Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá ở tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 102 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NGÔ HỒNG HÀ

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ
Ở TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NGÔ HỒNG HÀ

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ
Ở TỈNH ĐỒNG NAI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐẶNG ĐỨC QUY

HÀ NỘI - 2014



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

An toàn lao động

ATLĐ

Bảo hiểm xã hội

BHXH

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Giải quyết việc làm

GQVL

Hợp tác xã

HTX

Khu công nghiệp


KCN

Lao động – Thương binh và xã hội

LĐ - TB & XH

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

NN & PTNT

Nông thôn mới

NTM

Tổng sản phẩm quốc nội

GDP

Ủy ban nhân dân

UBND


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ

TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở ĐỒNG NAI
1.1. Cơ sở lý luận giải quyết việc làm cho nông dân trong

10

quá trình đô thị hóa
1.2. Thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân trong quá

10

trình đô thị hóa ở Đồng Nai
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

39

Chương 2

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở ĐỒNG NAI
2.1. Một số quan điểm cơ bản về giải quyết việc làm cho

58

nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai trong
thời gian tới
2.2. Những giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho nông


58

dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai trong thời
gian tới

64

KẾT LUẬN

83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

85

PHỤ LỤC

90


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chăm lo giải quyết việc làm(GQVL) và cải thiện đời sống cho người
lao động đã trở thành chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta và
là mục tiêu xuyên suốt quá trình xây dựng đất nước của nhân dân ta. Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng nói: “ Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân
lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được
ấm no và được sống một đời hạnh phúc ”[14, tr.17]. Thấm nhuần tư tưởng đó,
Đảng ta luôn xác định: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy

nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp
ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân"[5, tr.210].
Như vậy, tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, một mặt nhằm phát
huy được tiềm năng lao động, nguồn lực to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã
hội, mặt khác còn là hướng đi cơ bản để xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả, là
cơ sở để cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần giữ vững an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự
nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục đi lên.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã và đang tạo ra những bước
ngoặt quan trọng cho sự phát triển của đất nước, theo đó diện mạo nông thôn
nước ta cũng đang có nhiều biến đổi to lớn do tác động của tốc độ đô thị hoá.
Bên cạnh những tác động tích cực, sự thay đổi này cũng đã bộc lộ những vấn
đề phức tạp mới về kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh, trật tự an toàn xã hội trên
những địa bàn đô thị hoá. Một trong những vấn đề kinh tế - xã hội nổi cộm là
tình trạng thiếu việc làm hoặc không tìm được việc làm do chưa thích ứng kịp
với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và nhu cầu về lao động có chất lượng cao.
Đây cũng chính là nỗi băn khoăn của các cấp chính quyền ở các địa phương
đang diễn ra quá trình đô thị hoá do tác động của công nghiệp hoá, hiện đại


4
hoá. Nếu không giải quyết đuợc vấn đề này một cách cơ bản sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, theo đó mục tiêu
phát triển bền vững mà Đảng và Nhà nước xác định cũng khó có thể trở thành
hiện thực.
Đồng Nai là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí
chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của khu
vực miền Đông Nam bộ. Là địa phương có dân số đông, đứng thứ 5 trong cả
nước, địa bàn rộng, tốc độ đô thị hóa nhanh, với hệ thống giao thông đa dạng
(Quốc lộ 1, Quốc lộ 51, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Long Thành

– Dầu Giây, đường cao tốc Bến Lức - Long Thành ...), với hơn 60 khu và cụm
công nghiệp tập trung với gần 12 ngàn nhà máy, công ty, xí nghiệp hoạt động
và đặc biệt là Cảng hàng không quốc tế Long Thành với diện tích khoảng 5.000
ha đang chuẩn bị được đầu tư xây dựng. Đây là những thuận lợi, là điểm nổi
bật của Đồng Nai so với các địa phương khác ở Nam Bộ, đồng thời cũng đặt ra
nhiều vấn đề phức tạp mới trong việc quản lý lao động và giải quyết việc làm,
ổn định đời sống đối với nông dân trong quá trình thực hiện các dự án. Thực tế
quá trình đô thị hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng, quy mô rộng lớn ở
Đồng Nai những năm qua đã làm nảy sinh những vấn đề kinh tế - xã hội phức
tạp mới. Tình trạng nông dân sau khi hiến đất cho các khu công nghiệp, những
vùng đô thị hóa lúng túng trong việc chuyển đổi nghề nghiệp đang là những
vấn đề phức tạp mới đối với lãnh đạo và chính quyền các cấp. Đây không chỉ là
nhiệm vụ kinh tế mà còn là nhiệm vụ chính trị xã hội hết sức quan trọng và bức
thiết đối với Đồng Nai hiện nay. Từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu vấn đề giải
quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá ở Đồng Nai hiện nay là
hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả lựa
chọn đề tài “Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá ở
Đồng Nai” làm luận văn cao học kinh tế.


5
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân là một trong những chủ
đề được quan tâm khá nhiều trong các cuộc hội thảo khoa học trên các diễn
đàn quốc gia, quốc tế. Đặc biệt trong những năm gần đây vấn đề này càng trở
nên hấp dẫn và thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả, nhiều nhà
khoa học khi vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân đã trở
thành tâm điểm trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
trước tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Đã có khá nhiều công trình khoa học, đề tài nghiên cứu bàn về vấn đề

này. Có thể kể ra một số công trình khoa học tiêu biểu liên quan trực tiếp đến
đề tài sau đây :
* Dưới dạng các ấn phẩm thành sách
- “Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp”, Chu Tiến Quang,
Nxb CTQG, H. 2001. Tác giải đã phân tích làm rõ vấn đề việc làm ở nông
thôn Việt Nam và cho rằng, việc làm cho người lao động và thất nghiệp là
một trong những vấn đề toàn cầu. Từ đó, đưa ra phương pháp tiếp cận tổng
quát về chính sách việc làm, hệ thống khái niệm về lao động, việc làm, đánh
giá thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam. Nội dung của công trình đã đề
xuất hệ thống các quan điểm, giải pháp giải quyết việc làm và kiến nghị một
số chính sách cụ thể về việc làm, chống thất nghiệp trong công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
- “Đô thị hoá ở Việt Nam - từ góc nhìn nông nghiệp, nông thôn, nông
dân”của GS, TS Phùng Hữu Phú, Nxb CTQG, H. 2009.
Tác giả cho rằng từ lâu nay, vấn đề đô thị hóa tuy có bàn đến nhưng
chưa được quan tâm đúng tầm, trong khi trên thực tế, làn sóng đô thị đang
từng ngày, từng giờ tác động trực tiếp nhiều mặt đến nông nghiệp, nông thôn,
nông dân. Đô thị hóa đã làm cho địa bàn nông thôn xuất hiện những khu công


6
nghiệp, khu chế xuất, trung tâm dịch vụ .... từ đó tạo nhiều cơ hội cho người
nông dân có thêm ngành nghề mới, tạo thêm việc làm, đời sống văn hóa tinh
thần được nâng lên rõ rệt. Song quá trình đô thị hóa vẫn còn nhiều mâu thuẫn,
thách thức, nhất là vấn đề về quy hoạch, quản lý sử dụng đất, sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, sự ùn tắc lao động nông nghiệp, văn hóa, môi trường suy
thoái. Từ những vấn đề trên, tác giả đã đề xuất một số giải pháp mang tính
khái quát nhằm đảm bảo cho quá trình đô thị hóa ở khu vực nông thôn đi
đúng quy định khách quan của nó.
- Vấn đề bồi thường trong thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, thực

trạng và giải pháp của Nông Mạnh Hải, Nxb CTQG, H. 2007.
Tác giả cho rằng, trong những năm qua, quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa ở nước ta đã mang lại nhiều lợi thế cho
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống của đại bộ phận người dân
được nâng lên. Công tác bồi thường cho những hộ nông dân bị thu hồi đất
phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được tiến hành đúng
pháp luật. Các cơ quan, ban, ngành thực hiện tốt chức năng của mình, đảm
bảo đáp ứng mong muốn của nhân dân. Song trong công tác đền bù còn gặp
nhiều vướng mắc, nhất là trong đền bù đất nông nghiệp. Từ thực trạng đó, tác
giả đã đưa ra nhiều giải pháp phù hợp, nhằm thực hiện tốt hơn nữa công tác
bồi thường trong thu hồi đất ở Việt Nam thời gian tới.
* Dưới dạng luận văn, luận án
- Giải quyết việc làm cho người lao động và tác động của nó đến cũng cố
quốc phòng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay (2001), Luận văn thạc sĩ,
Dương Văn Thi, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội. Tác giả làm rõ cơ sở lý
luận GQVL cho người lao động ở tỉnh Bắc Giang, đồng thời tác giả phân tích
thực trạng GQVL cho người lao động và tác động của nó đến củng cố quốc
phòng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.


7
- Việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh (2006), Luận văn
thạc sĩ, Nguyễn Thị Hồng Ninh, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã
tập trung nghiên cứu đưa ra các quan niệm về việc làm, về GQVL cho người lao
động ở nông thôn. Tác giả luận giải, phân tích thực trạng việc làm, GQVL ở Việt
Nam nói chung, của tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và đề xuất phương hướng và một số
giải pháp GQVL phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
- Giải quyết việc làm cho nông dân có đất nông nghiệp chuyển đổi phục
vụ phát triển khu công nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay (2010), Luận văn thạc
sĩ kinh tế, Hà Văn Tâm, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác giả tập trung nghiên

cứu việc làm, GQVL cho nông dân có đất nông nghiệp chuyển đổi, luận giải
thực trạng GQVL, nêu các quan điểm và đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm giải quyết tốt vấn đề việc làm cho nông dân có đất nông nghiệp chuyển
đổi phục vụ phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
- Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định trong
quá trình đô thị hóa hiện nay (2012), Luận văn thạc sĩ kinh tế, Dương Xuân
Hoàn, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác giả phân tích làm rõ một số vấn đề lý
luận, thực tiễn về GQVL cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa.
Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ
yếu nhằm GQVL cho lao động nông nghiệp tỉnh Nam Định trong quá trình đô
thị hóa hiện nay.
* Dưới dạng các bài báo khoa học
- “Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt ra” Nguyễn
Sinh Cúc, tạp chí Con số và Sự kiện, số 8 năm 2003.
- “Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hoá,
công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn” của Nguyễn Hữu Dũng, tạp chí
Lao động và Xã hội, số 247 năm 2004.
- “Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn” của Vũ Đình Thắng, tạp
chí Kinh tế và Phát triển, số 3 năm 2003


8
- “Thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho
giai đoạn 2001-2005” của Bùi Văn Quán, tạp chí Lao động và Xã hội, số
chuyên đề 3 năm 2001
Tổng quát lại các công trình và bài viết trên đây đã đề cập khá đầy đủ
và toàn diện cơ sở lý luận của việc làm, lao động và những vấn đề giải quyết
việc làm cho nông dân mang định hướng vĩ mô. Trong các công trình đó, các
tác giả đặt vấn đề về việc làm của người lao động và thất nghiệp là một trong
những vấn đề toàn cầu, đề ra phương pháp tiếp cận tổng quát về chính sách

việc làm, hệ thống khái niệm về lao động, việc làm, đánh giá thực trạng vấn
đề việc làm ở Việt Nam. Tuy nhiên, dưới góc độ tiếp cận nghiên cứu vấn đề
giải quyết việc làm cho nông dân từ một địa phương có những đặc điểm điển
hình về đô thị hoá như Đồng Nai thì cho đến nay vẫn chưa có những công
trình được nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống. Những tài liệu đã được kể
trên sẽ là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng mà tác giả có thể tham
khảo cho việc nghiên cứu vấn đề.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết việc làm cho nông dân ở
Đồng Nai trong quá trình đô thị hoá, trên cơ sở đó đề xuất một số quan điểm,
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình này.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận giải quyết việc làm cho nông dân ở Đồng Nai
trong quá trình đô thị hóa.
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng giải quyết việc làm cho nông
dân ở Đồng Nai trong quá trình đô thị hoá.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho
nông dân ở Đồng Nai trong quá trình đô thị hoá.


9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân
trong quá trình đô thị hóa.
* Phạm vi nghiên cứu: Giải quyết việc làm cho nông dân đang sinh
sống ở Đồng Nai trong quá trình đô thị hóa và thời gian chủ yếu tính từ năm
2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của

chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luận của nhà nước.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, tác giả luận văn sử dụng phương pháp đặc thù của
kinh tế chính trị là chủ yếu, đồng thời kết hợp với một số phương pháp khác
như: thống kê so sánh, phân tích tổng hợp, khảo sát thực tiễn và lấy ý kiến
chuyên gia để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra của đề tài luận văn.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu và giảng dạy môn học kinh tế chính trị Mác – Lênin, đồng thời có
thể là tài liệu tham khảo để làm căn cứ cho các cơ quan chức năng nghiên cứu
xây dựng chính sách quản lý lao động và giải quyết việc làm cho nông dân ở
Đồng Nai và các địa phương có đặc điểm tương tự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm 2 chương 4 tiết, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.


10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở ĐỒNG NAI.
1.1. Cơ sở lý luận giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình
đô thị hóa
1.1.1. Quan niệm việc làm và giải quyết việc làm nói chung
* Quan niệm việc làm
Ngày nay, việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn
đề có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia, bởi nó ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của một đất nước. Tăng việc làm, giảm tỉ lệ
thất nghiệp là một trong những biện pháp quan trọng để từng bước ổn định và

nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo phát triển bền vững. Đặc biệt đối với
Việt Nam, một đất nước có tốc độ tăng dân số khá nhanh, nguồn lao động dồi
dào, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa thực sự ổn định và bền vững
thì việc tận dụng và khai thác nguồn lực lao động xã hội là vô cùng cần thiết.
Thực tế đó đang đặt ra những vấn đề cấp bách cần phải tạo mọi điều kiện để
khai thác hết tiềm năng lao động. Nhưng trước hết là cần phải có sự thống
nhất nhận thức để đạt tới sự đồng thuận cao về quan niệm việc làm và giải
quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa.
Ở nước ta, trước những năm đổi mới, trong thời kỳ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung dựa trên hai thành phần kinh tế cơ bản là kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể hợp tác xã, việc làm được quan niệm là những công
việc đòi hỏi ở một mức độ chuyên môn nào đó, tạo ra thu nhập nhất định;
người lao động được coi là có việc làm phải là những người làm việc ở trong
các cơ quan của Nhà nước, hay trong các thành phần kinh tế thuộc Nhà nước
quản lý như kinh tế quốc doanh, nông trường quốc doanh hoặc trong các hợp
tác xã. Trong cơ chế đó, nhà nước đã đứng ra giải quyết việc làm, trực tiếp


11
quản lý nguồn lao động kể từ khâu đào tạo, phân bổ đến việc sử dụng đãi ngộ
đối với người lao động thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh. Trong giai đoạn này,
những khái niệm về thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy
đủ... hầu như không được biết đến. Còn khái niệm “thất nghiệp” dường như là
điều cấm kị nói tới dưới bất kỳ hình thức nào. Do đó việc làm và người có
việc làm được xã hội thừa nhận và trân trọng là những người làm việc trong
các cơ sở kinh tế quốc doanh, khu vực Nhà nước và kinh tế tập thể.
Từ khi đất nước chuyển sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH thì quan niệm về việc làm
có bước phát triển mới toàn diện hơn. Tại Điều 13 bộ luật Lao động được Quốc
hội thông qua ngày 23/6/1994 có ghi: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn

thu nhập, không bị pháp luật cấm, đều được thừa nhận là việc làm”[23,tr.132].
Theo đó có thể hiểu mọi hoạt động được coi là việc làm cần phải thoả mãn hai
điều kiện cơ bản. Thứ nhất, việc làm là những hoạt động lao động có ích cho
bản thân, gia đình và cộng đồng. Thứ hai, người lao động được tự do hành nghề,
hoạt động đó không bị pháp luật cấm. Hai điều kiện trên có quan hệ chặt chẽ với
nhau, là điều kiện cần và đủ của một hoạt động được thừa nhận là việc làm.
Quan niệm trên đã tạo ra bước ngoặt mới và là cơ sở pháp lý cho việc tự tạo việc
làm, giải quyết việc làm phù hợp. Bởi lẽ, nhận thức mới về việc làm đã dẫn đến
các thay đổi về quan niệm, cũng như chính sách và các biện pháp tạo việc làm
cho người lao động. Từ chỗ tạo việc làm, giải quyết việc làm cho người lao động
là thuộc trách nhiệm của Nhà nước, người lao động dựa dẫm vào Nhà nước, nay
chuyển sang nhận thức mới là: mọi hoạt động lao động - xã hội tạo ra thu nhập
mà không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm. Tạo việc làm
chính là quá trình tạo ra những điều kiện và môi trường bảo đảm cho mọi người
có khả năng lao động đều có cơ hội được lao động, tạo ra của cải vật chất cho xã
hội và đem lại thu nhập cho bản thân, nghĩa là có việc làm. Tham gia vào quá


12
trình này không chỉ có riêng Nhà nước mà còn có cả các thành phần kinh tế, các
tổ chức đoàn thể và cá nhân người lao động. Trong đó, người lao động phải chủ
động tìm kiếm việc làm, tự tạo ra việc làm cho mình, trong môi trường kinh tế xã hội thống nhất, sẽ có ý nghĩa quyết định nhất.
Quan niệm này đã xóa bỏ được quan niệm cũ khi cho rằng chỉ có làm
việc trong khu vực Nhà nước mới được coi là có việc làm. Bởi vì, lao động
tạo ra nguồn thu nhập không chỉ trong khu vực Nhà nước mà cả trong khu
vực tư nhân, cá thể, hộ gia đình... Ý nghĩa kinh tế, xã hội của quan niệm này
là ở chỗ nó xóa bỏ sự phân biệt đối xử lao động giữa các thành phần kinh tế,
động viên mọi tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Mặt khác,
khái niệm trên còn làm sâu sắc thêm đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, thể hiện ở chỗ cho phép công dân Việt Nam được làm những

việc mà pháp luật không cấm.
Với quan niệm trên đây về việc làm còn là cơ sở, là căn cứ pháp
lý để phân biệt việc làm chính đáng với các hoạt động việc làm phi pháp. Nếu
một hoạt động tạo ra thu nhập, nhưng vi phạm pháp luật như trộm cắp, buôn
bán ma tuý, mại dâm... thì không được thừa nhận là việc làm. Mặt khác một
hoạt động là hợp pháp và có ích, nhưng không tạo ra thu nhập cũng không
được thừa nhận là việc làm.
* Các dạng việc làm
Trong lý thuyết và cả trong thực tế việc làm được chia làm nhiều hình
thức khác nhau. Những hình thức việc làm là các phương pháp tổ chức pháp
lý và những điều kiện sử dụng lao động. Trong khuôn khổ của thị trường lao
động quốc gia hoạt động lao động của con người được tổ chức với sự trợ giúp
của những hình thức tổ chức pháp lý khác nhau, được phân biệt bởi định mức
điều tiết pháp lý thời gian và chế độ ngày làm việc, sự đều đặn của hoạt động
lao động, vị trí thực hiện công việc...


13
- Việc làm đầy đủ: khái niệm việc làm đầy đủ không thể chỉ giải thích
theo một nghĩa, nó phụ thuộc vào tiêu chí và tính chất của vấn đề. Đầy đủ ở
đây không có nghĩa là việc làm chung cho tất cả mọi người, đảm bảo chỗ làm
việc cho tất cả dân số có khả năng lao động. Xã hội luôn có khuynh hướng đạt
được cân đối nguồn lao động trong mức tối đa, dự đoán dòng chuyển động
nguồn lao động được dựa trên cơ sở dự báo và lên kế hoạch tạo chỗ làm việc.
Trong tư duy và thực tế ở phương Tây, việc làm đầy đủ là tình hình nền
kinh tế, mà ở đó tất cả những người mong muốn làm việc có việc làm với
mức lương thực tế khống chế. Trong ngữ cảnh này nó được sử dụng đồng
nhất như khái niệm “toàn dụng nhân lực”.
Trong lý thuyết kinh tế và thực tế người ta còn chia việc làm đầy đủ ra
thành nhiều dạng như việc làm năng suất và việc làm hiệu quả .

+ Việc làm năng suất có nghĩa là việc làm tạo ra những phúc lợi và
dịch vụ hữu ích cả cho xã hội và cả cho từng người lao động.
+ Việc làm hiệu quả là việc làm trong sản xuất sinh lợi nhuận được
trang bị kỹ thuật với tổ chức lao động tiên tiến, năng suất lao động cao và
đảm bảo chất lượng sản phẩm.
- Việc làm hợp lý: là sự thoả mãn nhu cầu làm việc cho bất cứ ai có khả
năng lao động trong nền kinh tế quốc dân và phù hợp với trình độ, nguyện
vọng của họ. Việc làm hợp lý dự đoán sự phân chia một cách tối ưu người
đang làm việc theo các ngành sản xuất và các khu vực lãnh thổ của đất nước
với mục đích sản xuất ra những sản phẩm và sử dụng những dịch vụ phục vụ
cho nhu cầu.
Việc làm hợp lý không những hàm chứa nội dung việc làm đầy đủ mà
còn nói rõ việc làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người
lao động. Việc làm hợp lý, do vậy có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế
-xã hội cao hơn so với việc làm đầy đủ. Trong quá trình thực hiện việc làm


14
đầy đủ, cần từng bước, từng bộ phận thực hiện việc làm hợp lý. Việc làm hợp
lý phản ánh sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các yếu tố con
người với điều kiện vật chất của sản xuất và xã hội, hợp lý giữa lợi ích cá
nhân người lao động với lợi ích của xã hội.
Khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý cũng chỉ mang ý nghĩa
tương đối. Vì trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì việc làm đầy đủ và
việc làm hợp lý không có nghĩa là không có người thất nghiệp. Mục tiêu phấn
đấu của chúng ta là việc làm, tiến tới việc làm đầy đủ, việc làm hợp lý và tự
do lựa chọn việc làm.
* Mối quan hệ giữa việc làm và lao động
Khái niệm việc làm có liên quan chặt chẽ với khái niệm lao động hay nói
cách khác lao động và việc làm luôn gắn bó với nhau. Việc làm và lao động là

hai cặp phạm trù luôn đi liền với nhau, gắn bó khăng khít và có mối quan hệ
phụ thuộc vào nhau. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những
chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn
ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội về lao động,
là nội dung chính của hoạt động con người. Về góc độ kinh tế, việc làm thể
hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con
người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. Sự tương thích, gắn bó và
phụ thuộc vào nhau giữa lao động và việc làm được thể hiện ra ở mối quan hệ
giữa cơ cấu lao động với cơ cấu việc làm. Một khi cơ cấu việc làm phù hợp và
tương thích với cơ cấu lao động thì đó là trường hợp lý tưởng khi cung việc
làm trùng khít với cầu về lao động. Trong trường hợp này lao động được huy
động và sử dụng triệt để cho các lĩnh vực, ngành nghề tạo ra việc làm và đang
có nhu cầu thực sự về lao động. Hay nói cách khác, đó là trường hợp cơ cấu
việc làm phù hợp với cơ cấu lao động cả về số lượng và chất lượng. Trong
trường hợp này xã hội không có hiện tượng dư thừa lao động. Tuy nhiên, đây
chỉ là giả thuyết lý tưởng vì trên thực tế rất hiếm khi xảy ra.


15
Trên thực tế thường xảy ra tình trạng cơ cấu lao động và cơ cấu việc
làm nhiều khi không thể trùng khít, do không đáp ứng được yêu cầu của nhau.
Đó là tình trạng vừa thừa vừa thiếu lao động, thừa lao động giản đơn nhưng
lại thiếu lao động kỹ thuật, lao động đã qua đào tạo. Đây là hiện tượng phổ
biến thường xảy ra trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế
nói chung, đặc biệt đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn – Lĩnh vực sản
xuất mà phần lớn lao động đều chỉ là lao động giản đơn, ít được đào tạo chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm.
* Quan niệm giải quyết việc làm nói chung
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi
quốc gia có tác động không chỉ đối với sự phát triển kinh tế mà còn đối với đời

sống xã hội của mỗi quốc gia. Đối với nước ta giải quyết việc làm còn là giải
quyết một vấn đề cấp thiết trong xã hội đồng thời là tiền đề quan trọng để sử
dụng có hiệu quả nguồn lực lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động
đáp ứng nhu cầu của quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, là yếu tố quyết
định để phát huy nhân tố con người.
Vấn đề giải quyết việc làm luôn được các học giả, nhà nghiên cứu quan
tâm. Trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế đã có một số lý thuyết bàn
xoay quanh vấn đề giải quyết việc làm như: Lý thuyết tạo việc làm của J.M.
Keynes; Lý thuyết các yếu tố cơ bản của quá trình lao động của C.Mác; Lý
thuyết tạo việc làm bằng cách gia tăng đầu tư của các nhà kinh tế học thuộc
trường phái Chính hiện đại,...
Lý thuyết việc làm của J.M. Keynes cho rằng: việc làm có vai trò rất
quan trọng đối với sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Khi việc làm tăng
thì thu nhập thực tế tăng, cầu tiêu dùng tăng, làm tăng tổng cầu và đây là nhân
tố thúc đẩy tăng tổng cung cũng như tăng trưởng của nền kinh tế. Để tăng quy
mô việc làm, cần mở rộng đầu tư. Khối lượng đầu tư quyết định quy mô việc


16
làm. Tức là, để tăng khối lượng đầu tư Nhà nước cần có những chương trình
đầu tư quy mô lớn, đồng thời cần có những chính sách kích thích đầu tư của tư
nhân (như chính sách tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ, chính sách thuế...).
Việc mở rộng chi tiêu của Nhà Nước, tăng tiêu dùng của những người giàu,
chính sách “ướp lạnh tiền công”, “tín dụng tiêu dùng” cũng được coi là những
giải pháp để tăng tổng cầu, mở rộng quy mô việc làm.
Theo C.Mác, quá trình lao động chính là sự kết hợp của ba yếu tố gồm:
sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Thiếu một trong ba yếu tố
này thì không thể diễn ra quá trình lao động được. Nói cách khác, những khách
thể bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động (gọi chung là tư liệu sản
xuất) là điều kiện thiết yếu để người lao động có được việc làm.

Theo “Lý thuyết tạo việc làm bằng gia tăng đầu tư - tăng trưởng kinh tế”
của các nhà kinh tế thuộc trường phái Chính hiện đại thì, muốn tăng trưởng
kinh tế phải có tích lũy để có vốn tái sản xuất mở rộng, từ đó tạo nhiều việc
làm. Đối với các nước đang phát triển do thu nhập thấp, tốc độ tăng trưởng
chậm, tỷ lệ tích lũy thấp dẫn đến thiếu vốn đầu tư. Để tạo vốn đầu tư cho tăng
trưởng, các nước này cần phải dựa vào lợi thế so sánh của mình là tài nguyên
và nguồn nhân lực dồi dào để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài (bao gồm cả vốn
bằng ngoại tệ, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ, tri thức quản lý kinh tế hiện
đại...) để tạo nhiều việc làm. Tốc độ và quy mô của vốn đầu tư tăng sẽ trực tiếp
thúc đẩy tăng tốc độ và quy mô việc làm.
Hiện nay cũng còn nhiều quan niệm khác nhau về giải quyết việc làm
những tựu chung lại có thể khái quát như sau: Một là, theo nghĩa rộng, GQVL
là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh tế - xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác
động đến mọi mặt của đời sống xã hội để đảm bảo cho mọi người có khả năng
lao động đều được lao động (có việc làm) và có thu nhập. Hai là, theo nghĩa
hẹp, GQVL là các biện pháp, chính sách; chủ yếu hướng vào đối tượng thất


17
nghiệp, thiếu việc làm nhằm tạo ra chỗ làm việc cho người lao động để giảm
thiểu tỷ lệ thất nghiệp.
Từ những quan niệm trên tác giả cho rằng, GQVL hiểu theo nghĩa chung
nhất là tạo mới và tạo thêm việc làm cho người lao động. Nói một cách khác
là tạo ra cơ hội để người lao động có hoặc có thêm việc làm, tăng thu nhập,
đáp ứng nhu cầu, lợi ích của bản thân người lao động, của gia đình và cộng
đồng.
GQVL cho người lao động chính là việc khai thác và sử dụng có hiệu
quả nguồn lực con người. Với tính cách là chủ thể, con người tiến hành các
họat động thực tiển nhằm phát triển kinh tế - xã hội mà trước hết là phát triển
lực lượng sản xuất. Với tính cách là mục tiêu, con người là đối tượng được

hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó. Như chúng ta đã biết có việc
làm đồng nghĩa với có thu nhập. Vì vậy, giải quyết việc làm cho người lao
động, tức là đảm bảo đồng thời ba lợi ích: Nhà nước, tập thể và cá nhân người
lao động. Ngược lại, nếu không có việc làm thì người lao động không tạo ra
thu nhập, không cống hiến được sức lực của mình dẫn đến giảm nhu cầu
hưởng thụ, cản trở sự phát triển của nền kinh tế.
Giải quyết việc làm cho người lao động, giúp họ tham gia vào quá trình
sản xuất là yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội. Bất kỳ một đất nước nào,
giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động và tăng trưởng kinh tế đều
có mối quan hệ nhân – quả với nhau, ngay cả khi quốc gia đó có điều kiện tự
nhiên không thuận lợi, ít tài nguyên, thậm chí bị thiên tai đe dọa. Do đó, trong
chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, vấn đề giải quyết việc làm
cho người lao động nhằm sử dụng hợp lý nguồn lực con người đang được
thừa nhận là quan trọng và quyết định nhất đối với một nền kinh tế. Trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 Đảng ta nhấn mạnh: “Thực
hiện tốt các chính sách về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập nhằm


18
khuyến khích và phát huy cao nhất năng lực của người lao động. Đảm bảo
quan hệ lao động hài hòa, cải thiện môi trường và điều kiện lao động. Đẩy
mạnh dạy nghề và tạo việc làm, hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các
đối tượng chính sách, người nghèo, lao động nông thôn và vùng đô thị
hóa..”[7, tr.125].
Trong thời đại cách mạng khoa học – công nghệ và kinh tế tri thức, giải
quyết việc làm, nâng cao chất lượng đội ngũ người lao động càng có ý nghĩa
quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội và củng cố quốc phòng an ninh.
Bởi, xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn chặt với nghèo đói. Tỷ lệ thất nghiệp
cao không những thiệt hại lớn cho nền kinh tế, gây nhiều khó khăn cho cuộc
sống cá nhân người lao động, mà còn tiềm ẩn sự mất ổn định xã hội. Rõ ràng,

việc làm và giải quyết tốt việc làm cho người lao động là mục tiêu của sự phát
triển kinh tế - xã hội, đồng thời là động lực của sự phát triển ấy.
Ngày nay, với quan niệm việc làm là tất cả các hoạt động của con người
tạo ra thu nhập, không vi phạm pháp luật đều được coi là việc làm chính
đáng, thì nhận thức về giải quyết việc làm đã có sự thay đổi căn bản. Giải
quyết việc làm không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước như trước đây
mà còn là trách nhiệm của mỗi người. Mọi công dân Việt Nam đến tuổi
trưởng thành, có sức lao động đều phải có trách nhiệm và nghĩa vụ lao động
trước hết là lo cho bản thân và gia đình mình, sau đó là trách nhiệm nghĩa vụ
đóng góp cho xã hội vì lợi ích cộng đồng. Mọi người có sức lao động thì phải
lao động, không thể trông chờ dựa dẫm vào sự cưu mang, bảo trợ của Nhà
nước và xã hội, sống bằng sự lao động của người khác hoặc ăn bám xã hội.
- Với quan niệm này thì việc giải quyết việc làm trước hết là sự chủ
động tích cực của mỗi người lao động, chủ động tạo ra việc làm, tìm kiếm
việc làm với khả năng và điều kiện cho phép. Tuy nhiên, không thể không nói
đến vai trò của Nhà nước và các đoàn thể xã hội, các doanh nghiệp, các tổ


19
chức kinh tế, xã hội trong việc tạo ra môi trường, điều kiện để xúc tiến việc
làm, tạo ra nhu cầu việc làm trong chiến lược phát triển chung của đất nước.
Nếu như trước đây, với quan niệm việc làm và giải quyết việc làm chỉ
liên quan đến vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm các điều kiện để tạo
việc làm, thu xếp việc làm theo kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội đã được kế
hoạch hoá theo từng năm phấn đấu, thì giờ đây, trong kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, việc giải quyết việc làm đã hoàn toàn thay đổi. Giải
quyết việc làm là một chính sách kinh tế xã hội lớn của Đảng, Nhà nước
mang tính định hướng và cũng là thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ mà
chúng ta đang phấn đấu xây dựng. Đó là một xã hội mà trong đó mọi ngưòi
đều có quyền bình đẳng như nhau về các quyền lao động, quyền đuợc huởng

cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Để thực hiện và đuợc huởng các quyền đó, trước
hết phải thực hiện đuợc quyền lao động có việc làm. Giải quyết vấn đề này rõ
ràng phải kết hợp chặt chẽ giữa trách nhiệm của Nhà nước với trách nhiệm
công dân, phải phân biệt thật rạch ròi giữa nghĩa vụ và quyền lợi của công dân
trong việc tạo lập việc làm và thực thi trách nhiệm lao động với các việc làm
mà mình đảm nhận. Không thể có việc giải quyết việc làm đơn phương mà
cần phải có nỗ lực và trách nhiệm của cả hai phía nhà nước và nhân dân trong
việc kiến tạo việc làm, để không còn sự bất cập giữa cơ cấu lao động và cơ
cấu việc làm trên thực tế.
1.1.2. Đô thị hóa và những nhân tố tác động đến giải quyết việc làm
cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai
Kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, vấn đề việc làm và
giải quyết việc làm cho nông dân đã trở thành tâm điểm thời sự nóng bỏng ở
nông thôn, đặc biệt với những vùng bị thu hồi đất cho các dự án phát triển khu
công nghiệp và khu đô thị mới.


20
Đồng Nai là một trong những địa phương có tốc độ CNH, HĐH cao
nhất cả nước, theo đó quá trình đô thị hoá cũng đã và đang tác động sâu sắc
đến đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn Đồng Nai. Bên cạnh những thuận
lợi do quá trình đô thị hoá đem lại, cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp khó
khăn, trong đó vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân đang trở thành thách
thức lớn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Đồng Nai.
* Đô thị hoá và tác động của đô thị hoá đến việc làm của nông dân
- Tuy còn có nhiều quan niệm khác nhau về đô thị, nhưng theo cách
hiểu phổ biến hiện nay, đô thị là khái niệm dùng để chỉ phạm vi ranh giới địa
chính nội thị của đô thị, thị xã và thị trấn, bao gồm các quận và phường,

không bao gồm phần ngoại thị, là tụ điểm dân cư phi nông nghiệp và làm
chức năng một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của vùng lãnh thổ hoặc
quốc gia. Trong quá trình phát triển, các đô thị ngày càng được mở rộng. Việc
mở rộng các đô thị diễn ra một cách nhanh chóng trên một diện rộng được gọi
là quá trình đô thị hoá.
Như vậy, đô thị hoá được hiểu, là quá trình thay đổi phương thức hay
hình thức cư trú của con người. Đô thị hoá không chỉ thay đổi phương thức
sản xuất, tiến hành các hoạt động kinh tế, mà còn là sự thay đổi lớn trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội phù hợp với điểu kiện sản xuất công
nghiệp và lối sống hiện đại. Đô thị hoá là sự phản ánh những chuyển biến sâu
sắc trong cấu trúc kinh tế và trong các hoạt động của đời sống xã hội. Có thể
nói, đô thị hoá là quá trình biến nông thôn thành thành thị với tốc độ nhanh,
quy mô lớn, là quá trình phát triển lực lượng sản xuất gắn với phân bố lại lực
lượng lao động và thay đổi môi trường sống của cư dân với mật độ cao, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại. Đô thị hoá là quá trình biến người nông
dân thành lao động phi nông nghiệp trong môi trường sống, làm việc theo
hướng văn minh công nghiệp. Quá trình đô thị hoá là kết quả tất yếu của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đô thị hoá đã và sẽ tác động


21
mạnh mẽ đế nhận thức, tâm tư, tình cảm, việc làm, thu nhập, mức sống và lối
sống của người lao động và cư dân.
- Quá trình đô thị hoá sẽ có tác động nhất định đến việc làm và giải
quyết việc làm của lao động nông nghiệp. Vấn đề đó được biểu hiện ở những
khía cạnh sau:
Thứ nhất, quá trình đô thị hóa làm cho diện tích đất nông nghiệp thu
hẹp, dẫn đến làm giảm, thậm chí mất việc làm của một bộ phận lao động
nông nghiệp
Khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang phục vụ sản

xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ và phát triển đô thị, làm xuất hiện một
bộ phận không nhỏ những người lao động nông nghiệp bị mất viêc làm do
diện tích đất canh tác bị giảm. Đây là vấn đề khó khăn trong giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp, bởi vì, đại đa số lao động nông nghiệp có trình
độ học vấn thấp, không có tay nghề, không có vốn để tự tổ chức việc làm.
Hơn nữa, do cách nghĩ, cách làm, lối sống của họ còn mang nặng sắc thái văn
hóa nông thôn, làng, xã truyền thống nên rất hạn chế trong khả năng thiết lập
các mối liên hệ để giải quyết việc làm cho mình, khả năng tiếp cận các dịch
vụ việc làm, khả năng hội nhập với cuộc sống đô thị…. Những vấn đề trên đã
cản trở lao động nông nghiệp tìm kiếm việc làm mới.
Thứ hai, đô thị hóa tạo cơ hội chuyển đổi việc làm cho lao động nông
nghiệp từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp
Quá trình đô thị hóa phát triển làm cho nhu cầu về lao động ngày càng
tăng nhiều ngành nghề mới ra đời tạo khả năng giải quyết việc làm cho người
lao động, đó là những ngành nghề trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại,
dịch vụ. Ngòai ra, đô thị hóa còn làm thay đổi cơ cấu việc làm theo hướng
giảm việc làm nông nghiệp , tăng việc làm công nghiệp và dịch vụ. Đô thị hóa
góp phần nâng cao trình độ mọi mặt cho người lao động, thúc đẩy thị trường


22
sức lao động họat động sôi nổi hơn….Tất cả những điều đó đã tạo ra cơ hội
chuyển đổi việc làm cho lao động, nhất là lao động nông nghiệp. Để làm tốt
vấn đề này, không chỉ đòi hỏi sự nổ lực của bản thân lao động nông nghiệp,
mà điều quan trọng hơn là nhà nước phải có kế họach và tổ chức tuyên truyền,
đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động.
Thứ ba, đô thị hóa làm gia tăng sức ép tìm kiếm, chuyển đổi việc làm
và phân bố lại lực lượng lao động xã hội
Cùng với quá trình đô thị hóa, ở nông thôn sẽ diễn ra quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng tỷ lệ

lao động phi nông nghiệp. Đó là sự chuyển dịch tiến bộ, hợp quy luật trên cơ
sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Song trong thời gian qua, ở nước ta nói chung, ở Đồng Nai nói riêng, sự
chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong khi giá trị nông nghiệp trong tổng GDP
giảm xuống, nhưng thực tế lao động nông nghiệp vẩn còn ở mức cao. Điều đó
chứng tỏ rằng công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn Đồng Nai phát
triển chậm, chưa đủ sức tạo nhiều việc làm mới để thu hút lực lượng lao động
nông nghiệp còn rất tiềm tàng. Ngòai một bộ phận được tuyển dụng vào các
doanh nghiệp trên địa bàn của Tỉnh hoặc đi tìm kiếm việc làm ở các đô thị,
các khu công nghiệp lớn thì phần lớn lao động nông nghiệp ở khu vực nông
thôn Đồng Nai vẫn không có hoặc không đủ việc làm. Một bộ phận lao động
nông nghiệp tiếp tục sản xuất nông nghiệp trong điều kiện đất canh tác ngày
càng thu hẹp, một bộ phận chuyển sang các họat động phi nông nghiệp giản
đơn, số còn lại sẽ bị thất nghiệp khi thời vụ nông nhàn do không tìm được
việc làm. Từ đó dẫn đến tình trạng thiếu việc làm, dư thừa lao động, làm cho
đời sống của lao động nông nghiệp ngày càng khó khăn hơn. Quá trình đô thị
hoá không chỉ tạo sức ép về việc làm cho lao động nông nghiệp mà cho cả xã


23
hội nói chung, vì một bộ phận nông dân không còn đất đổ xô ra thành thị
kiếm việc làm dẫn đến cung về lao động tăng.
* Quan niệm giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị
hoá ở Đồng Nai
Từ những phân tích về vấn đề việc làm, giải quyết việc làm, lao động
nông nghiệp và đô thị hóa, tác giả luận văn đưa ra quan niệm về giải quyết
việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng Nai như sau:
Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở Đồng
Nai là quá trình Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội

sử dụng tổng thể các chính sách nhằm tạo ra môi trường hình thành các nhu
cầu việc làm và thu hút nông dân vào các việc làm phù hợp, có chất lượng,
đảm bảo nhu cầu của cả người lao động và người sử dụng lao động trong
quá trình đô thị hóa, đồng thời đáp ứng được mục tiêu phát triển đất nước.
Như vậy, giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa
cần được hiểu trên một số nội dung sau:
Một là, chủ thể giải quyết việc làm
Chủ thể giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
gồm Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội, các doanh
nghiệp và chính bản thân người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Mỗi lực
lượng trên có vai trò khác nhau trong quá trình tổ chức thực hiện giải quyết
việc làm. Trong đó, tổ chức Đảng và chính quyền các cấp của tỉnh là chủ thể
quan trọng nhất, là người lãnh đạo, chỉ đạo và ban hành các cơ chế, chính
sách nhằm thực hiện đầy đủ mọi đường lối, chủ trương Nghị quyết của Đảng
và Nhà nước về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân trong
quá trình đô thị hóa. Bởi vì, thực hiện đô thị hóa, phải thu hồi đất, trong đó đa
phần là đất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu xây dựng các khu, cụm công
nghiệp, dịch vụ, các khu đô thị mới và phát triển kết cấu hạ tầng nhằm thực


×