Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Hoạt động hoằng pháp của giáo hội phật giáo việt nam tỉnh đắk lắk và đời sống văn hóa của người êđê hiện nay (nghiên cứu trường hợp người êđê ở huyện cư mgar) ( Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.76 KB, 115 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------------------

PHÙNG THÁI HỘI
(THÍCH TỊNH QUANG)

HOẠT ĐỘNG HOẰNG PHÁP CỦA GIÁO HỘI
PHẬT GIÁO VIỆT NAM TỈNH ĐẮK LẮK VÀ ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA CỦA NGƢỜI ÊĐÊ HIỆN NAY
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP NGƢỜI ÊĐÊ Ở HUYỆN }\ƣ\
Mgar)

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------------------------------

PHÙNG THÁI HỘI
(THÍCH TỊNH QUANG)

HOẠT ĐỘNG HOẰNG PHÁP CỦA GIÁO HỘI
PHẬT GIÁO VIỆT NAM TỈNH ĐẮK LẮK VÀ ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA CỦA NGƢỜI ÊĐÊ HIỆN NAY
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP NGƢỜI ÊĐÊ Ở HUYỆN }\ƣ\


Mgar)

Ngành: Tôn giáo học
Mã số: 8 22 90 09
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN HỒNG DƢƠNG

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Phùng Thái Hội (Thích Tịnh Quang), ngƣời thực hiện luận văn này.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, chƣa đƣợc ai công bố
trong bất cứ công trình nào khác. Những trích dẫn cần thiết trong luận văn
đƣợc chú thích rõ ràng và trung thực.
Tác giả luận văn

Phùng Thái Hội
(Thích Tịnh Quang)


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Học viện Khoa học xã
hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Khoa Tôn giáo học, Học viện
Khoa học xã hội đã tạo những điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi học tập
và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng gửi cảm ơn đến quý thầy, cô giáo, những ngƣời phụ

trách khoa Tôn giáo học đã đem hết tâm nguyện, tâm huyết, kiến thức và kinh
nghiệm truyền đạt cho tôi trong thời gian lƣu học tại trƣờng.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Hồng Dƣơng, bậc thầy
khả kính đã hƣớng dẫn tận tình, chỉ dạy và truyền đạt cho tôi nhiều kiến thức
và kinh nghiệm có giá trị để giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả chƣ thiện tri thức, những bạn bè,
những ngƣời đã gắn bó và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập cũng nhƣ
trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, con xin tri ân đến ân sƣ, cha mẹ, huynh đệ và những ngƣời
thân đã tạo điều kiện để con yên tâm học tập trong suốt thời gian qua.
Xin cảm ơn tất cả!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Học viên

Phùng Thái Hội
(Thích Tịnh Quang)


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI ÊĐÊ VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA
PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI NGƢỜI ÊĐÊ Ở ĐẮK LẮK ................................. 19
1.1. Khái quát về ngƣời Êđê ở huyện }ƣ| Mgar tỉnh Đắk Lắk ........................ 19
1.2. Khái quát về sự du nhập, ảnh hƣởng của Phật giáo đối với đồng bào
dân tộc thiểu số nói chung, ngƣời Êđê ở Đắk Lắk nói riêng .......................... 25
Chƣơng 2: ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƢỜI ÊĐÊ VÀ PHƢƠNG
THỨC HOẰNG PHÁP CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM Ở
HUYỆN }Ƣ¥ MGAR HIỆN NAY ................................................................ 35
2.1. Đời sống văn hóa của ngƣời Êđê và Phật giáo trong đời sống văn hóa

của ngƣời Êđê ở huyện }ƣ| Mgar .................................................................... 35
2.2. Thực trạng về hoạt động hoằng pháp và Phƣơng thức hoằng pháp của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam ở huyện }ƣ| Mgar ảnh hƣởng đến đời sống
văn hóa hiện tại của tộc ngƣời Êđê ................................................................. 48
Chƣơng 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP .... 65
3.1. Một số nhận xét ........................................................................................ 65
3.2. Một số khuyến nghị giải pháp .................................................................. 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 88


CHÚ THÍCH
Địa danh Đắk Lắk có nhiều cách viết:
Viết theo tiếng M’nông thì viết Daklak
Trong văn bản của tiếng pháp thì Darlac
Một số nơi thì lại viết: Đắk Lắc, Đắc Lắk, Dăklăk, Đăk Lăk...
Theo các công văn ban hành của chính phủ thì viết Đắk Lắk.
Ở đây chúng tôi sử dụng theo cách viết theo các công văn của chính phủ là:
Đắk Lắk
Địa danh huyện }ƣ\ Mgar cũng có nhiều cách viết nhƣ CƣM’gar, Chƣ Mga,
Cƣ mga. Luận văn dùng theo tiếng Êđê là: }ƣ\ Mgar, Su\t Mdrang, Su\t
Mdrƣng, }ƣ\ Sƣê


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT

VIẾT TẮT


NỘI DUNG CHỮ VIẾT TẮT

1

TT

Thƣợng toạ

2

UV

Uỷ viên

3

GHPGVN

Giáo hội Phật giáo Việt Nam

4

THPG

Thành hội Phật giáo

5

TW


Trung Ƣơng

6

HĐTS

Hội đồng Trị sự

7

BĐD

Ban Đại diện


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, có thể nói Phật giáo là một trong
những tôn giáo để lại dấu ấn khá đậm nét lên đời sống văn hóa ngƣời Việt từ tƣ
tƣởng, quan điểm đến nghi lễ, sinh hoạt cộng đồng. Tƣ tƣởng Phật giáo thấm sâu
vào nếp nghĩ, nếp sống của ngƣời Việt, thành lời nhắc nhở của tổ tiên truyền đến
con cháu, rằng phải ăn hiền ở lành, rằng dù sao đi nữa, cũng cứ tin “gieo gió gặt
bão”. Quan điểm Phật giáo đã đi từ hệ thống giáo lý của một tôn giáo vào cuộc đời,
hình thành nên những tâm hồn Việt luôn biết tự nhắc thức nhau: hãy bao dung với
ngƣời, hãy biết “tùy duyên” mà hành xử, bình tâm mà đón gió cuộc đời, bởi đó là
tặng phẩm, là thử thách thú vị mà đời dành cho ta. Nghi lễ Phật giáo dạy con ngƣời
biết cúi đầu tôn trọng, tri ân các bậc Thánh nhân, tiền hiền, những ngƣời có công
với làng xã, dân tộc. Trong sinh hoạt cộng đồng, Phật giáo trao cho những tín đồ
dân dã của mình niềm tin yêu hồn nhiên nhƣng hết mực nhân văn rằng ngƣời chết

và cả ngƣời sống đều có thể sẻ chia cùng nhau ƣớc vọng bình an giữa sóng gió luân
hồi chỉ bằng sự thành tâm, lòng yêu thƣơng dành cho đồng loại trong từng cuộc lễ
cầu an, cầu siêu…
Điều gì đã khiến Phật giáo trở nên gần gũi, thiết thân trong lòng dân tộc Việt
đến vậy? Có rất nhiều lý do đƣợc đƣa ra. Một trong những lý do ấy chính là sự cộng
hƣởng, hòa nhập rất tự nhiên nhƣng không kém phần thú vị giữa tƣ tƣởng, quan
điểm của Phật giáo và lối sống, tâm hồn của dân tộc Việt nói chung. Vì vậy, nghiên
cứu, khảo sát về ảnh hƣởng, mối tƣơng quan giữa Phật giáo và văn hóa Việt Nam
luôn thu hút đƣợc không ít sự quan tâm của khoa học và cả tôn giáo. Tuy nhiên,
diện mạo văn hóa Việt Nam không chỉ đƣợc tạo nên từ văn hóa của tộc ngƣời Việt.
Do đó, nghiên cứu tƣơng quan giữa Phật giáo và đời sống văn hóa Việt Nam, không
thể bỏ qua mối tƣơng quan dấu ấn Phật giáo trong đời sống văn hóa của các đồng
bào dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam. Xuất phát từ suy nghĩ ấy, chúng tôi
chọn đề tài: Hoạt động hoằng pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đắk
Lắk và đời sống văn hóa của ngƣời Êđê hiện nay (nghiên cứu trƣờng hợp

1


ngƣời Êđê ở huyện }ƣ\ Mgar). Với đề tài trên, chúng tôi mong muốn tìm hiểu sâu
hơn mối tƣơng quan cũng nhƣ những ảnh hƣởng của Phật giáo đối với đời sống văn
hóa của cộng đồng ngƣời Êđê. Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, luận văn hy vọng
sẽ mang lại cho mọi ngƣời thêm một điểm nhìn, cách nhìn về Phật giáo trong đời
sống văn hóa của tộc ngƣời Êđê ở Đắk Lắk nói riêng, và tộc ngƣời Êđê ở Việt Nam
nói chung. Thông qua đó, có thể có hƣớng hoằng pháp, giải pháp tích cực, phù hợp
nhất để bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp, đồng thời khắc phục, hạn
chế những cách nghĩ, cách sống chƣa phù hợp, lệch lạc (nếu có) của tộc ngƣời Êđê
ở Đắk Lắk hiện nay, để văn hóa dân tộc và văn hóa Phật giáo trở thành một dòng
chảy liền mạch, thông suốt, dung hòa một cách trọn vẹn trong dòng chủ lƣu của văn
hóa và Phật giáoViệt Nam.


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Những công trình nghiên cứu về đời sống văn hóa của tộc người Êđê
Trong số 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, tộc
ngƣời Êđê đƣợc xem nhƣ là một trong số những tộc ngƣời thiểu số ở Tây Nguyên
có dân số đông nhất. Theo ƣớc tính, có hơn 331.000 ngƣời Êđê cƣ trú ở các tỉnh
Đắk Lắk, phía nam của tỉnh Gia Lai và miền tây của hai tỉnh Khánh Hòa, Phú
Yên. Ngƣời Êđê vốn thuộc ngữ hệ ngôn ngữ Mã Lai – Đa Đảo (Malayo –
Polynesia) cũng gọi là Austonesia, tức là Nam Đảo, có nguồn gốc lâu đời từ
vùng biển đảo. Mặc dù đã chuyển cƣ vào miền Trung Việt Nam, rồi di dân lên
vùng đất cao nguyên Tây Nguyên khoảng cuối thế kỉ thứ VIII đến thế kỉ XV,
song trong tâm thức tộc ngƣời Êđê, bến nƣớc và con thuyền vẫn là những hình
ảnh chƣa hề phai nhạt. Điều này giúp cho ngƣời Êđê tạo nên dấu ấn văn hóa
riêng cho chính mình giữa vô vàn sắc màu văn hóa của 54 dân tộc anh em trên
lãnh thổ Việt Nam từ bao đời qua. Có thể nói, chính nhờ những đặc trƣng riêng
về văn hóa, cách sinh hoạt cộng đồng, ngƣời Êđê đã thu hút đƣợc không ít sự
quan tâm, nghiên cứu của nhiều ngƣời.
Tuy nhiên, đa phần các công trình nghiên cứu này thƣờng chỉ khảo sát chủ
yếu về đặc trƣng văn hóa, cách thức sinh hoạt cộng đồng của ngƣời Êđê đặt trong

2


tổng thể của văn hóa các dân tộc ở Tây Nguyên, còn khá ít những công trình, tài
liệu đề cập một cách đầy đủ, chuyên sâu về tộc ngƣời Êđê. Có thể tạm chia các
tài liệu, công trình nghiên cứu đó thành hai nhóm: Nhóm nghiên cứu đời sống
văn hóa của người Êđê như một bộ phận của văn hóa các dân tộc Tây Nguyên và
nhóm nghiên cứu đời sống văn hóa của người Êđê như một nền văn hóa đặc
trưng, riêng biệt.
Ở nhóm thứ nhất, nhóm nghiên cứu đời sống văn hóa của người Êđê như một

bộ phận của văn hóa các dân tộc Tây Nguyên, có thể kể đến“Văn hóa dân gian Tây
Nguyên, một cách nhìn”. Trong công trình này, Linh Nga Niê Kdam đƣa ra nhận
xét khái quát về văn hóa các dân tộc Tây Nguyên (có ngƣời Êđê): “Có thể thấy, văn
hóa các dân tộc thiểu số Tây Nguyên có bản sắc riêng, độc đáo nhưng không hề
tách rời và có tính thống nhất trong bản sắc văn hóa chung của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam” [42, tr. 23-24]. Tuy nhận xét còn chung chung, chƣa chỉ rõ những
biểu hiện cụ thể của “bản sắc riêng, độc đáo” của văn hóa Tây Nguyên, song, tác
giả đã bƣớc đầu gợi mở cho ngƣời đọc những ấn tƣợng ban đầu để đi sâu vào tìm
hiểu văn hóa của đồng bào các dân tộc, trong đó có ngƣời Êđê.
Trong “Trang phục truyền thống của người Ê Đê Bih” tác giả Lƣơng Thanh
Sơn đề cập đến dân tộc Êđê và các nhóm tộc ngƣời ở tỉnh Đắk Lắk, tác giả cho rằng: “
Người Bih là một nhóm của dân tộc Ê đê, có cùng nguồn gốc ngôn ngữ Austronesian(
Malayô-Poolinêdi) lục địa. Cư dân Bih có quan hệ nguồn gốc với người Chăm, Jarai,
Chu ru, Raglai và có quan hệ cộng cư với các dân tộc khác trong khu vực như M’nông
và các nhóm của M’nông…tập sách Trang phục truyền thống người Bih sẽ góp phần
làm sáng tỏ mối quan hệ đó, đồng thời với việc tìm hiểu trang phục người Bih thông
qua những đặc trưng và ứng xử tộc người sẽ giúp các nhà khoa học trong việc đánh
giá trình độ phát triển kinh tế- xã hội-văn hóa của cư dân Bih. Từ đó có những định
hướng đúng đắn cho họ trong việc lựa chọn những ứng xử thích hợp của dân tộc mình
trong hoàn cảnh hiện tại và tương lai.” [48, tr. 8].
Trong cuốn “Sự biến đổi những giá trị xã hội truyền thống của đồng bào các
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay”. Phó giáo sƣ, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hòa

3


đã phân tích về giá trị xã hội truyền thống và vai trò của nó trong đời sống xã hội,
thực trạng biến đổi các giá trị xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số
ở Tây Nguyên, đồng thời đƣa ra một số giải pháp nhằm kế thừa và phát huy các giá
trị xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Đến “Nghề thủ công truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên”, Linh Nga
Niê Kdam đi sâu vào nghiên cứu về các nghi lễ, sinh hoạt truyền thống, tôn giáo tín
ngƣỡng của đồng bào Tây Nguyên, cụ thể là ở ngƣời Êđê. Công trình nghiên cứu
gồm 3 chƣơng.Trong đó, chƣơng I – giới thiệu khái quát về địa bàn cƣ trú; các tộc
ngƣời Jrai, Êđê, Sê đăng, Bahnar, M'nông, K'ho; đời sống văn hóa, kinh tế, sinh
hoạt cộng đồng của các tộc ngƣời. Chƣơng II, đi vào tìm hiểu một số nghề truyền
thống của các tộc ngƣời. Chƣơng III, đánh giá về vai trò của nghề thủ công trong
đời sống cộng đồng quá khứ và hiện tại. Từ đây, tác giả đƣa ra một số nhận xét về
tộc ngƣời Êđê: “Tùy theo các lễ cúng lớn hay nhỏ, điều cầu xin quan trọng đến đâu
đối với gia đình hoặc cộng đồng, mà dùng lễ vật hiến sinh là gà, heo, hay bò. Tuy
nhiên, các lễ cúng lớn bao giờ cũng phải có trâu. Các nhóm thuộc ngữ hệ Mã Lai –
Đa Đảo đều có ăn trâu (hiến sinh) nhưng tộc người ÊĐê không có nghi lễ và hình
thức đâm trâu” [43, tr. 73]. Với nhận xét này, có thể thấy, tộc ngƣời Êđê cũng có
những đặc trƣng riêng biệt về văn hóa, sinh hoạt cộng đồng, không hoàn toàn “đồng
nhất” với văn hóa của các tộc ngƣời ở địa bàn Tây Nguyên. Bên cạnh đó, khi bàn về
sinh hoạt văn hóa trong cộng đồng ngƣời Êđê, Jrai, Linh Nga Niê Kdam thấy rằng:
“Hôn nhân Ê Đê, Jrai mang nhiều tính nhân văn: từ tục “ở dâu” để báo hiếu cha
mẹ chồng, đến việc không ép buộc, cũng không áp đặt nặng nề về lễ vật dẫn cưới,
thậm chí nếu chưa đủ lễ vật hai họ sẽ cho nợ và tổ chức cưới lớn sau. Đặc biệt việc
trao vòng bao giờ cũng được tổ chức trang trọng, tuy hình thức nhìn vào là đơn
giản, nhưng lại được đảm bảo như một lời đính ước bền vững. Sau này bên nào vi
phạm sẽ bị phạt đền bù cho cả phía bên kia lẫn cộng đồng” [43, tr. 90].
Đi xa hơn nữa, khi bàn về tín ngƣỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc, tác giả
cho rằng: “Tính cho đến những năm đầu thế kỉ XXI đã có đến 90% các dân tộc bản
địa Tây Nguyên từ bỏ tín ngưỡng truyền thống để trở thành tín đồ Thiên Chúa giáo

4


và Tin Lành. Nhưng có một điều lạ là: số người theo đạo Phật (gần như “quốc

đạo” của Việt Nam) lại hầu như rất ít. Do đồng bào theo tập quán bầy đàn, nên
cùng đồng tâm theo các tôn giáo du nhập từ phương Tây? Hay các dân tộc thiểu số
Tây Nguyên không phải là đối tượng tuyên truyền được lựa chọn của Phật giáo?
Điều này chưa có cuộc khảo sát nào để đưa ra kết luận chính thức” [43. tr. 82]. Ý
kiến này đã gợi mở cho luận văn một hƣớng nghiên cứu mới, đó là thử đi vào tìm
hiểu, lý giải vì sao Phật giáo chƣa có đƣợc ảnh hƣởng thật sự tích cực, mạnh mẽ
trong lòng đời sống văn hóa các dân tộc Tây Nguyên nói chung, ngƣời Êđê nói
riêng. Vì sao một tôn giáo từng đƣợc xem là “quốc đạo”, từng có thời hoàng kim
trong lịch sử Việt Nam lại có một “chỗ đứng” khá khiêm tốn ở Tây Nguyên, giữa
dòng chảy văn hóa của ngƣời Êđê?
Nhƣ vậy, có thể thấy, dù vốn tài liệu nghiên cứu còn khá ít ỏi, song, những
đánh giá trên đã phác thảo, gợi mở cho những ai mong muốn tìm hiểu về đời sống
văn hóa của ngƣời Êđê có đƣợc cái nhìn mang tính định hƣớng, khơi dậy niềm hứng
thú để bƣớc vào thế giới văn hóa của tộc ngƣời Êđê.
Ở nhóm thứ hai, nhóm nghiên cứu đời sống văn hóa của người Êđê như một
nền văn hóa đặc trưng, riêng biệt có thể nhắc đến tác giả Trƣơng Bi – Bùi Minh Vũ
với tác phẩm“Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các tộc người Ê Đê, M’nông”.Tác
giả đã nói lên thực trạng văn hóa truyền thống các tộc ngƣời Êđê, M’nông và một số
kết quả đạt đƣợc về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các tộc ngƣời Êđê, M’nông,
đƣa ra những giải pháp cơ bản về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các tộc ngƣời
Êđê, M’nông. Từ những kết quả nghiên cứu này, ngƣời đọc có thể phần nào hình
dung đƣợc đặc trƣng, những chuyển biến của đời sống văn hóa tộc ngƣời Êđê trong
dòng chảy văn hóa Việt Nam đƣơng đại.
Ngoài ra, trong “Nghi lễ - lễ hội Ê Đê”, tác giả Trƣơng Bi cũng đã đề cập
khá chi tiết đến tộc ngƣời Êđê ở Tây Nguyên. Ở đây, ngƣời đọc có thể tìm thấy đặc
trƣng về không gian văn hóa Êđê thông qua đời sống sinh hoạt cộng đồng. Tác giả
đã miêu tả khá cụ thể, chi tiết về những nghi lễ - lễ hội đặc trƣng của ngƣời Êđê nhƣ
nghi lễ - lễ hội vòng đời, lễ cúng cho ngƣời mẹ mang thai, lễ đặt tên thổi tai, lễ

5



trƣởng thành, lễ cƣới, lễ cầu an - cầu sức khỏe, lễ cúng sức khỏe, lễ tang, lễ ăn trâu
bỏ mả, và nghi lễ - lễ hội nông nghiệp nhƣ: lễ cúng rẫy, lễ cầu mƣa - cầu đƣợc mùa,
lễ mừng trận mƣa đầu mùa, lễ cúng thần gió, lễ tuốt lúa, lễ rƣớc thần lúa vào kho, lễ
ăn cơm mới, lễ ăn trâu mừng đƣợc mùa - đón năm mới và một số nghi lễ - lễ hội cổ
truyền khác nhƣ: lễ cúng bến nƣớc, lễ cúng vào nhà mới, lễ đón uống rƣợu cần
mừng năm mới, lễ đón khách quý, lễ rƣớc k’pan…Từ những nghi lễ này, Trƣơng Bi
nhận xét rằng: “Qua sự tiếp biến, giao thoa với văn hóa đa sắc tộc từ khắp mọi
miền đất nước đến Tây Nguyên, văn hóa Ê Đê đã hòa nhập, tiếp biến, giao thoa và
chọn lọc những cái hay, cái đẹp của văn hóa của dân tộc mình trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Đó là văn hóa thuộc ngữ hệ Nam Đảo, kín đáo, sâu sắc, đầy sức
sống của cộng đồng” [6, tr. 59]. Tác giả đã chỉ ra vai trò quan trọng của nghi lễ - lễ
hội trong việc gắn kết cộng đồng ngƣời Êđê:“…bên cạnh những giá trị tâm linh
mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thắm đượm tình người, tình làng buôn thì đây còn
là dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng khá sinh động. Ở đây, các loại hình sinh hoạt
văn hóa dân gian như diễn tấu cồng chiêng, múa tung khắc, múa trống, hát dân ca,
kể khan, ẩm thực, trang phục dân tộc, mỹ thuật dân gian… được thể hiện vô cùng
độc đáo, giàu bản sắc. Đây cũng là dịp để đồng bào ôn lại truyền thống, thắt chặt
thêm tình đoàn kết của cộng đồng” [6, tr.96].
Đồng thời, tác giả cũng đƣa ra những ý kiến mang tính chất “cảnh báo” trƣớc
những biến chuyển chƣa hay, chƣa đẹp trong nghi lễ - lễ hội của đồng bào dân tộc
Êđê trong tình hình hiện nay: “Sự thay đổi tín ngưỡng cũng đã gây ảnh hưởng
nghiêm trọng. Hầu hết các hoạt động văn hóa, văn nghệ dân gian trước đây đều
diễn ra xung quanh các nghi lễ- lễ hội nhưng giờ đây nhiều nơi không còn tổ chức
các nghi lễ- lễ hội truyền thống mà được thay bằng những lễ nghi tôn giáo mới. Ở
những nơi này, cồng chiêng bị bọn xấu coi là những nhạc cụ của thần linh, tà giáo,
không được sử dụng và cần phải xóa bỏ, hoặc đem bán gây nên tình trạng “ chảy
máu” cồng chiêng, ché, thổ cẩm, tượng nhà mồ... trong các buôn làng” [6, tr.164].
Tác phẩm“Văn hóa mẫu hệ qua sử thi Ê đê” của Tuyết Nhung Buôn Krông,

chỉ ra rằng “Người Ê đê là một tộc người thuộc xã hội mẫu hệ khá điển hình ở Việt

6


Nam. Những nguyên tắc mẫu hệ chi phối nhiều mặt trong tổ chức gia đình, xã hội
và in dấu rõ rệt trong đời sống văn hóa của người Ê đê”[41, tr. 45]. Tác giả còn đi
vào tìm hiểu về vai trò của ngƣời phụ nữ trong đời sống văn hóa của ngƣời Êđê:
“Vai trò người phụ nữ được biểu hiện sinh động trong luật tục, chuyện kể, được
hình tượng hóa trong kiến trúc dân gian ( nhà mồ, cồng chiêng). Qua đó, chúng ta
có thể thấy người phụ nữ không chỉ có vai trò trực tiếp đối với gia đình, dòng họ mà
còn có tác động gián tiếp đối với thiết chế tổ chức xã hội Ê đê” [41, tr. 46]. Từ đây,
Tuyết Nhung Buôn Krông nêu lên một nhận xét khá xác đáng: “Sự quyết đoán, chủ
động theo kiểu nữ tính của họ lại là một trong những phẩm chất cần thiết để họ
hoàn thành tốt vai trò của họ trong cộng đồng mẫu hệ. Mặt khác họ rất dịu dàng,
khiêm nhường, nép mình bên người chồng. Đó là tính cách đa diện của phụ nữ Ê
đê” [41, tr. 200].
Trong công trình nghiên cứu của Phó giáo sƣ, Tiến sĩ. Hà Đình Thành với đề
tài: “Cộng đồng dân tộc Ê đê ở tỉnh Đăklăk hiện nay” đã nghiên cứu một cách toàn
diện và hệ thống về cộng đồng dân tộc Êđê, về nguồn gốc cũng nhƣ đời sống văn
hóa của tộc ngƣời Êđê, trong đó tác giả có đề cập đến tôn giáo nhƣng cũng chỉ dừng
lại ở hai tôn giáo đó là Công giáo và Tin lành.
Riêng tác giả Trƣơng Thị Hiền với “Luật tục Ê Đê – một nền tư pháp hòa
giải những giá trị xã hội và sự biến đổi”cho rằng: “chúng tôi cho rằng luật pháp và
luật tục đều là “luật”- là những hiện tượng xã hội với những thuộc tính: (1) có
những quy tắc mang tính bắt buộc, (2) những quy tắc này được áp đặt bởi một
nhóm xã hội nào đó, và (3) những quy tắc này có thể thay đổi. Theo đó, luật tục và
pháp luật cùng có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, cùng hướng đến trật tự
xã hội. Có điều, nếu luật pháp hướng đến trật tự xã hội chung thì luật tục hướng
đến trật tự cộng đồng. Nếu như luật tục chỉ có giá trị áp dụng bắt buộc đối với các

thành viên trong cộng đồng thì luật pháp lại có tính phổ biến và bắt buộc chung đối
với tất cả các thành viên trong quốc gia”[ 27, tr. 44]. Trƣơng Thị Hiền đã phát hiện
ra những yếu tố rất nhân văn trong luật tục của tộc ngƣời Êđê: “... luật tục Ê đê là
biểu hiện của một nền tư pháp hòa giải khi mà, cách giải quyết của người phân xử
theo luật tục chủ yếu nhấn mạnh sự hòa giải, giáo dục hơn là kết tội, trừng phạt.

7


Ngay cả khi một người bị quy tội thì biện pháp trừng phạt thật chất là một hình thức
hòa giải, giáo dục. Việc phân xử hướng tới sự hài hòa lợi ích của các bên liên quan
có thể lý giải sự lựa chọn của nhóm người nghèo thường dựa vào luật tục và các
quyền không chính thức để bảo vệ quyền của mình. Điều này dường như vô lý bởi
nếu tuân thủ luật tục thì có thể họ bị mất chi phí nhiều hơn về thời gian và tiền bạc
so với việc giải quyết sự việc có liên quan theo luật pháp. Nhưng đối với người Ê đê
thì lại hợp lý khi mà “sau khi họ thi hành ngay hình phạt bồi thường cho người vi
phạm, họ sẽ được dân làng bỏ qua lỗi lầm và có thể hòa nhập ngay với cộng đồng.
Còn xử theo luật pháp, mức bồi thường có thể thấp hơn nhưng họ thấy có gì đó
không thoải mái, khó khăn hòa nhập vào cộng đồng” [27, tr. 216-217].
Ngoài ra, tác giả còn nêu lên cơ sở tồn tại của luật tục Êđê: “ Sự tồn tại của
luật tục Ê đê có những cơ sở kinh tế xã hội cơ bản là: (1) định chế kinh tế nương rẫy
cùng với quan niệm “đất đai là cái lưng của ông bà” khẳng định quyền sở hữu tài
sản cộng đồng của người Ê đê; (2) định chế gia đình mẫu hệ Ê đê với những quan
niệm về dòng họ, hôn nhân, thừa kế tài sản, mô hình nơi cư trú...;(3) định chế văn
hóa của người Ê đê với lối sống cộng đồng, tín ngưỡng đa thần, lối sử dụng lời nói
vần trong sinh hoạt cộng đồng” [27, tr. 232].
Có thể nói, đây là một trong số ít những công trình nghiên cứu về ngƣời Êđê
khá chi tiết, tinh tế, xác đáng. Tài liệu này đã giúp luận văn có cái nhìn toàn diện
hơn về gƣơng mặt văn hóa Êđê, để có những định hƣớng nghiên cứu tiếp theo.
2.2. Những công trình nghiên cứu về hoạt động hoằng pháp của Phật giáo

hướng đến đồng bào dân tộc thiểu số
So với những công trình nghiên cứu về ngƣời Êđê thì những công trình nghiên
cứu, bài viết về hoạt động hoằng pháp của Phật giáo hƣớng đến đồng bào dân tộc
thiểu số càng có số lƣợng khiêm tốn hơn. Trong kỷ yếu hội thảo hoằng pháp toàn
quốc năm 2011, tổ chức tại Bình Dƣơng có một số bài tham luận về hoạt động
hoằng pháp hƣớng đến dân tộc thiểu số.
Trƣớc hết phải kể đến tham luận “Hoằng pháp và đồng bào dân tộc”của Đại
đức Thiện Minh Ủy viên Hội đồng trị sự, Ủy viên ban Hoằng pháp Trung ƣơng,
trong đó tác giả đề cập đến những yêu cầu đối với ngƣời hoằng pháp. Đó là những

8


Luận vận đậy đu ở file:Luận vận Full











×