Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Yếu tố mật trong nghi lễ phật giáo ở nam bộ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873.39 KB, 97 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
o0o

TĂNG MINH HOÀNG

YÉU TỐ MẬT TRONG NGHI LỄ
PHẬT GIÁO
Ở NAM BỘ HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
o0o

TĂNG MINH HOÀNG

YÉU TỐ MẬT TRONG NGHI LỄ
PHẬT GIÁO
NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ
Ngành: TÔN GIÁO HỌC
Mã số: 8.22.90.09

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THÀNH NAM


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Tăng Minh Hoàng, người thực hiện luận văn này.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi, các luận điểm và
kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, chưa được ai công bố trong bất cứ
công trình nào khác. Những trích dẫn cần thiết trong luận văn và nguồn gốc trích dẫn
cũng được tôi chú thích rõ ràng và trung thực.
Tác giả luận văn

Tăng Minh Hoàng


LỜI TRI ÂN
Luận văn này được thực hiện trên nền tảng kiến thức học tập, nghiên cứu của
học viên tại Khoa Tôn giáo học - Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam.
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Học viện Khoa học xã hội, nhà
trường đã tạo những điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi học tập và nghiên cứu tại
đây.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo, những người phụ trách
khoa Tôn giáo học đã truyền đạt cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm quý báu trong
suốt thời gian tôi học tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thành Nam, thầy hướng dẫn và
tiền bối nhiều năm gắn bó với tôi. Cũng như quý Thầy Cô liên ngành khoa học đã tận
tình chỉ dạy, truyền đạt cho tôi nhiều kiến thức, kinh nghiệm có giá trị, giúp tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả những thiện hữu tri thức, những người đã gắn

bó và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá trình thực hiện luận văn
tốt nghiệp.
Kính tri ơn!
Học viên

Tăng Minh Hoàng


MỤC LỤC
Trang

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do và tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập và giao lưu văn hóa hiện nay, tôn giáo cũng theo đó
mà có những pha trộn và đào thải riêng của nó. Tính thiêng liêng - niềm tin thuần khiết
- cộng đồng thực hiện là yếu tố cần và đủ để cấu thành một chỉnh thể tôn giáo. Qua đó,
từ góc nhìn tôn giáo học để nghiên cứu một đối tượng chính là quán chiếu xuyên qua
các lăng kính trên, từ đó phản ánh chân thật về các giá trị của đối tượng càng là việc
làm cần thiết.
Các nghi thức và niềm tin của tôn giáo không chỉ hướng đến cái thiêng mà còn
là sự thiết thực cũng như vai trò của tôn giáo trong cộng đồng xã hội. Đây thật sự là
một nhu cầu tất yếu và cần thiết trong đời sống tinh thần của cộng đồng người. Tuy
nhiên, ở khía cạnh khác, niềm tin cố chấp, tiêu cực (mê tín), tin vào các yếu tố thiêng
mà lại không được soi sáng bằng tuệ quán, con người sẽ dễ dàng đánh đồng tôn giáo
nói chung và hình thức cũng như nội dung của nó cũng sẽ dần xa rời với đời sống thực
tế.

So với các tôn giáo ngoại sinh khác ở Nam Bộ, Phật giáo được xem là tôn giáo
có mặt lâu đời nhất, theo chân của các cư dân đi khai khẩn từ những ngày đầu lập làng,
và cùng gắn bó qua thời gian, dần trở thành tôn giáo bản địa, ảnh hưởng tác động qua
lại với các đặc điểm của nền văn hóa cư dân tại chỗ. Mật thừa hay Kim Cang thừa, vốn
tiềm tàng trong Phật giáo qua nhiều thế kỷ như là một thành tố làm cho Phật giáo nói
chung , Phât giáo Việt Nam nói riêng thêm phần phong phú trong việc đưa tín đồ Phật
tử tiếp cận tôn giáo mình, dễ đi vào trong lòng quần chúng hơn. Ngày nay, Nam Bộ
được xem là vùng đất sùng mộ Phật giáo nhất so với cả nước. Đạo Phật tại đây có
nhiều chi phái, hệ phái khác nhau cùng tồn tại, phát triển. Tuy đa dạng nhưng chúng
vẫn có sự thống nhất về cơ bản. Sự thống nhất đó chính là nhờ tính dung hợp của đặc
trưng nhiều tộc người Việt, và của Phật giáo nói riêng, tạo nên bản sắc văn hóa tôn
giáo người Việt, đặc biệt là Nam bộ. Không những dung hợp trong nội bộ các giáo
phái, mà Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo người Việt tại đây còn có sự dung hợp với

6


nhiều tôn giáo khác và cả tín ngưỡng dân gian. Nhờ đó, Phật giáo người Việt ở Nam
Bộ đang phát triển cũng cộng hưởng cùng sự phát triển của đất nước và có mối quan hệ
gắn bó, ảnh hưởng đến nhiều hoạt động văn hóa xã hội Nam Bộ.
Từ đó cho thấy việc nghiên cứu từng thừa phái Phật giáo, đặc biệt là nghiên cứu
yếu tố Mật nói riêng trong Phật giáo Nam Bộ sẽ cho thấy tính nổi bật của yếu tố mật,
bao trùm và chi phối các yếu tố khác trong Phật giáo người Việt tại đây. Sự pha tạp có
tính lịch sử này rất cần cho sự nhận thức, nghiên cứu chuyên sâu hơn vào bức tranh
chung của Phật giáo Nam bộ.
Mặt khác, người viết vốn xuất thân từ bên trong tăng đoàn của Phật giáo, được
học tập và sinh hoạt trong cộng đồng Phật giáo Nam Bộ. Vì vậy nghiên cứu về yếu tố
mật trong Phật giáo Việt tại Nam Bộ - một đặc trưng quan trọng góp phần hình thành
các nghi thức và cung cách ứng xử văn hóa lối sống Phật giáo miền Nam chính là trách
nhiệm, đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi để người viết tìm hiểu sâu sắc hơn, cũng

như nhìn nhận lại các giá trị tôn giáo của mình nhằm hun đúc nên đời sống tâm linh tốt
đẹp và thiết thực hơn trong tương quan đời sống chính trị xã hội hiện nay. Với những
lý do đó, người viết chọn đề tài Yếu tố Mật trong nghi lễ Phật giáo ở Nam Bộ hiện nay
làm đề tài cho luận văn của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những biểu hiện của Mật thừa trong các thành tố của văn hóa Phật giáo
Nam bộ, nhất là trong nghi lễ Phật giáo Nam Bộ của người Việt, đồng thời chỉ ra vai
trò của yếu tố mật trong đời sống tăng ni, phật tử người Việt ở Nam Bộ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát về Phật giáo Nam bộ trong tộc người Việt.
- Tiếp cận nghiên cứu vấn đề dung hợp yếu tố Mật theo chiều kích tôn giáo
học, thông qua nghiên cứu trường hợp là Phật giáo Bắc tông.
- Phân tích để tìm ra tính chất dung hợp văn hóa trong đó có yếu tố Mật của
người Việt theo Phật giáo vùng Nam Bộ trong lịch sử.

7


- Phân tích những yếu tố Mật được biểu hiện thông qua kinh, sách, các bài chú
nguyện ; qua kiến trúc chùa, qua tượng thờ, tranh thờ, trang phục, nghi lễ, pháp khí
trong Phật giáo của người Việt ở Nam bộ.
- Chỉ ra vai trò của yếu tố mật trong đời sống của tăng ni, Phật tử người Việt tại
Nam Bộ
3. Lịch sử tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, hầu như chưa có công trình nghiên cứu chính thức nào đề cập trực
tiếp đến đề tài luận văn, đa số chỉ dừng lại ở một số bài viết mang tính gợi mở và một
số tác phẩm liên quan đến Phật giáo, đến Phật giáo Mật tông nói riêng. Trên cơ sở
những tài liệu tiếp cận được, chúng tôi chia thành 2 nhóm chính:
Nghiên cứu về Mật giáo.

Trong sự hạn chế của kiến thức người viết về sự bao la của Mật điển, người viết
tìm hiểu yếu tố Mật thể hiện qua các bản kinh đang lưu hành và một số tài liệu tham
khảo ở các công trình nghiên cứu của các học giả dưới đây. Nói đến Mật tông, không
thể bỏ qua các kinh sách thuộc tư tưởng kinh hệ Mật tông Tây Tạng, bởi lẽ họ là những
chuyên gia về lĩnh vực Mật tông. Có thể nhận thấy rất nhiều bộ sách nghiên cứu và dẫn
giải về vấn đề này như : Yoga Tây Tạng 2007, Quỳnh Ngọc Hương dịch ; Alexander
Simpkins & Annellen Simpkins (2007) Ánh sáng Mật tông [16]; Nguyễn Tuệ Chân
năm 2008 biên dịch. Toàn tập giải thích các thủ ấn Phật giáo [8 ]. Sách giới thiệu, giải
thích toàn bộ các thủ ấn trong Phật giáo, có bản vẽ minh họa và sắp xếp theo thủ ấn
của các vị Phật, Bồ tát; Do Khyentse Hungkar Dorje năm 2009
Tranh tượng Phật giáo Tây Tạng (các Tangka tại golog) [17]; Bardo Bí Mật Nghệ
Thuật Sanh Tử của Pháp vương Gyalwang Drnkpa, xuất bản 2012 ; Thần Bản Tôn
2012, Thích Minh Tuệ ; Tạng thư sống chết, Thích Nguyên Tạng dịch
( />Tantrain Tibet Tenzin Gyaso, Thích Nhuận Châu soạn dịch

8

thừa

Tây

Tạng

2009,


Các tác phẩm này trình bày những khái niệm rõ nhất về thế giới và nhân sinh
quan Mật tông hay Kim Cang thừa.
Riêng về Mật điển tại Việt Nam, từ lâu đã manh nha tìm hiểu và phiên dịch Mật
pháp của nhiều danh Tăng, có thể thấy tiêu biểu nhất là cố Tỳ Kheo Thích Viên Đức,

một trong những bậc thầy đầu tiên trong Phật giáo cận đại biên dịch các bộ sách nghi
quỷ đặc thù đậm chất Mật tông. Các tác phẩm tiêu biểu như : Hiển mật viên thông,
1971, Thích Viên Đức dịch ; Mật Thừa Việt Nam, Thích Viên Đức, (tái bản có bổ sung
thành 3 bộ) 2005[20 ] ; Chuẩn Đề Phật Mẫu Đà la Ni kinh, Huyền Thanh dịch; Du già
Diệm Khẩu thí thực khoa nghi 2007, HT.Thích Huyền Tôn dịch ; Thai Tạng giới Mạn
Đà La ni 2010, Huyền Thanh dịch. Tuy nhiên các nghi quỷ này chỉ dừng lại ở các diễn
giải chú trọng hình thức nội dung hành trì dành cho hành giả, mà không có sự biện
minh trong hình thức thực hành.
Ngoài ra, một số tác phẩm công bố để bổ sung cho những hình thức rất nguyên
tắc của Mật tông, như Nhị Khóa Hiệp Giải, Dịch giả HT.Thích Khánh Anh, 2001[1];
Du già Sư Địa Luận, Thích Giác Thiện-Trương Văn Minh dịch ; đây là các đầu tư liệu
mà chúng tôi cố gắng lấy làm hướng chủ đạo khảo cứu, tìm yếu tố dung hợp yếu tố
Mật trong nghi lễ, cũng như đời sống thực thể của tăng sĩ Phật tử. Từ đó khẳng định
tôn chỉ nhận thức thực tế hơn về các thực hành tôn giáo Mật pháp trong Phật giáo
người Việt tại Nam bộ.
Bên cạnh đó, Giáo trình Phật học 2008, Lê Kim San dịch ; Đại Thủ Ấn 2007,
Viên Huê dịch, Du già hành tông 2005, Thích Nhuận Châu soạn dịch [10], HT Huyền
Vi 2009 Kim Cang Và Chánh Pháp Chưa Từng Có ; Chánh Trí Mai Thọ Truyền 2012,
Khảo cứu về Mật tông[66]; hướng người viết từ cách tiếp cận Phật giáo, từ vô thần đến
hữu thần, từ phiến đến toàn diện hơn trong vấn đề nghiên cứu. Những tác phẩm này
cung cấp cho người viết có cái nhìn tổng quan hơn về Mật tông và phương pháp của
các tông chỉ giáo pháp Mật trong quan niệm nhận thức về pháp, từ đó, nội suy yếu tố

9


Mật trong Phật giáo Việt ở Nam bộ. Trong tương quan đó, nhằm khẳng định yếu tố
Mật đóng vai trò rất lớn trong hệ thống nghi lễ đời sống tôn giáo tại vùng đất này.
Chẳng những thế, Hành trình vô trụ xứ 2012[66], Ban dịch thuật thiện tri thức, cũng là
một tác phẩm cho người nghiên cứu tiến hành xem xét vấn đề từ hạ tầng niềm tin thuần

túy tôn giáo, đến thượng tầng thực hành rốt ráo thông qua giáo lý Đại thừa Phật giáo
Mật pháp đề xuất. Phải chăng chính sự khắt khe và trình độ để nhận thức Mật pháp đòi
hỏi rất cao, để nhận thức và lý giải trong hoằng truyền Phật pháp thông qua yếu tố Mật
là điều rất khó và thiếu cơ sở lý luận trên nền tảng Phật lý? Từ đó, người viết đưa ra ưu
và nhược của yếu tố Mật trong cộng đồng tín đồ, đồng thời lý giải được phần nào
nguyên nhân Mật pháp vốn cắm rễ rất sâu trong mảnh đất Phật giáo Nam bộ, nhưng
đại đa số Tăng sĩ, Phật tử vẫn chú trọng nghiêng xu hướng về Tịnh độ và Thiền pháp
làm căn bản truyền dạy, mà không phải hoặc ít khi là Mật pháp. Đó chính là thái độ của
Phật giáo người Việt ở Nam bộ trong cách tiếp nhận của họ.
Năm 2010, Nguyễn Minh Ngọc viết Mật tông trong đời sống văn hóa tinh thần
của người Việt [36] cung cấp cho chúng ta một bức tranh sinh động về sự đa dạng,
phong phú trong công đồng Phật giáo người Việt. Đây là tài liệu tham khảo quý cho
chúng tôi khi thực hiện chương 3 của luận văn.
Trong quá trình khảo cứu, người viết được tiếp cận Nguyên nhân thăng trầm,
thịnh suy của Phật giáo Ấn Độ của Trần Quang Thuận [81], xuất bản năm 2013 như
một góc nhìn trực quan sinh động, lý giải vì sao Phật giáo và
Phật giáo Mật tông lại chết trên chính mảnh đất nó sinh ra. Sự suy tàn hay hưng thịnh
của nó có một lý do chính đáng khách quan dưới tác động xã hội, con người. Như vậy,
nhân tố con người, thể chế của cộng đồng dân cư, dân tộc nơi đó, vẫn là nhân tố quan
trọng nhất trong việc quyết định sự tồn tại tôn giáo như thế nào. Khác với quan kiến
xưa nay mọi người vẫn cho cố gắng đi tìm tôn giáo hay Mật giáo muốn mình trở thành
thế nào. Mối tương quan nhân duyên là một chân lý trong đời sống Phật giáo.
Nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Nam Bộ.
1
0


Một trong những tác phẩm nghiên cứu sâu văn hóa và tôn giáo có nhiều nhận
định sâu sắc là Tư Tưởng Phật giáo Việt Nam, của Nguyễn Duy Hinh 1999[31]; không
những có sự trình bày chi tiết về bối cảnh lịch sử văn hóa tôn giáo Việt Nam ở Nam

Bộ, tác phẩm còn hướng đến sự quy chiếu so sánh cũng như sự ảnh hưởng lẫn nhau
của tư tưởng tôn giáo khác nhau trong cộng đồng.
Bên cạnh đó, còn có Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang 1999 [44];
Việt Nam Phật giáo sử lược 2004 Mật Thể[63]; Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê
Mạnh Thát 2006[60], ngoài các yếu tố lịch sử du nhập và phát triển, các công trình
nghiên cứu còn đề cập đến yếu tố Mật thừa tồn tại và phát triển song song cùng các
thừa phái khác cùng cộng sinh trong đời sống tâm linh cộng đồng Phật giáo người Việt
ở Nam Bộ vốn dĩ rất chuộng tôn giáo.
Đây là công trình Phật giáo sử quan trọng có nhận xét và bình luận sự kiện.
Trần Hồng Liên, với Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ - Việt
Nam từ thế kỷ XVII đến 1975 xuất bản năm 1995 [42] .Tác giả trình bày bao quát
những đặc điểm của đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ trong khoảng thời
gian trên. Công trình đã khắc họa nên bức tranh cụ thể của Phật giáo người Việt tại
đây, về các chi phái, hệ phái, các phong trào, cơ cấu tổ chức, cũng như những ảnh
hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa -xã hội,... Đây là công trình được phát triển
lên từ luận án Phó Tiến sĩ Dân tộc học, nên rất có giá trị trong nghiên cứu, là nguồn
tham khảo quan trọng cho những ai nghiên cứu về Phật giáo Nam Bộ.
Nguyễn Hiền Đức năm 1995 công bố Lịch sử Phật giáo Đàng Trong. Đây là
công trình đề cập chi tiết đến lịch sử các ngôi chùa, hành trạng các vị tổ, và các dòng
phái Phật giáo có mặt ở Đàng Trong.
Năm 1995, Trần Hồng Liên có bài viết Về 3 yếu tố Thiền, Tịnh, Mật trong đồ
tùy táng của xác ướp Xóm Cải ( Tp.HCM), [75] đã nêu lên yếu tố Mật trong đồ tùy
táng, đó là bài chú Om Mani Padme Hum của Quan Thế Âm.
Trần Hồng Liên với Phật giáo Nam bộ xuất bản năm 1996 [44 ] đi chuyên sâu
vào việc tìm hiểu các tổ chức Phật giáo ở Nam bộ.
1
1


Tác phẩm Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam Bộ, xuất bản năm 2004 là tuyển

tập những bài viết, tham luận tại các hội thảo khoa học về những đặc trưng của văn hóa
Phật giáo ở Nam Bộ trong quá trình du nhập, tồn tại và phát triển của mình, như các sự
kiện lịch sử, văn hóa-nghệ thuật, kiến trúc Phật giáo,... ở Nam Bộ. Sách cung cấp cho
người đọc những đặc trưng của văn hóa Phật giáo Nam Bộ. Trong tập sách này, tác giả
đã có viết riêng một bài giới thiệu về chùa Tây Tạng, với cách bày trí và tượng thờ có
yếu tố Mật tông Phật giáo.
Năm 1998, Huỳnh Ngọc Trảng viết Đặc trưng kiến trúc truyền thống của chùa
Nam bộ [ 80 ], qua đó tác giả nêu lên một số những nét riêng tiêu biểu của ngôi chùa ở
Nam bộ có so sánh với Bắc bộ. Bài viết có nêu yếu tố Mật trong ngôi chùa Nam bộ,
thể hiện qua cách bày trí tượng thờ tại chính điện.
Thích Thiện Ẩn, qua tập sách giới thiệu Mandala kiến trúc đặc trưng chùa Tây
Tạng [2] đã trình bày chuyên sâu vào những yếu tố Mật được thể hiện qua ngôi chùa
Tây Tạng ở tỉnh Bình Dương. Do đây là tư liệu lưu hành nội bộ, nên không ghi năm
xuất bản.
Năm 2017, Đặng Văn Thắng có bài viết Kiến trúc và tượng trong tháp, chùa
Việt Nam (Tiếp cận Khảo cổ học Phật giáo) [81] Đây là một bài viết quan trọng, đi sâu
phân tích yếu tố Mật trong ngôi chùa Phật giáo ở Việt Nam, thể hiện đồ hình Mandala.
Đề cập cấu trúc mặt bằng chính điện chùa Giác Lâm, tác giả cho rằng đó là đồ hình
Mandala và cách bày trí tượng thờ tại chính điện cũng là một đồ hình Mandala. Quan
điểm này tác giả đồng ý với nhận xét của Huỳnh Ngọc Trảng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những yếu tố Mật được biểu hiện thông qua kinh sách, các bài chú nguyện, qua
kiến trúc chùa, nghi lễ, trang phục, pháp khí, lễ hội trong Phật giáo của người Việt ở
Nam bộ. Chủ thể mang đặc tính Mật này chính là góp phần làm nên nền văn hóa Phật
giáo người Việt ở Nam Bộ. Người tạo thành nền văn hóa này là những tu sĩ và tín đồ

1
2



Phật giáo người Việt, trong đó tu sĩ là người lãnh đạo tinh thần, nên đóng vai trò quan
trọng nhất.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vùng đất Nam Bộ, từ khi Phật giáo du nhập vào đến nay
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở kiến thức nền tảng chuyên ngành Tôn giáo học và kiến thức liên
ngành, để nghiên cứu đề tài này người viết sử dụng các phương pháp sau :
Phương pháp hệ thống loại hình : được vận dụng trong việc dựa vào các đặc
trưng loại hình của văn hóa Phật giáo Nam Bộ để mô tả, lý giải cho đối tượng nghiên
cứu, ở đây là yếu tố Mật thừa trong Phật giáo Bắc tông của người Việt ở Nam Bộ.
Phương pháp so sánh: là cách thức để tìm ra sự khác biệt mang tính chất đặc
trưng. Đề tài có so sánh yếu tố Mật thừa (giữa Phật giáo miền Bắc và miền Nam) để
tìm ra những nét khác biệt mang tính đặc trưng văn hóa vùng, hình thành yếu tố mật
thừa như một tính chất nổi trội của Phật giáo người
Việt tại Nam Bộ ; và so sánh xuyên văn hóa (giữa Phật giáo Việt Nam với Phật giáo ở
Đông Nam Á, Trung Hoa, Tây Tạng và Ấn Độ).
Phương pháp quan sát tham dự và điều tra thực địa: là phương pháp giúp cho
những nghiên cứu của đề tài được kiểm chứng trong thực tế để mang tính trung thực,
thuyết phục hơn.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng thao tác quy nạp, dựa trên các thành tố thuộc về
niềm tin và thực hành Phật giáo của người Việt tại Nam Bộ để tìm ra những yếu tố
mang tính Mật thừa.Vì đây là đề tài liên quan đến nhiều khía cạnh thuộc các chuyên
ngành khác như: Văn hóa, Sử học, Văn học, Xã hội học, Tôn giáo học,... nên người
viết còn sử dụng hướng tiếp cận liên ngành như một phương pháp nghiên cứu trong
luận văn, để có cái nhìn về đối tượng sâu sắc và toàn diện hơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận

1

3


Nghiên cứu này sẽ giúp chúng ta có những hình dung cụ thể hơn về đời sống
văn hóa - tâm linh của cộng đồng Phật giáo người Việt Nam ở Nam bộ, chỉ ra sự linh
hoạt trong sự dung hợp các yếu tố tư tưởng tôn giáo và phát triển của Phật giáo mang
đậm các yếu tố tôn phái đặc biệt là yếu tố mật, đồng thời cũng có thể góp thêm những
luận cứ khoa học để người Phật tử có những quy chiếu, tiếp thu những yếu tố Mật Tịnh- Thiền trong đời sống đạo, có giá trị như một chân lý trong tiến trình xây dựng lối
sống giao thoa có xu hướng tiếp nhận và tiếp biến đa phương diện hiện nay. Đó cũng
chính là yếu tố góp phần tôn trọng và gìn giữ những giá trị tinh hoa của một tôn giáo
lớn, cũng như một động thái tích cực trong quá trình đồng hành cùng dân tộc Việt Nam
và hội nhập văn hóa quốc tế.
Luận văn góp phần làm rõ thêm những biểu hiện yếu tố mật pháp tồn tại song
song các yếu tố Thiền-Tịnh trong Phật giáo Việt Nam ở Nam bộ thông qua các nghi lễ
và đời sống Phật giáo ở vùng đất này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập giảng dạy
về Phật giáo nói chung, Phật giáo Nam Bộ nói riêng, nhất là các nghiên cứu về ảnh
hưởng ở Mật thừa trong Phật giáo Nam Bộ.
7. Cấu Trúc luận văn
Chương 1 đề cập đến Những vấn đề lý luận và thực tiễn. Đây là
chương trình bày các vấn đề thuộc về cơ sở để làm tiền đề nghiên cứu cho các chương
sau. Cụ thể sẽ làm rõ các khái niệm có liên quan đến đề tài; giới thiệu về Phật giáo
Nam Bộ ; khái quát về sự du nhập và phát triển của Mật tông để từ đó xác định quan
điểm tiếp cận vấn đề dưới góc nhìn Tôn giáo học.
Chương 2 nghiên cứu Những biểu hiện của yếu tố Mật trong Phật
giáo người Việt ở Nam Bộ . Về niềm tin, sẽ trình bày một số kinh sách, các bài
chú nguyện có yếu tố Mật, luận giải về Mật tông và sự giao thoa trong niềm tin của tư
tưởng Mật có trong các pháp môn Thiền và Tịnh. Về thực hành tôn giáo, chúng tôi sẽ


1
4


trình bày yếu tố Mật được thể hiện thông qua các nghi lễ và lễ hội Phật giáo trong cộng
đồng tộc người Việt tại Nam Bộ.
Chương 3 trình bày Những ảnh hưởng của yếu tố Mật trong đời
sống phật tử người Việt ở Nam Bộ, chương này nêu lên những đóng góp của
yếu tố Mật vào sự phát triển của Phật giáo Nam bộ ; ảnh hưởng của việc thực hành
nghi lễ và niềm tin Phật giáo khi có sự hiện diện của yếu tố Mật đối với phật tử ; đồng
thời ghi nhận về tính hiện thực của yếu tố này trong đời sống của cộng đồng người Việt
tại đây. Ngoài ra, thực trạng thực hành Mật pháp đã và đang là vấn đề cần được nhìn
nhận và quan tâm một cách nghiêm túc trên địa bàn Nam bộ, đặc biệt là tại TP.Hồ Chí
Minh, qua đó chúng tôi sẽ đề xuất một số nhận xét cho vấn đề này.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Mật tông hay yếu tố Mật trong Phật giáo ngày nay đã dần được biết đến và
nghiên cứu rộng rãi như một nét đẹp tinh túy của văn hóa Phật giáo, góp vào kho tàng
tri thức của nhân loại. Hẵn nhiên, đây là phạm trù khá tế nhị và mang yếu tố đặc thù,
do vậy vẫn còn khá nhiều ý kiến khác biệt. Chính thế, tìm hiểu và giới thiệu các khái
niệm có liên quan đến đề tài nghiên c ứu trước khi tiếp cận vấn đề là điều hết sức cần
thiết để có cái nhìn tổng quan trong cấu trúc thực thể tôn giáo vốn có của nó. Đặc biệt,
Phật giáo vốn là dòng chảy tinh thần của nhân loại qua nhiều thế kỷ, nhưng nếu hiểu
sai lệch về các khái niệm và thuật ngữ sẽ là những trở lực không nhỏ khi tiếp cận và
nghiên c ứu về tư tưởng và giá trị hiện sinh của Phật giáo Bắc tông (Đại thừa Phật
giáo), đặc biệt là Mật tông. Giới thiệu một số khái niệm có liên quan đến đề tài giúp
khẳng định tên gọi chính xác của các nghi thức, lễ cúng Phật giáo, có sự hiện diện của
yếu tố Mật, đưa đến sự nhìn nhận chuẩn xác và thực tế đối với đối tượng cần nghiên
cứu. Trên thực tế, sự dung hợp của tôn giáo và văn hóa vô cùng linh hoạt, thể hiện tinh


1
5


thần nhập thế của Phật giáo, song, do lệch lạc trong nhận thức, đã tạo ra những ảnh
hưởng tiêu cực đến các giá trị tinh thần, trong đó có yếu tố Mật trong Phật giáo.
Chương này, chúng tôi trình bày có hệ thống về lịch sử Mật tông, từ đó làm
sáng tỏ tính hợp lý của yếu tố Mật trong Phật giáo và Phật giáo Nam bộ nói riêng. Bên
cạnh đó, dưới góc nhìn Tôn giáo học, người viết sẽ giới thiệu khái quát về bối cảnh
lịch sử - xã hội Nam bộ, nơi du nhập và phát triển nghi lễ mang yếu tố Mật, để làm tiền
đề cho việc tìm hiểu những biểu hiện của yếu tố Mật ở Nam bộ trong chương sau.
1.1. Khái quát lịch sử hình thành Mật Tông
1.1.1. Lịch sử hình thành
Từ lâu, Mật thừa đã trở thành một tông phái của Phật giáo (Thiền - Tịnh - Mật)
trong ý thức hệ người đạo Phật lẫn trong chính sử. Từ lúc hình thành và phát triển,
thậm chí trở thành quốc giáo tại một số quốc gia và có sự ảnh hưởng nhất định đến
cộng đồng Phật giáo thế giới. Điều này minh chứng rằng sự hình thành và phát triển
của Mật thừa không đơn thuần là những truyền thuyết thuần túy tôn giáo mà còn là cả
một dòng chảy văn hóa qua nhiều ý thức hệ.
Hiện tại, Mật tông được xem như một giá trị văn hóa và triết học đặc sắc của
Đại thừa Phật giáo, giai đoạn cuối thời đại huy hoàng của Phật giáo Ân độ. Trên
phương diện lịch sử, Phật giáo Ân độ đã trải qua bốn chặng đường lịch sử, tức là
Nguyên thủy Phật giáo, Bộ phái Phật giáo, Đại thừa Phật giáo và Mật tông Phật giáo.
Nguyên thủy Phật giáo là Phật giáo thời kỳ đầu, được tính từ khi đức Phật
thành đạo cho đến một trăm năm sau Phật nhập Niết bàn, tức là giai đoạn đầu truyền bá
Phật giáo vào xã hội Ân độ cổ đại.
Thời kỳ Bộ phái Phật giáo là khoảng từ năm 370 (BC) 1 đến năm 150 sau công
nguyên (AC)2, giai đoạn này do các yếu tố khách quan và chủ quan của thời đại, dẫn
đến thời kỳ Phật giáo phát triển và hình thành nên bộ phái.


1Viết tắt của từ "Trước Công Nguyên"
2Viết tắt của từ "Sau Công Nguyên"

1
6


Đại thừa Phật giáo là khoảng từ giữa thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII (AC),
trong quá trình phát triển của Đại thừa Phật giáo lại phân chia thành ba giai đoạn khác
nhau, tức là giai đoạn đầu từ thế kỷ I đến V (AC), giai đoạn giữa thế kỷ V đến VI (AC)
và giai đoạn cuối thế kỷ VI đến VII (AC ).
Ân độ giáo trong giai đoạn này đã bắt đầu quá trình tái khẳng định vị thế của
mình bằng cách tiếp biến các hệ thống học thuyết và tư tưởng đương đại, trong đó có
giáo lý đạo Phật, từ đó tạo ra sự cạnh tranh rất mãnh liệt đối với Phật giáo đương thời.
Lúc bấy giờ Phật giáo Đại thừa không chỉ bị giới hạn trong phạm vi thực tập trong đời
sống cá nhân nữa, mà còn bắt buộc phải có xu hướng lý luận nhằm giữ vững các học
thuyết và nền tảng của Phật giáo, am tường các phạm trù triết học, ngõ hầu tương luận
trước sự tấn công của các học thuyết khác. Do vậy, vô hình chung đã tự tách mình ra
khỏi quảng đại quần chúng. Vì thế, để thích ứng với tình thế mới, Phật giáo Bắc tông
đã khéo léo dung hợp những giá trị cộng đồng (tục đế) để truyền tải tinh thần của tư
tưởng giải thoát (chân đế).
Ban đầu khi tiếp xúc, phía Phật giáo có những phản ứng khá kịch liệt, cật lực
phê phán những quan niệm nghi chấp về tế tự cầu phước trừ họa và mật chú, tuy nhiên
vẫn xúc tiến việc hợp lý hóa hoặc Phật giáo hóa theo tinh thần tùy duyên, cuối cùng
Phật giáo đã hình thành nên một hệ thống Mật tông tương đối độc lập. Do đó, ở một
vài phương diện nghiên cứu chúng ta có thể xem Mật tông là sản phẩm phát sinh của
sự kết hợp giữa Phật giáo và Ân độ giáo.
Phật giáo Đại thừa phát sinh thêm tông phái Mật tông là một sự kiện khá bất
ngờ và không kém phần lý thú, cũng có thể nói là do bối cảnh lịch sử mang tính tất yếu
lâu dài của nó. Sự bất ngờ là bởi thời đức Thích Ca còn tại thế, Phật giáo cực lực phản

đối thần quyền, bài xích những quan niệm thần bí, phủ định các chú thuật v.v... có thể
thấy được đức Phật không bao giờ đề xướng những phương thuật mật chú vốn đã bị
bám rễ sâu trong quan niệm tín ngưỡng nhân gian người Ân. Chính thế mà theo Trần

1
7


Quang Thuận “dần dần Phât giáo đến gần với Ân độ giáo và chẳng bao lâu hai tôn giáo
mất đi đặc tính riêng biệt của mình. Vì lý do đó, nên hàng cư sĩ không thấy sự khác
biệt trong việc thờ cúng Phật, Vishnu, Shiva, Quán Thế Âm Bồ Tát, Tàra và Parvati”
[Trần Quang Thuận 2013, tr.1014]. Mật tông ra đời trong bối cảnh lịch sử nhất định
mang tính khách quan xã hội. Nó không những mang lại yếu tố mới để Phật giáo thích
nghi trong điều kiện xa hội, nó còn được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Mật tông ra
đời cũng chính là yếu tố làm Đạo Phật tại Ân độ suy thoái, mất vị trí lớn của mình mà
bị hòa tan vào trong tín ngưỡng của Ân giáo.
Đây cũng chính là trở ngại rất lớn với người nghiên cứu, khi tiếp cận sự đa diện
về triết học và tông chỉ của Phật giáo. Có không ít nhà nghiên cứu cho rằng nguyên
thủy Đức Phật không chủ trương và sử dụng các câu thần chú trong tôn giáo mình. Tuy
nhiên, khi tìm hiểu vào các tạng kinh văn Phật giáo, chúng ta thấy sự manh nha hay
ảnh hưởng từ tư tưởng Bà La Môn giáo của Ân độ cổ đại. Như vậy chúng ta thấy rằng,
ở khía cạnh khác của vấn đề, có thể xem tư tưởng Phật giáo Mật tông được manh nha
là từ rất sớm biểu hiện qua kinh A Hàm. Bằng việc xướng tụng những kinh văn đơn
giản bằng văn Pali trong Luật Tạng và trong Kinh A Hàm, nương vào công đức đó thì
mọi sự được an lành, với hình thức Mật chú này được gọi là thời kỳ Tạp Mật. Ngoài ra,
còn lấy thể cách văn tự và ngữ cú để làm đặc trưng riêng, và có hàm nghĩa vô cùng sâu
sắc với việc nhiếp tâm điều tức, mục tiêu đạt đến Đà-la-ni thống nhất tinh thần tức là
Nhất Tâm, đây là giai đoạn tối sơ của Tạp Mật.
Vì thế Kinh Diệu Túy Bồ Tát sở vấn chép rằng:“các nhà tu niệm nếu muốn cái
phép trì tụng cho đặng mau thành tựu kết quả, linh nghiệm, thì với những nghi thức lễ

pháp gì, chẳng đặng làm thiếu hay phạm môt mãy mún nào, vì hễ thiếu sót và trái
phạm là, khiến cho các điều Ma chướng nó thừa dịp đặng tiền bề phá hại! Thế nên
hành giả phải chăm lòng trì tụng, hằng giờ không xen hở” [ HT.Khánh Anh (dịch),
tr5]. Sự khắt khe trong nghi thức và yêu cầu sự miên mật trong đời sống được xem là
yếu tố làm cho Mật tông khó có sự truyền bá rộng rãi vào cộng đồng phổ quát. Nhưng

1
8


mặt khác chính sự thâm u của Mật tông lại làm cho tầng lớp tín đồ vô cùng hấp dẫn và
sùng bái tín tâm mạnh mẽ, vì thế phương diện khác, mật tông như mạch nước ngầm
trong lòng của Đạo Phật tiếp thu và truyền bá cũng cũng có những giai đoạn cực
thịnh.
Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ XI,XII, cuối vương triều Pala và thời đại vương triều
Sina, quân đội của Hồi giáo ngày càng lấn chiếm, Phật giáo phải dồn về cứ điểm cuối
cùng ở Đông Ân, rốt cùng cũng bị quân Hồi giáo đánh chiếm. Thế là các vị đại sư Mật
tông mỗi người phân tán về mỗi ngã, rất nhiều vị đã thông qua đường Kashmir mà
chạy vào tỵ nạn ở Tây Tạng, một số khác lại chạy vào dãy Nepal. Đương thời, trường
Nãlandã cũng chỉ còn lại khoảng 70 vị, không lâu sau đó thì hàng vương thất lại tin
theo Hồi giáo, tín đồ Phật giáo chưa biết phải chọn đường nào, nên đành phải cải đạo
thành tín ngưỡng Hồi giáo, hoặc tín ngưỡng Ân độ giáo. Đầu thế kỷ XIII, quân đội của
Hồi giáo thiêu cháy chùa Siêu Loại, ngôi chùa cuối cùng của Ân độ, lấy đó làm tiêu
chí, Phật giáo nói chung và Mật tông nói riêng trên đất Ân độ đã gần như hoàn toàn
mất dấu.
Điểm bất đồng lớn nhất giữa hai tông phái hiển và mật tông là sự truyền thừa và
tu trì. Với hiển tông giáo lý cố nhiên phải được sự truyền trao nhưng về mặt tu trì thì
không nhất định phải có thầy truyền và nghi quỹ nghiêm khắc. Trái lại, nghi lễ của Mật
tông thì rất phiền phức, các tôn giáo trên thế giới không có tôn giáo nào sánh kịp. Từ
lúc mới quy y thụ quán đỉnh đến bậc kim cang thượng sư phải có một trình tự nhất

định không thể vượt qua được. Khác xa với phương tiện giản dị, gần gũi của Hiển
giáo. Nói về giáo nghĩa Hiển tông cho rằng ứng thân Phật thuyết pháp, mật tông cho
rằng pháp thân Phật thuyết pháp. Hiển tông cho rằng người tu hành phải trải qua ba đại
a tăng kỳ kiếp3 tu lục độ4 vạn hạnh mới chứng được quả Phật. Còn Mật tông trái lại tu
diệu hạnh tam mật cũng có thể thành Phật ngay trong thân này.

3 Srt. asankya: vô lượng vô số, vô biên, có 47 con số 0 theo sau con số 1 tạo thành a tăng kỳ.
4 Lục độ gồm có : bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ độ

1
9


Yếu tố Mật là một trong những yếu tố quan trọng, tạo nên sự đa dạng trong
thống nhất của Phật giáo Bắc tông. Biểu hiện rõ nét được thể hiện qua các nghi quỹ 5,
nghi lễ, nhằm truyền tải tư tưởng và thành tựu những giá trị tương ưng. Sự khác biệt
của yếu tố Mật không chỉ làm nên sự phong phú tư tưởng của Phật giáo phát triển mà
còn là yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa tông phái Phật giáo.
1.2. Phật giáo Mật của người Việt (ở Nam Bộ)
Phật giáo là tôn giáo bắt đầu từ bài pháp đầu tiên do chính Tất-đạt-đa
(Siddhartha), sau khi giác ngộ thành Phật, nói cho năm anh em tôn giả A-nhã Kiềutrần-như (Ajnata Kundinya), tại vườn Nai (Mrgadava) ở ngoại thành Ba- la-nại
(Varamasi). Sau khi nghe pháp, cả năm người này đều xin theo Phật tu học, tăng đoàn
được hình thành từ đó .
Sau khi đức Phật nhập niết bàn, các đệ tử của ngài truyền bá giáo lý đạo Phật
khắp Ân Độ và rộng ra trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Theo lời phát biểu của
Pháp sư Đàm Thiên trong Tục Cao tăng truyện, từ những năm đầu Công Nguyên, khi
Phật giáo chưa truyền đến Trung Hoa thì ở Giao Châu, nhờ có đường thông qua Thiên
Trúc, nên đã sớm hình thành trung tâm Phật giáo Luy Lâu với hơn 20 ngôi chùa được
dựng, độ hơn 500 người xuất gia, dịch kinh 15 quyển, với những tăng sĩ nổi tiếng như
Khâu Đà La, Ma La Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác,... [Lê

Mạnh Thát 1999: Ừ203-204]. Đây được xem là cột mốc đánh dấu sự có mặt của nền
Phật giáo tương đối hoàn chỉnh ở nước ta.
Trải qua trên dưới hai mươi thế kỷ tồn tại và phát triển, Phật giáo luôn đồng
hành, hòa hợp với dân tộc, với nền văn hóa Việt Nam. Nhờ vào sự tiếp thu linh hoạt có
chọn lọc, người Việt Nam đã biến Phật giáo từ một tôn giáo ngoại nhập thành tôn giáo
bản địa. Nhiều thành tựu văn hóa dân tộc được khởi nguồn từ văn hóa Phật giáo, đặc
biệt trong thời Lý, Trần. Sau một thời gian thâm nhập và chiếm địa vị độc tôn trong
5Gọi đủ bí mật du già quán thành nghi quỹ, niệm tụng nghi quỹ, bí mật nghi quỹ, tam ma địa nghi quỹ cũng gọi
là tu hành pháp, niệm tụng pháp, cúng dường pháp, tam ma địa pháp, mật quỹ, kinh quỹ, .„.gọi chung các kinh
điển nghi thức quỹ tắc trong Mật giáo.

2
0


triều đình phong kiến, đến cuối thời Trần trở về sau, Phật giáo bắt đầu lan tỏa trong đời
sống cộng đồng, nhất là tầng lớp bình dân. Khi sự phân tranh của Trịnh - Nguyễn chia
cắt đất nước thành 02 chiến tuyến, thì ở Đàng Trong, Phật giáo được sự ủng hộ nhiệt
thành của các chúa Nguyễn, lại bắt đầu thời kỳ hưng thịnh của nó.
Dựa vào lịch sử hình thành các ngôi chùa ở Nam Bộ, ta có thể nhận ra con
đường mà Phật giáo du nhập vào vùng đất này. Theo Trần Hồng Liên trong công trình
Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ - Việt Nam, thì quá trình du nhập của
Phật giáo vào Nam Bộ được chia thành 4 hướng chủ yếu như sau:
(1) . Hướng thứ nhất, những nhà sư người Việt và Hoa có mặt trong các đoàn
người di dân từ miền đất Thuận - Quảng vào khai phá vùng đất mới và đặt nền móng
đầu tiên cho Phật giáo ở Nam Bộ theo đường bộ.
(2) . Hướng thứ hai theo đường thủy, từ Trung Quốc, đạo Phật được các nhà sư
theo chân dòng người di dân đến thẳng vùng Đồng Nai, Gia Định và Mỹ Tho truyền
đạo, rồi từ đó lan tỏa ra các vùng lân cận.
(3) . Hướng thứ ba vào đầu thế kỷ XVIII, Mạc Cửu người Quảng Đông, từ

Chân Lạp sang vùng đất Mang Khảm, sau đặt tên là Hà Tiên, và cho xây dựng chùa
Tam Bảo. Đây là một trong những hướng du nhập của Phật giáo Trung Hoa vào Nam
Bộ theo hướng ngược lại của cuộc di dân.
(4)

. Hướng thứ tư vào năm 1938, Phật giáo Nam Tông người Việt được ngài

Hộ Tông mang từ Campuchia vào Nam Bộ, làm phong phú thêm tổ chức Phật giáo tại
đây [Trần Hồng Liên 1995: 10-11].
Dựa vào những phát hiện khảo cổ được ghi nhận trong tác phẩm của [Lê Xuân
Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải] như: tháp, tượng Phật, thần ở Long An, Kiên Giang
và vùng Đồng Tháp Mười,... có niên đại 530, 400, 300 năm trước công nguyên [sđd,
1995, tr.81-86]. Dĩ nhiên, Phật giáo lúc bấy giờ có lẽ là Phật giáo Nam tông - một hệ
phái Phật giáo phổ biến trong cộng đồng người Khmer Tây Nam Bộ hiện nay. Chính vì
vậy, khi Phật giáo từ miền Thuận - Quảng truyền vào, một số ngôi chùa được dựng lên
2
1


trên nền chùa cũ của người Khmer, như chùa Gò (Phụng Sơn tự -TP.HCM) ở Gia Định
xưa. Ở một số nơi khác, người ta đào được tượng Phật, chuông đồng, đồ dùng trong
nhà chùa, những phù điêu có nội dung Phật giáo, điển hình là Pháp thân kệ khắc trên lá
vàng mỏng được tìm thấy ở gò Xoài, Long An. Yếu tố bản địa từ Phật giáo Chân Lạp
còn sót lại trên vùng đất phương Nam đã duy trì niềm tin về đức Phật cho cư dân nơi
đây, sau này trở thành một trong những nhân tố quan trọng, thúc đẩy sự tiếp nhận và
phát triển của Phật giáo người Việt khi được truyền đến.
Với bốn hướng truyền bá, cộng thêm yếu tố bản xứ, đã làm cho Phật giáo người
Việt ở Nam Bộ, ngay từ những ngày đầu du nhập, mang nhiều sắc thái khác nhau. Tuy
vậy, ở chừng mực nhất định, bên cạnh những đặc thù hình thành trên nền tảng tiếp biến
Phật giáo từ nhiều vùng miền khác nhau, Phật giáo Nam Bộ vẫn mang các tính chất

chung của Phật giáo cả nước. Điều này được biểu hiện qua nhiều phương diện khác
nhau trong đời sống văn hóa Phật giáo Nam Bộ, mà chúng ta sẽ đề cập tới ở phần tiếp
theo.
1.2.1. Đặc trưng Phật giáo người Việt ở Nam Bộ
Đề cập tới đặc trưng Phật giáo Nam Bộ là nói đến các giá trị đã được định hình
trong quá trình Phật giáo hình thành, phát triển ở Nam Bộ. Các giá trị này được biểu
hiện qua nhiều phương diện khác nhau trong đời sống sinh hoạt Phật giáo. Ở đây, có
thể nhận diện một số nét đặc trưng cơ bản như: Phật giáo người Việt Nam Bộ là nơi tập
trung nhiều bậc anh tài Phật giáo, thể hiện tính dung hợp cao, tính năng động và tinh
thần nhập thế mạnh mẽ.
a. Nơi tập trung nhiều bậc anh tài
Phật giáo người Việt ở Nam Bộ là nơi tập trung nhiều bậc anh tài nhất so với
các vùng miền khác trong nước thời cận và hiện đại (6). Đặc trưng này manh nha từ
khi Phật giáo theo chân các vị Thiền sư bước đầu tới vùng đất mới Nam Bộ, và biểu
hiện ngày càng rõ hơn bởi sự xuất hiện tiếp tục của các thiền sư nổi tiếng với đạo
phong và sức ảnh hưởng sâu rộng của họ đối với cộng đồng Phật giáo. Trong đó, nổi

2
2


bật nhất là thiền sư Nguyên Thiều và các đệ tử của ông như thiền sư Minh Giác - Kỳ
Phương (1682 - 1744), thiền sư Thành Nhạc - Ẩn Sơn (? - 1776), thiền sư Minh Vật Nhất Tri (? - 1786)... [Nguyễn Hiền Đức 1995, tr. 187].
Năm 1734, để tăng cường dân số cho vùng đất mới, chúa Nguyễn Phúc Khoát
đã phát động phong trào di dân từ miền Trung vào Đồng Nai - Sài Gòn - Gia Định.
Cùng với quá trình đó là sự xuất hiện của các vị thiền sư để phục vụ nhu cầu tôn giáo,
tín ngưỡng của cộng đồng. Các thiền sư này cho xây dựng thêm nhiều ngôi chùa mới ở
đất Nam Bộ. Chẳng hạn như thiền sư Thiền sư Linh Nhạc - Phật Ý (1725 - 1821) khai
sơn chùa Từ Ân (1744), thiền sư Pháp Nhân - Thiên Trường, khai sơn chùa Thiên
Trường (1755) ở Cầu Kho, thiền sư Đạt Bổn lập chùa Kim Chương (1756), thiền sư

Toàn Chánh - Tánh 6
Đắc khai sơn chùa Tập Phước ở xã Bình Hòa, sau lên trụ trì chùa Hội Khánh ở Thủ
Dầu Một... Ngoài việc xây dựng chùa chiền, đáp ứng nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng của
người dân Nam Bộ, các thiền sư còn đặc biệt chú trọng đến việc giúp đỡ cộng đồng,
thông qua các hoạt động trừ tà, bốc thuốc chữa bệnh, như thiền Sư Hải Hội - Chánh
Nghiệp, thiền sư Tánh Thông - Giác Ngộ, thiền sư Kiểu Giáp - Định Tông, thiền sư
Bảo Chơn.. Ngoài ra, dù hành đạo ở vùng đất Nam Bộ, nhưng với tài năng và đức hạnh
của mình, nhiều thiền sư hành đạo ở Nam Bộ còn được triều đình Huế mời về kinh
thuyết pháp và phong chức Tăng cang, trụ trì chùa Thiên Mụ - một ngôi chùa thuộc
triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ, như thiền sư Tổ Ân - Mật Hoằng (1735 - 1835),
thiền sư Tế Bổn - Viên Trường (1769 - 1848) thiền sư Thiệt Thành - Liễu Đạt (? 1823), thiền sư Tế Giác - Quảng Châu (1788 - 1875)...
Từ thế kỷ XX trở đi, đặc trưng này càng được thể hiện rõ nét ở Phật giáo Nam
Bộ. Theo công trình Tiểu sử danh Tăng Việt Nam do Thích Đồng Bổn chủ biên, thì
trong số 200 nhà sư ở thế kỷ XX, có đến 88 vị sinh quán và trưởng thành ở Nam Bộ,
6Xem thêm bài viết Phan Thu Hiền 2011: "Một số đặc điểm văn hóa Phật giáo của người miền Tây Nam Bộ
qua cuộc đời các vị danh Tăng" - Nguyệt San Giác Ngộ số 179, trang 54 - 65.

2
3


chiếm 41% danh tăng cả nước. Trong một công trình khác là Danh nhân văn hóa Phật
giáo Việt Nam đương đại - chân dung và đối thoại ,do Minh Mẫn chủ biên năm 2006,
tỉ lệ này cao hơn: 9/10 nhà sư, chiếm 90% số lượng các nhà sư nổi tiếng trong cả nước.
Hiện nay, số lượng tự viện và Tăng Ni ở TP. Hồ Chí Minh là đông nhất nước.
Nhờ điều kiện kinh tế - xã hội thuận tiện, nơi đây được xem là trung tâm đào tạo nhân
tài Phật giáo trong nước, với các hệ thống giáo dục từ sơ, trung cấp, cao đẵng, đại học
và bước đầu thí điểm hệ Thạc sĩ và Tiến sĩ. Những lớp học chuyên ngành như Luật
học, giảng sư, phiên dịch kinh điển,... được tổ chức ngày càng có hệ thống và chuyên
môn hóa. Những điều kiện thuận lợi đó đã góp phần hun đúc, hình thành và sản sinh ra

nhiều nhân tài cho Phật giáo vùng và cả nước.
b. Tính dung hợp cao
Đây là một trong những đặc trưng cơ bản, bao trùm cả hệ thống của Phật giáo
người Việt tại Nam Bộ, giúp khu biệt với các vùng khác.
Ngay từ khi mới du nhập, sự dung hợp của Phật giáo Nam Bộ đã bước đầu định
hình qua quá trình cộng cư của các tộc người (Khmer - Việt - Hoa - Chăm). Tính dung
hợp này ngày càng được nhận diện rõ nét và sâu sắc hơn trong thời hiện đại, qua nhiều
phương diện khác nhau của văn hóa Phật giáo tại vùng đất mới này, thể hiện qua văn
hóa nhận thức Phật giáo, văn hóa tổ chức, văn hóa ứng xử... Trong đó, nổi bật nhất là
sự dung hợp hệ phái trong tổ chức Phật giáo, dung hợp kiểu thức kiến trúc ngôi chùa,
hay cơ sở thờ tự trong văn hóa ứng xử Phật giáo. Nhờ tính dung hợp này mà mặc dù
vẫn giao lưu, tiếp xúc với văn hóa Phật giáo các vùng, các quốc gia từ bên ngoài,
nhưng Phật giáo Nam Bộ vẫn không bị hòa tan, vẫn giữ được những nét riêng mang
tính đặc thù của nó [Trần Hồng Liên 2000, tr. 222]. Chính vì vậy, các tư tưởng của các
tông phái cũng thể hiện rất rõ và đặc trưng ở khu vực này.
Ngoài hai đặc trưng trên, Phật giáo người Việt ở Nam Bộ còn thể hiện tính năng
động và tinh thần nhập thế mạnh mẽ. Đạo Phật chủ trương giải thoát, nhưng Phật giáo
Việt Nam, đặc biệt là ở Nam Bộ đã thể hiện tinh thần “Phật pháp bất ly thế gian pháp”
(7) rất cao độ. Ngay từ những ngày đầu du nhập, Phật giáo người Việt tại Nam Bộ đã
2
4


lấy phương châm “phục vụ chúng sanh là thiết thực cúng dường chư Phật” làm kim chỉ
nam trong sự dấn thân của mình. Chính vì vậy, trong nhiều hoạt động, giới Phật giáo
luôn hướng tới lợi ích của quần chúng. Ngoài những hoạt động mang tính chất tôn
giáo, Phật giáo Nam Bộ còn có những phong trào thiết thực đáp ứng nhu cầu cấp bách
của quốc gia, dân tộc. Chẳng hạn như trong các cuộc chiến giữa triều đình nhà Nguyễn
với Tây Sơn, Phật giáo đã dành nhiều ngôi chùa làm nơi lánh nạn tạm 7 thời của triều
đình và hoàng gia, như chùa Khải Tường và chùa Từ Ân (Sài Gòn), chùa Đại Giác

(Đồng Nai). Do đó sau khi xưng vương, các chúa Nguyễn rất chăm lo cho Phật giáo và
những ngôi chùa này.
Đầu những năm 20 của thế kỉ XX, khi đất nước có loạn, nhiều ngôi chùa, nhiều
vị danh tăng tham gia hoạt động yêu nước, chống ngoại xâm trong các hội kín như
Thiên địa hội, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Các cuộc khởi nghĩa của dân tộc,
như khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, Cách Mạng tháng Tám 1945, đều có sự tham gia, ủng
hộ của tăng ni và Phật tử.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đấu tranh chống Mỹ, Phật giáo Nam Bộ
lại có những người con xếp cà sa để khoác chiến bào lên đường cứu nước, tham gia các
hoạt động đấu tranh đòi thực thi Hiệp định Genève, thống nhất đất nước, đấu tranh
chống chính sách đàn áp tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Và đỉnh cao của
phong trào chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm là ngọn lửa “vị pháp thiêu thân” của
một vị Hòa thượng, mà sau này được tôn xưng là Bồ Tát Thích Quảng Đức, bừng cháy
giữa lòng thành phố Sài Gòn vào ngày 11/6/1963, đã góp phần to lớn làm tan rã bộ
máy chính quyền Mỹ - Diệm, đưa cuộc đấu tranh của dân tộc sang trang mới.
Sau năm 1975, tính năng động và tinh thần nhập thế này càng thể hiện rõ nét
qua các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, các hoạt động từ thiện - xã hội của Phật giáo
Nam bộ. Trong bản tin Hội nghị kỳ IV khóa V của Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho
biết, năm 2005 Ban Từ thiện- xã hội Phật giáo ở Nam Bộ đóng góp đến 79% tổng kinh
7 Phật pháp không lìa ngoài các việc trong thế gian.

2
5


×