học tập có kết quả, nhà giáo dục phải làm cho người học
có được động cơ, mục đích học tập đúng đắn đồng thời phải chuẩn bị những phương tiện
cần thiết để đạt tới mục tiêu đã định.
Phong trào học tập trong tập thể sinh viên
Tập thể có vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách. Đó là một nhóm
người, một bộ phận xã hội gắn bó chặt chẽ theo mục đích chung.
Theo PGS, TS Phạm viết Vượng: tập thể học sinh là một tập thể được tổ chức để
giáo dục, là một môi trường thuận lợi để học sinh thi đua và là nơi để học sinh thử sức, thể
hiện và khẳng định khả năng của mình[54].

Chúng ta biết rằng: Một trong những hoạt động cơ bản của tập thể SV là hoạt động
học tập. Vì vậy, bầu không khí học tập trong tập thể SV có vai trò rất quan trọng trong việc
hình thành động cơ và ý thức học tập. Như vậy, mọi người trong tập thể gương mẫu cố
gắng hoàn thành nhiệm vụ học tập sẽ là môi trường tốt nhất giúp người học có ý thức tự


19
giác, tạo niềm say mê, phấn khởi cố gắng khẳng định mình trước tập thể. Nhà quản lý cần
hết sức quan tâm tổ chức giúp đỡ để phát triển các tập thể SV.
Cách đánh giá kết quả học tập của sinh viên
Thực chất của đánh giá là thu thập các chứng cứ để so sánh với chuẩn mực đã được
xác định. Đánh giá kết quả học tập là xác định mức độ nắm được kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo của SV so với chương trình đề ra.
Việc đánh giá chính xác, chân thực, hình thức nội dung đánh giá phù hợp với mục
tiêu, yêu cầu đào tạo sẽ có tác dụng trực tiếp với người học, giúp người học tìm ra nguyên
nhân, đề ra những giải pháp để việc học có hiệu quả. Việc đánh giá tốt sẽ dẫn đến tự đánh
giá tốt của đối tượng. Nó có tác động mạnh mẽ đến tâm lý đối tượng, tạo điều kiện để đối
tượng phát triển nhân cách, thói quen tự đánh giá đúng mình, tinh thần trách nhiệm, nỗ lực
ý chí, tính kiên định, lòng tự tin vào mình.
Như vậy, nếu mục tiêu đánh giá không nhằm chủ yếu vào những kiến thức mà SV
thu được thông qua bài giảng của GV mà nhấn mạnh đến các kiến thức cơ bản đã được
người học chọn lọc, bổ sung và khả năng tự lập (tự tìm việc làm, dễ chuyển nghề, tự học
suốt đời…) thì sẽ buộc người học phải nỗ lực tìm kiếm các phương pháp học tập phù hợp
cho bản thân để đạt được kết quả học tập cao nhất.
Phương pháp giảng dạy của giáo viên
Phương pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá trình dạy
học. Cùng một nội dung nhưng SV học tập có hứng thú có tích cực hay không? phần lớn
phụ thuộc vào phương pháp dạy học của người thầy
Phương pháp dạy học là cách thức tổ chức hoạt động dạy học của giáo viên và cách
thức tổ chức hoạt động học tập của SV trong quan hệ đó, phương pháp dạy quyết định,

điều khiển phương pháp học, phương pháp học tập của SV là cơ sở để lựa chọn phương
pháp dạy.
Như vậy, phương pháp dạy học là sự kết hợp hữu cơ, biện chứng giữa phương pháp
dạy của GV và phương pháp học của SV; phương pháp dạy đóng vai trò chủ đạo, phương
pháp học có tính độc lập tương đối, chịu chi phối của phương pháp dạy, song nó cũng ảnh
hưởng trở lại của phương pháp dạy.
Hiệu quả của phương pháp dạy học phụ thuộc vào trình độ nghiệp vụ sư phạm của
giáo viên. Việc nắm vững nội dung dạy học và quy luật, đặc điểm nhận thức của SV là tiền
đề quan trọng cho việc sử dụng phương thức dạy học nào đó. Thực tiễn cho thấy, cùng một


20
nội dung dạy học, cùng sử dụng một phương pháp dạy học, nhưng mức độ thành công của
các giáo viên là khác nhau.
Điều đó cho thấy phương pháp dạy học của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động học tập của HSSV.
Phương pháp học tập của sinh viên
Trong hoạt động học tập, phương pháp học tập là yếu tố cần thiết giúp người học
hoàn thành nhiệm vụ học tập. Hoạt động học tập của SV là hoạt động tự giác, tích cực, chủ
động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức - học tập của mình nhằm thu nhận, xử
lý và biến đổi những thông tin bên ngoài thành tri thức của bản thân, qua đó người học thể
hiện mình, biến đổi mình, tự làm phong phú những giá trị của mình. Tính tự giác nhận thức
trong quá trình học tập thể hiện ở chỗ người học ý thức đầy đủ mục đích, nhiệm vụ học
tập, từ đó nỗ lực trong việc lĩnh hội tri thức.
Xét cho cùng, mọi ảnh hưởng của thầy giáo, phong trào trong tập thể SV các điều
kiện phương tiện học tập… đều là những yếu tố bên ngoài tác động đến hoạt động học tập
của SV. Kết quả và chất lượng học tập phụ thuộc trực tiếp và chủ yếu vào chính bản thân
SV trong đó phương pháp học tập đóng vai trò quyết định nhất. Nếu người học có một
phương pháp học tập tốt biết giành lấy tri thức bằng chính hành động của mình, học tập
một cách sáng tạo, biết liên hệ vận dụng tri thức vào thực tiễn sẽ là điều kiện cơ bản để

nâng cao chất lượng học tập.

1.1.2. Quản lý hoạt động học tập của sinh viên
Quản lý là “Hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ đích của
chủ thể quản lý ( người quản lý ) đến khách thể quản lý (người bị quản lý)
trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của
tổ chức” [2, tr.7].
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý như: “Quản lý là
tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản
lý trong một tổ chức làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích của
tổ chức”[20]; “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách
vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo)
và kiểm tra”[28]... Thực chất của hoạt động quản lý là việc giải quyết mối


21
quan hệ giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Bản chất của hoạt động
quản lý là việc phát huy được nhân tố con người trong tổ chức. Mục đích
quản lý là hoạch định, tổ chức, bố trí nhân sự, kiểm soát công việc và những
nỗ lực của con người nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Quản lý hoạt động học tập của SV là một trong những nội dung chủ
yếu của quản lý nhà trường. Thực chất quản lý học tập của SV là hệ thống
những tác động có ý thức của chủ thể quản lý trong nhà trường đến quá trình
nhận thức của SV.
Theo PGS, TS Phạm Viết Vượng: “Quản lý hoạt động học tập là
quản lý học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập, là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch giúp học sinh học tập tốt nhất, rèn luyện tu
dưỡng tốt nhất. Quản lý hoạt động học tập của học sinh bao hàm cả quản
lý thời gian và chất lượng học tập, quản lý tinh thần, thái độ và phương
pháp học tập”[57].

Mục đích của việc quản lý hoạt động học tập là làm cho quá trình thực
hiện các nhiệm vụ học tập của SV đạt tới kết quả mong muốn. Trước hết, chủ thể
quản lý phải theo dõi để nắm bắt được những biểu hiện tích cực và tiêu cực trong
nhận thức của SV về tầm quan trọng của việc học tập, về thái độ, động cơ, ý thức
học tập… của SV nói chung và của từng SV nói riêng để có biện pháp thúc đẩy,
khuyến khích SV phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực phấn
đấu vươn lên đạt kết quả học tập và rèn luyện ngày càng cao.
Mặc dù cùng được tuyển chọn vào học ở trường theo một tiêu chuẩn
chung, nhưng các SV cùng lớp, cùng khoá cũng có những khác biệt về khía
cạnh này hay khía cạnh khác trong nhân cách. Những khác biệt đó làm cho
quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập, rèn luyện cũng như kết quả học tập,
rèn luyện đạt được của các SV khác nhau. Bên cạnh đó chính bản thân SV có
những biến đổi do tác động của GD&ĐT, môi trường học tập, xã hội làm cho


22
sự cải biến nhân cách của họ trở nên đa dạng, phức tạp. Do đó, quản lý hoạt
động học tập của SV là nhằm:
Theo dõi, tìm hiểu để nắm được được những biểu hiện tích cực và tiêu
cực trong việc thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện cũng như những biến đổi
nhân cách của SV nói chung và của từng SV nói riêng.
Theo dõi, thúc đẩy, khuyến khích SV phát huy các yếu tố tích cực,
khắc phục các yếu tố tiêu cực, phấn đấu vươn lên đạt kết quả học tập, rèn
luyện ngày càng cao.
Tác giả cho rằng: Quản lý hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại
học Tôn Đức Thắng là những tác động có mục đích, có mục đích, có kế hoạch
của chủ thể quản lý tác động đến hoạt động của tập thể sinh viên và sinh viên
bằng hệ thống những biện pháp quản lý, nhằm làm cho sinh viên đạt kết quả
cao nhất trong học tập, nghiên cứu khoa học và rèn luyện theo mục tiêu, yêu
cầu đào tạo.

Thực chất, quản lý hoạt động học tập của SV là những tác động quản lý
nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác, sáng tạo của người học để tìm
tòi, nghiên cứu, lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành, phát triển và
hoàn thiện phẩm chất nhân cách theo mục tiêu yêu cầu đào tạo.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại
học Tôn Đức Thắng
Quản lý hoạt động học tập trong nhà trường không chỉ trang bị cho
người học những kiến thức kỹ xảo, kỹ năng mà loài người đã tích luỹ được
qua bài giảng của thầy mà còn tác động trực tiếp vào người học giúp người
học tự làm giàu thêm hiểu biết, tự mình rèn luyện những kỹ năng cần thiết
cho cuộc sống và nghề nghiệp tương lai.
Để hoạt động học tập của SV tiến triển tốt trong công tác quản lý cần
thực hiện các nội dung sau:


23
1.2.1.Quản lý việc xây dựng nhận thức về việc học tập cho sinh viên
Căn cứ vào thực tế của từng trường để giải quyết những vấn đề cụ thể
riêng, những yêu cầu phổ biến cần chú ý là từng bước xây dựng nhận thức
học tập cho SV từ thấp đến cao, từ gần đến xa. Những yêu cầu về giáo dục
tinh thần thái độ học tập cho SV được cụ thể hoá trong nội quy học tập để SV
rèn luyện thường xuyên thành thói quen tự giác và phải có sự thống nhất yêu
cầu, biện pháp giáo dục tinh thần, thái độ học tập trong tất cả SV từ các giờ
lên lớp đến các hoạt động khác. GVCN, GV bộ môn và các lực lượng giáo
dục khác trong toàn trường cần phối hợp chặt chẽ thống nhất sự giáo dục. Xây
dựng và thực hiện những nền nếp học tập, truyền thống học tập của nhà
trường, đề ra những quy định thống nhất về hoạt động học tập, xây dựng tác
phong học tập tốt cho SV, ngăn ngừa những hành vi sai trái. Vấn đề này có
ảnh hưởng quan trọng đến kết quả học tập và phát triển nhân cách của SV.
Hoạt động học tập của SV có tính độc lập cao và mang đậm sắc thái cá

nhân, điều này càng khẳng định nó phải được thúc đẩy bởi một hệ thống động
cơ học tập nói chung, động cơ tự học nói riêng. Giống như động cơ hoạt
động, động cơ học tập cũng có nhiều cấp độ khác nhau, bắt đầu tự sự thỏa
mãn nhu cầu phải hoàn thành nhiệm vụ học tập, khẳng định mình, mong
muốn thành thạo nghề nghiệp tương lai... cho tới cấp độ cao là thỏa mãn nhu
cầu hiểu biết, lòng khát khao tri thức. Nguồn gốc động cơ học tập của SV có
thể xuất phát từ bên ngoài, tức là do yêu cầu của nhà trường, gia đình và xã
hội. Đồng thời, có thể xuất phát từ bên trong, tức là từ nhu cầu nhận thức, nhu
cầu mong muốn có ích cho xã hội, từ xu hướng, hứng thú, thế giới quan, niềm
tin...của SV. Chính vì vậy, quản lý việc xây dựng được nhận thức về ý nghĩa
của hoạt động học tập cho SV giúp cho các cấp quản lý có thể quản lý được
hoạt động học tập của SV một cách tốt nhất.
1.2.2.Quản lý nội dung học tập của sinh viên


×