Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 4,5 viết văn văn miêu tả đạt hiệu quả cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.69 KB, 24 trang )

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, Tiếng việt có vai trò cực kỳ quan trọng trong
đời sống cộng đồng và đời sống mỗi con người Việt Nam. Đặc biệt đối với
trẻ em, Tiếng việt càng có vai trò quan trọng. Ngay từ lúc mới lọt lòng, trẻ
được giao tiếp hằng ngày, hằng giờ với Tiếng việt và khi cất tiếng nói đầu
tiên, trẻ cũng nói lên tiếng nói của người Việt. Do đó, trẻ em cần học Tiếng
việt một cách khoa học và cẩn thận để có thể sử dụng suốt năm tháng học tập
ở nhà trường cũng như trong suốt cuộc đời.
Tiếng Việt là một môn học quan trọng của trường tiểu học. Trong
đó phân môn tập làm văn chiếm vị trí quan trọng không nhỏ. Bởi vì dạy tập
làm văn là dạy cho các em hình thành kỹ năng nói, viết, được xây dựng trên
những thành tựu của nhiều môn học khác như tập đọc, từ ngữ, ngữ pháp, kể
chuyện … tập làm văn còn góp phần bổ sung kiến thức đòi hỏi huy động
kiến thức nhiều mặt từ hiểu biết cuộc sống, rèn luyện tư duy và hình thành
nhân cách học sinh.
Chương trình tập làm văn tiểu học bao gồm các thể loại như miêu
tả, tường thuật, kể chuyện, viết thư, đơn… trong đó kiểu bài miêu tả được
học và chiếm thời gian nhiều nhất.
Tuy nhiên để giúp học sinh học tốt văn miêu tả điều quan trọng là
làm thế nào giúp cho học sinh quan sát để tìm ý cho bài văn, biết lựa chọn
các từ ngữ miêu tả cho sinh động, hấp dẫn. Không phải đưa ra các lời nhận
xét chung mà phải tả các sự vật, hiện tượng bằng từ ngữ sinh động, gợi cảm.
Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy phần đông học sinh lớp tôi làm văn
miêu tả gặp những khó khăn về tri thức, hiểu biết, về đối tượng miêu tả, các
em sẽ không biết miêu tả nếu như chưa được quan sát; vốn hiểu biết từ ngữ
chưa sâu, thấy đâu tả đó, chưa biết bôc lộ cảm xúc trong bài văn miêu tả của

1


mình. Chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong văn miêu tả để


bài văn thêm phần hấp dẫn.
Chính vì những lẽ đó, trong năm học 2010 – 2011, 2011 - 2012 tôi
đã nghiên cứu và thực hiện “Một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 4,5
viết văn văn miêu tả đạt hiệu quả cao”. Năm học 2012 – 2013 này, tôi tiếp
tục áp dụng đồng thời có bổ sung thêm một vài biện pháp đối với lớp 4,5 do
tôi phụ trách hiện nay. Đề tài này còn áp dụng được cho tất cả học sinh lớp
4,5 ở các trường thuộc thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

2


PHẦN II.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I.Cơ sở lý luận:
1. Cơ sở ngôn ngữ học:
Ví trí của phân môn Tập làm văn: Dể thấy vị trí làm rõ các khái niệm về “
Tập làm văn” “ và” dạy học học Tập làm văn”.
“Văn” trong Tập làm văn cần hiểu là những lời nói chúng ta hoặc viết ra
khi giao tiếp Bởi “ văn “ trong thuật ngữ” Tập làm văn” hiểu là văn bản
hay nói chính xác hơn là “ngôn bản “ nên theo quan điểm tích hợp,
chương trình tập làm văn được một số tác giả quan niệp toàn bộ hoạt
động giao tiếp ngôn ngữ trên cả hai bình diện : sản sinh( nói,viết) và tiếp
nhận (nghe ,nói) ngôn bản.Theo cách hiểu này, chương trình tập làm văn
rèn cho các học sinh cả 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.Trong các chương
trình dạy học tiếng mẹ đẻ.kỹ năng nghe không được dạy một cách độc lập
như các chương trình ngoại ngữ còn kỹ năng đọc đã có 1 phân môn độc
lập Tập đọc có nhiệm vụ hình thành và phát triển. Mặc dù theo quan niệm
thích hợp, cả 4 kỹ năng nghe, nói, đọc viết không được tách rời nhau

nhưng khi xác định nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn, chúng ta chỉ tập
trung chú ý đến chức năng hình thành năng lưc sinh sản ngôn bản ở học
sinh. Vì vậy tập làm văn chính là tập sản sinh, tạo lập ngôn bản. Dạy học
tập làm văn là dạy cho học sinh tạo lập, sản sinh ngôn bản.
Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn:
Sản phẩm của Tập làm văn là các ngôn bản ở dạng nói và dạng
viết , theo các dạng lời nói, kiểu bài văn do trương trình quy định. Nói
cách khác, mục đính của Tập làm văn là tạo lập được ngôn bản. Vì vậy
nhiệm vụ cơ bản của dạy học Tập làm văn là giúp cho hoc sinh tạo ra
được các ngôn bản nói và viết theo các phong cách khác nhau do trương

3


trình qui định.Nhiệm của dạy học Tập làm văn là hình thành, phát triển
năng lực và lập ngôn bản được phân tích thành các kỹ năng bộ phận
như :Xác định mục đính nói:
Ở tiểu học, phân môn Tập làm văn có nhiệm vụ rèn kỹ năng nói
theo các nghi thức lời nói, viết các ngôn bản thông thường, viết 1 số các
văn bản nghệ thuật như kể chuyện miêu tả.
Ngoài các kỹ năng để viết văn bản, mỗi loại văn bản, mỗi loại
văn bản cụ thể đòi hỏi những kĩ năng đặc thù. Ví dụ: để viết văn bản miêu
tả cẩn có kỹ năng quan sát kỹ năng diễn đạt 1 cách có hình ảnh, để viết
các văn bản kể chuyện cần có kỹ năng xây dựng cốt truyện và nhân vật,
kỹ năng lựa chọn các tình tiết/ Phân môn Tập làm văn có nhiệm vụ rèn
luyện những kỹ năng này.
Ngoài nhiệm vụ cơ bản là rèn năng lực tạo lập ngôn bản, phân
môn Tập làm văn đồng thời góp phần rèn luyện tư duy hình tượng, từ óc
quan sát đến trí tưởng tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã quan sát
được đến khả năng tư duy lô gíc của học sinh cũng được phát truyển

trong quá trình phân tích đề, lập dàn ý, viết đoạn…. Quá trình sản sinh
văn bản cũng giúp cho học sinh có kỹ năng phân tích, tổng hợp, phân
loại, lựa chọn.
Để giao tiếp. phân môn Tập làm văn khi dạy các nghi thức cũng
đồng thời dạy cách cư xử đối với mọi người như sự lễ phép, lịch sự trong
nói năng. Để viết văn cần có những hiểu biết và tình cảm với đối tượng
được viết. Phân môn tập làm văn đã tạo cho học sinh có sự hiểu biết và
tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên , với con người và vạn vật xunh
quanh: từ mội cơn mưa, một bưởi sáng đẹp trời, một em bé bị ngã, một
phụ nữ đang gặp khó khăn đến một chú gà trống, 1 đồ vật đã thường gắn

4


bó….. Từ đây , tâm hồn và nhân cách của con em sẽ được hình thành và
phát triển.
2.Cơ sở tâm lý giáo dục học:
Phân môn Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp .Nó
dựa trên kết quả nguyên cứu của nhiều khoa học khác nhau như : Tâm lý
học, Tâm lý học, ngôn ngữ học, Lý luận văn học….. Sau đây chúng ta đi
vào phân tích một số cơ sở khoa học chi phối một cách trực tiếp đến dạy
học tập làm văn.
2.1 Hoạt động giao tiếp và ứng dụng vào dạy học Tập làm văn.
2.2. Dạy Tập làm văn là dạy một hoạt động: Thành tựu to lớn của tâm lý
học Xô Viết là xác định bản chất của tâm lý và hoạt động và chỉ ra năng
lực của con người chỉ được hình thành và phát triển trong hoạt động.Nói
năng là một hoạt động lời. Hoạt động nói năng còn có các tên gọi khác là
hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, hoạt động ngôn ngữ( được gọi tắt là
hoạt động giao tiếp) Cũng như là hoạt động tâm lý khác, hoạt động lời nói
chỉ nảy sinh khi có động cơ nói năng bởi vì: “ chúng ta nói không phải để

nói về một cái gì đó, tác động đến một người nào đó”. Chính vì vậy,công
việc đầu tiên của việc dạy học tập làm văn- dạy sản sinh lời nói là tạo ra
được động cơ, nhu cầu nói năng, kích thích học sinh tham gia vào cuộc
giao tiếp( nói, viết).
Nghiên cứu hoạt động lời nói, người ta nhận thấy rằng cái kích
thích hành vi nói năng thường là một cái gì đó nằm ngoài ngôn ngữ.
Chính vì vậy. xét đến tận cùng, dạy Tập làm văn không phải bắt đầu từ
ngôn ngữ , từ sự tổ chức hoạt động ngôn ngữ mà từ những hoạt động
sống khác ở học sinh, nói cách khác nhưỡng kính thích nói năng không

5


thể tách rời việc hình thành những kỹ năng sống khác, cần phải tổ chức
cho học sinh trồng cây, quét dọn sân trường vào các hoạt động khác sẽ tạo
ra động cơ và nội dung của nói năng .Để dạy Tập làm văn trước tiên phải
trau dồi vốn sống của học sinh, phải dạy cho các em biết suy nghĩ tình
cảm đó bằng ngôn ngữ nói hoặc viết .
Cũng chính vì vậy các đề bài Tập làm văn, các bài tập trong giờ
Tập làm văn chỉ được xem là tốt khi chúng yêu cầu viết về những gì gần
gũi, thân thiết với học sinh, tạo được động cơ nói năng, kích thích các em
muốn nói, viết về nội dung mà đề tài đã yêu cầu.
II. Thực trạng viết văn miêu tả của học sinh lớp 4,5 ở trường Tiểu
học Minh Nông:
Tôi đã theo dõi kết quả khảo sát như sau:
Năm học
2008–2009
2009–2010

Giỏi

Khá
SL TL%
SL TL%
25
3
12%
10 40%
26
4
15,4% 8
30,8%
Từ bảng số liệu trên cho thấy:
Sĩ số

Trung bình
SL TL%
10 40%
10 38,4%

Yếu
SL TL%
2
8%
4
15,4%

- Năm 2009 – 2010: Học sinh làm bài văn miêu tả đạt khá giỏi
52%, còn học sinh trung bình yếu 48%.
- Năm 2010 – 2011: Học sinh làm văn miêu tả đạt khá giỏi
46,2%, học sinh trung bình yếu 53,8%.

Như vậy, qua khảo sát kết quả cả hai năm cho thấy học sinh làm
văn miêu tả đạt khá giỏi chỉ trên 40%
Qua tìm hiểu thực tế ở lớp, gia đình và đồng nghiệp. Tôi nhận thấy
nguyên nhân của tình hình nêu trên là do:
* Nguyên nhân chủ quan:
- Giáo viên còn ngại khi phải dạy phân môn tập làm văn nên khi
dạy còn nhiều lúng túng về phương pháp và nội dung. Điều này được thể

6


hiện rõ qua những tiết thao giảng, dự giờ chéo phân môn tập làm văn ở
trường.
- Phương pháp dạy của giáo viên còn rập khuôn thiếu sự dẫn dắt
gợi mở cho học sinh tìm ra những từ, ý hay khi miêu tả.
- Giáo viên ít quan tâm đến việc hướng dẫn các em phải tả như
thế nào để bôc lộ được nét riêng biệt của đối tượng mình đang tả để thoát
khỏi việc tả một cách khuôn sáo.
- Giáo viên thường hay thiếu tranh ảnh, vật thật để hổ trợ cho các
em miêu tả.
- Việc chấm và sửa bài còn chung chung, chưa sửa ý hay nhằm
phát huy cho học sinh khi học tập làm văn.
- Thiếu sự kết hợp, liên hệ giữa tiết dạy phân môn tập làm văn
với các môn học khác.
* Nguyên nhân khách quan:
- Khả năng quan sát miêu tả còn sơ sài, học sinh chưa biết sử
dụng các giác quan để quan sát, quan sát chưa theo một trình tự, thấy đâu tả
đó.
- Học sinh dùng từ đặt câu chưa hay, chưa biết lựa chọn từ ngữ
thích hợp.

- Vốn từ ngữ còn quá nghèo nàn, dùng từ địa phương, diễn đạt
chưa hay như nói chuyện bình thường.
- Dùng văn mẫu một cách chưa sáng tạo (do sách tham khảo bán
tràn lan trên thị trường) các em rập khuôn theo mà chưa biết sáng tạo chọn
lọc thành cái riêng của mình.
- Một số học sinh trung bình, yếu viết câu chưa thành thạo nên
diễn đạt chưa mạch lạc các ý trong bài văn còn nhiều hạn chế.

7


Từ thực tế nêu trên, để giúp học sinh học thể loại văn miêu tả đạt
hiệu quả cao. Tôi đã tiến hành thực hiện các biện pháp sau:
1/ Hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý.
2/ Tạo điều kiện cho sinh tích luỹ vốn từ ngữ và lựa chọn vốn từ
ngữ miêu tả qua các bài tập đọc, từ ngữ …
3/ Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong miêu tả.
4/ Bôc lộ cảm xúc trong bài văn miêu tả.
III. Các biện pháp tiến hành giải quyết vấn đề:
1/ Quan sát tìm ý:
a/ Sử dụng các giác quan để quan sát:
Dạy học sinh quan sát chính là dạy sử dụng các giác quan để
tìm ra các đặc điểm của sự vật. Thường học sinh chỉ dùng mắt để quan sát,
tôi hướng dẫn các em tập sử dụng thêm các giác quan khác để quan sát.
Ví dụ: Dạy “quan sát một cây hoa” – ngoài mắt – ta còn sử dụng cả
mũi để phát hiện ra mùi thơm của hoa. Quan sát cái cặp “tôi yêu cầu học sinh
dùng tay sờ vào cặp để phát hiện ra độ sần sùi hay nhẵn bóng của da cặp, bật
khoá chiếc cặp để nghe tiếng kêu của chiếc khoá (bằng tai).
b/ Hướng dẫn học sinh thu nhận các nhận xét do quan sát mang
lại:

Khi trình bày kết quả quan sát, tôi yêu cầu học sinh trả lời các câu
hỏi bằng nhiều chi tiết cụ thể và sử dụng ngôn ngữ chính xác gợi hình ảnh.
Ví dụ: Tả con đường từ nhà đến trường.
Tôi hỏi: Hai bên đường có gì? – Học sinh: Hai bên đường có cây
cối. Đây là sự quan sát hời hợt, sơ sài.
Tôi lại hỏi: Em hãy quan sát cảnh vật hai bên đường? Câu trả lời có
chi tiết hơn nhưng chưa hay, chua cụ thể. Hai bên đường có nhiều cây cối,
mấy chú chim kêu ríu rít trên cành.

8


Tôi gợi ý học sinh trả lời cụ thể và chi tiết hơn: “Hai bên đường
cây cối xanh tươi, chúng nghiêng mình như cùng em tiếp bước. Mấy chú
chim đậu trên cành hót ríu rít nghe vui tai làm sao!”
Đồng thời,tôi cũng không quên rèn sự tinh tế khi quan sát. Đó là
nhận ra đặc điểm ít người nhìn thấy. Tôi minh họa bằng những đoạn văn hay
vào tiết lập dàn ý hoặc trả bài viết.
Ví dụ: Nằm trong nhà , nghe tiếng lá rơi ngoài thềm, Trần Đăng
Khoa mới mười tuổi đã phát hiện “Tiếng rơi rất khẽ như là rơi êm”.
Nhìn bà nội – Em Thanh Huyền nhận ra “Năm qua đi, tháng qua đi, tôi
càng cao thẳng, bà tôi càng thấp lại”. Còn em Phương Anh thì nhận xét:
“Hai má bà lại hóp, thái dương hơi nhô, tay chân có chổ bắt đầu xương xẩu,
nổi gân xanh…” (trính “những bài văn chọn lọc”)
c/ Quan sát trong văn miêu tả tôi luôn hướng cho học sinh tìm ra
những đặc điểm riêng biệt của đồ vật, cây cối, loài vật … và bỏ qua đặc
điểm chung:
Ví dụ như nhận xét con gà trống ở nhà em phải cố tìm ra mào của
nó, lông của nó, thân hình nó … có gì khác với con gà ở hàng xóm?
Dạy “Quan sát cây bút chì” không phải cho các em thấy được màu

sắc, hình dáng của nó mà còn nhận ra những dòng chữ in trên vỏ và các đặc
điểm khác như có bị dính mực không? Có bị trầy không? Bị sứt không? …
những đặc điểm ấy chỉ ruêng cây bút chì của em mới có.
Quan sát trong văn miêu tả là làm cho học sinh cần phải nhận ra
đặc điểm riêng biệt. Và đây là một điều hết sức quan trọng và tôi luôn luôn
rèn luyện cho học sinh và giáo dục cho học sinh. Bởi đây là một điều bức
xúc, học sinh có thói quen làm văn rập khuôn theo mẫu. Nếu như “tả con gà,
tả cái cặp” … thì tất cả mười chín học sinh lớp tôi đều có bài làm gần giống
nhau.

9


Vì thế, khi dạy văn miêu tả, tôi luôn nhắc nhở gợi ý học sinh tìm ra
những nét riêng biệt, những tình cảm riêng biệt đối với đối tượng được tả.
Có thể những đặc điểm riêng đó đối với người khác là bình thường nhưng
đối với riêng em là đặc biệt vì nó gắn bó với em bằng một kỷ niệm, một sự
kiện hoặt một niềm vui, nổi buồn… nào đó.
d/ Phân chia đối tượng để quan sát:
Để quan sát một cây bàng, một cây đang ra hoa hay một con gà,
một bức tranh … thì tôi hướng dẫn cho học sinh cần phải phân chia các đối
tượng đó thành từng bộ phận rồi lần lượt quan sát các đối tượng đó. Thông
thường, có các sự phân chia đối với tả cảnh như phía trên, phía dưới,nửa phải
nửa trái, phần trung tâm, bên trong, bên ngoài…. Tôi thường lấy những đoạn
văn miêu tả trong các bài tập đọc để minh hoạ cho học sinh tham khảo .
Ví dụ: quan sát một thị trấn ven biển. Tác giả viết “Bên trong là
vách đá dựng đứng, cao sừng sững. Bên ngoài là biển rộng mênh mông tạo
thành một góc vuông vức …”(Thị trấn Cát Bà – Tập đọc lớp 4 tập 1)
Còn Nguyễn Thái Vận thì tả rừng cọ quê mình: “Thân cọ vút thẳng
trờihai, ba chục mét cao, gió bảo không thể quật ngã. Búp cọ vuốt dài như

thanh kiếm sắc vung lên. Cây non vừa trồi lá đã xoà sát mặt đất. Lá cọ tròn
xoè ra nhiều phiến nhọn dài …”(Rừng cọ quê tôi-Tập đọc lớp 4 tập 1).
e/ Lựa chọn trình tự quan sát :
Tôi hướng dẫn học sinh lựa chọn trình tự quan sát thích hợp. Tôi
đưa ra cho học sinh lựa chọn một số trình tự quan sát chung nhất.
- Trình tự không gian: Là quan sát từng bộ phận đến toàn bộ,
quan sát từ trái sang phải, từ trên xuống dưới… hoặc ngược lại.
Ví dụ: Ngồi trên máy bay nhìn xuống Trần Lê Văn đã quan sát toàn
cảnh Hà Nội: “Nhỏ xinh như mô hình triển lãm” rồi lại quan sát: “Những ô
ruộng, những gò đống, bãi bờ…” rồi đến: “Núi Thầy, Núi Ba Vì, Sông Đà,

10


dãy Núi Hoà Bình…” (Đi máy bay Hà Nội – Điện Biên – Tập đọc lớp 4 tập
1).
Đề bài: “Tả cái cặp”. Tôi luôn hướng dẫn học sinh quan sát đặc
điểm chung của cái cặp rồi quan sát các bộ phận từ ngoài vào trong, cái cặp
có hình gì? Màu gì? Có mấy ngăn? Mỗi ngăn dùng để làm gì?…
- Trình tự thời gian: Quan sát cảnh vật, cây cối…. Theo mùa
trong năm. Quan sát sinh hoạt con gà, con lợn…. theo thời gian trong ngày:
sáng, trưa, chiều.
Ví dụ 1: Quan sát mặt nước biển trong ngày. Nhà văn Thuỵ
Chương viết: “Bình minh, mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống
mặt biển, nước biển có màu hồng nhạt. Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều
tà thị biển đổi sang màu xanh lục” (Cửa Tùng – Tập đọc lớp 4 tập 1).
Ví dụ 2: “Tả cây bàng” Trần Nguyên Đào viết: “Trước ngõ nhà
Long có cây bàng, cây bàng cao, ngọn chấm mái nhà, táng xoà như chiếc ô.
Mùa hè, Long thích ngồi học dưới bóng rợp của chiếc ô xanh ấy. Mùa thu,
thỉnh thoảng một cơn gió lướt qua làm vài chiếc lá bàng rụng xuống. Long

thường nhặt những chiếc lá vàng xuộm làm quạt phe phẩy hay kết thành
chiếc mũ đội đầu. Sang mùa đông, trời càng lạnh, lá bàng càng rụng nhiều
cho người đem về đốt sưởi…”.
* Nhưng dù quan sát ở trình tự nào đi nữa tôi luôn nhắc cho học
sinh tập trung vào từng bộ phận chủ yếu và trọng tâm.
f/ Sử dụng tranh, ảnh trong văn miêu tả:
(Biện pháp này năm học 2009 – 2010 tôi bắt đầu thực hiện)
Đối với thể loại văn miêu tả, đồ dùng dạy học chủ yếu cho học sinh
quan sát, nghiên cứu trong giờ học là mẫu vật thật như cái cặp, quyển sách,
cây hoa, con lợn…. Tuy nhiên, nhiều đối tượng cần miêu tả không thể cho
học sinh quan sát trực tiếp tại lớp, mà cho học sinh phải tự quan sát tại gia

11


đình, ngoài xã hội (con lợn, cây chuối đang có buồng, con đường làng, vườn
rau…). Song, đối tượng qua sát ngoài xã hội không có hình ảnh cho học sinh
quan sát tại lớp thì giáo viên cũng gặp phải những khó khăn nhất định.
Vì vậy, khi hướng dẫn tại lớp, tôi thường căn cứ vào những đặc
điểm chung của đối tượng mà gợi mở, dẫn dắt học sinh. Nhưng để gợi mở
dẫn dắt có hiệu quả thì phải sử dụng tranh, ảnh giúp học sinh nhớ lại những
điều quan sát từ trướng (gia đình, xã hội). Đó chính là cơ sở để cho các em
suy nghĩ, phân tích, tổng hợp lại… các đặc điểm của sự vật và rèn luyện làm
bài tập làm văn.
Việc sử dụng tranh, ảnh cho giờ tập làm văn cũng hết sức công
phu. Tranh, ảnh phải đảm bảo các vật thể mà học sinh đã quan sát tại gia
đình, ngoài xã hội. Có như vậy, việc sử dụng tranh, ảnh mới đem lại hiệu
quả.
Ví dụ 1: Để minh hoạ cho bài văn “tả con mèo” tôi cần phải sưu
tầm được hình ảnh nhiều loại mèo khác nhau để giới thiệu cho học sinh: mèo

mướp, mèo tam thể, mèo đen, mèo vàng… và những hình ảnh hoạt động
khác nhau như: mèo đang rình chuột, mèo đang vồ mồi, mèo mẹ đang đùa
với mèo con…
Ví dụ 2: Dạy bài: “Tả con đường quen thuộc từ nhà đến trường” thì
tôi cũng cần có nhiều hình ảnh về: con đường làng quanh co khúc khuyủ,
con đường có nhiều chiếc cầu nhỏ, đường đá đỏ hai bên toàn là tràm, chuối
…. Đặc biệt, chú trọng nhiều tranh ảnh về con đường gần gũi với thực tế địa
phương.
Có như vậy, từ những điều mà tôi dẫn dắt học sinh quan sát ở lớp,
đối chiếu với điều mà các em quan sát tại nhà, ngoài xã hội, các em cân nhắc
lựa chọn tình tiết diễn đạt thành bài văn.
2/ Tích luỹ vốn từ ngữ và lựa chọn vốn từ ngữ:

12


Giúp học sinh tích luỹ vốn từ ngữ và lựa chọn vốn từ ngữ có ý
nghĩa quan trọng đến với việc làm vân miêu tả. Do đó, đây là vốn đề tôi quan
tâm nhất đối với học sinh.
a/ Tạo điều kiện để học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả:
- Biện pháp đầu tiên là giúp học sinh tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả
qua các bài tập đọc là các bài văn hay của các nhà văn như: “Chim rừng Tây
Nguyên – Thiên Lương; rừng Phương Nam – Đoàn Giỏi; Những cánh bướm
bên bờ sông – Vũ Tú Nam…”. Số lượng từ ngữ trong bài rất phong phú,
cách sử dụng chúng rất sáng tạo. Dạy các bài tập đọc đó, tôi thường chỉ ra
các từ ngữ miêu tả, chọn một, hai trường hợp đặc sắc nhất để phân tích cái
hay, sự sáng tạo của nhà văn khi dùng chúng. Có như vậy mới giúp học sinh
nhớ được một từ ngữ, một hình ảnh, thậm chí cả câu văn hay sau mỗi bài tập
đọc.
Ví dụ: Dạy bài: “Những chú gà xóm tôi” tôi đi sâu phân tích cách

dùng từ ngữ của tác giả để tả về con gà anh Bốn Linh, gà ông bảy Hoá, gà bà
Kiên. Mỗi con đều có đặc điểm riêng.
Dạy bài: “Những cánh bướm bên bờ sông” thì tôi đi sâu phân tích
cách dùng từ ngữ để tả hình dáng, màu sắc khác nhau của các loài bướm.
Mỗi con có đặc điểm riêng: con xanh biếc, con vàng sẫm, bướm quạ to bằng
hai bàn tay người lớn, bướm trắng bay theo đàn líu ríu như hoa nắng…
Cũng còn có rất nhiều bài tập đọc cho ta thấy cách dùng từ ngữ
miêu tả rất hay và thật đa dạng. Tôi luôn tận dụng vốn quý này để nhân vốn
từ ngữ của từng học sinh bằng cách cho học sinh ghi vào sổ tay những từ
ngữ hoặc những câu văn hay. Đồng thời tôi thường xuyên theo dõi và xem
quyển sổ tay của học sinh trước mỗi giờ tập làm văn. Có như vậy mới giúp
học sinh tích dần vốn từ ngữ của mình.

13


- Dạy phân môn từ ngữ cũng là một dịp để các em không chỉ hiểu
rõ từ mà còn mở rộng chúng khi dùng những từ gần nghĩa hoặc trái nghĩa.
Ví dụ: Khi miêu tả người tôi thường nêu lên cho học sinh thấy bên
cạnh từ “đẹp” còn có hàng lọat từ ngữ khác: xinh xắn, dễ coi, dễ nhìn…. Bên
cạnh từ “ẳm” còn có nhiều từ: bế, bồng, ôm, nâng, địu, cõng…
Việc học và mở rộng vốn từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình
cũng có ý nghĩa tích cực đối với việc tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả của học
sinh (róc rách, rì rầm, thánh thót, ngân nga…; ngoằn ngoèo, chót vót, thăm
thẳm, mênh mông, ngọt ngào…). Những từ ngữ này giúp rất nhiều cho học
sinh khi tả các con vật, cây cối, tả người, tả cảnh……
- Đọc tác phẩm văn học truyện ngắn, thơ… cũng là dịp để học
sinh tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả. Với biện pháp này, tôi thường xuyên nhắc
nhở học sinh đọc ở nhà, xem các bài đọc thêm, tham khảo những bài văn
hay.

b/ Hướng dẫn học sinh lựa chọn vốn từ ngữ khi miêu tả :
Có vốn từ ngữ phải biết dùng đúng chỗ, đúng lúc. Muốn vậy,
phải coi trong việc lựa chọn từ ngữ khi diễn đạt cũng như khi lam bài văn
mịêu tả. Việc xác định một từ ngữ hay hình ảnh phải trải qua thời gian tìm
tòi,chọn lọc thì hình ảnh, từ ngữ đó mới thích hợp,mới gợi hình gợi cảm.
Như ví dụ nêu trên,để tả một người “đẹp” nên dùng từ ngữ nào
trong hàng loạt các từ: dễ mến, dễ nhìn, xinh xắn, dễ coi,…?Sau mỗi tiết tập
làm văn tôi tranh thủ lấy ví dụ những đoạn văn hay phân tích cho học sinh
thấy cái hay khi biết lựa chọn từ.
Ví dụ : Tả hình dáng cụ già.Bạn Phương Anh (Hà Nội) biết lựa
chọn từ ngũ để tả: “Bà tôi ngoài bảy mươi tuổi.Khi nghe tiếng gọi thân thuộc
của tôi,bà nhìn tôi,đôi mắt nheo nheo vì chói nắng,cặp lông mày rậm lốm

14


đốm bạc của bà nhíu lại.Vừa nói bà vừa cười để lộ hàm răng đen đã khấp
khểnh. Dáng người nhỏ nhắn của bà đang lom khom tưới rau,bắt sâu.”
Tả bác nông dân, bạn Nguyên Tuấn(Long An) viết :”…Bác trạc
năm mươi tuổi, khác với người thành thị, bác có thân hình cường tráng , vạm
vỡ, rắn chắc làm sao! Gương mặt trông hơi khắc khổ, da sạm nắng, tay chân
chắc nịch bị phủ một lớp bùn đất vì bác đang cày…”
Qua hai ví vụ trên và qua các bài làm văn thực tế của học sinh, tôi
thấy việc lựa chọn từ ngữ miêu tả thường là so sánh các từ gần nghĩa hoặc
trái nghĩa để chọn lọc ra từ ngữ hay và thích hợp vì đối với bà già thì phải
dùng từ đôi mắt nheo nheo, đôi lông mày rậm lôm đôm bạc, lom khom tưới
rau… để thấy rõ hình dáng của cụ già; tả bác nông dân phải dùng từ: cường
tráng, vạm vỡ, rắn chắc, khắc khổ, sạm nắng… để thể hiện rõ hình dáng của
một người nông dân tay lấm, chân bùn…
Cách đặt câu hỏi của giáo viên trong văn miêu tả (miệng) không

chỉ có tác dụng định hướng quan sát mà còn ảnh hưởng đến việc tìm tòi, hình
ảnh khi miêu tả. Do đó, khi dạy, tôi không đặt câu hỏi về kiến thức khoa học
mà đặt câu hỏi có tác dụng tìm ra những chi tiết miêu tả.
Ví dụ: Tả con gà trống nhà em. Giả sử tôi hỏi:
Câu hỏi 1: Con gà có những bộ phận nào?
Câu hỏi 2: Nhìn con gà, em thấy nó có đặc điểm gì về màu lông,
thân hình… dáng đi, dáng đứng nó như thế nào?
Ơ câu hỏi 1 chỉ nhằm hỏi kiến thức khoa học nên dành riêng cho
môn tự nhiên xã hội. Câu hỏi này không có tác dụng gợi cho học sinh tìm
các từ ngữ miêu tả.
Ơ câu hỏi 2 học sinh biết tìm ra từ ngữ miêu tả. Đồng thời gợi cho
các em biết liên tưởng đến con gà anh Bốn Linh, gà ông Bảy Hoá, gà bà
Kiên dựa vaò bài tập đọc đã học (Những chú gà xóm tôi - Tập đọc - lớp 4).

15


3/ Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong miêu tả:
Để viết một đoạn văn hay, một bài văn hấp dẫn đòi hỏi trong từng
đoạn văn phải có sử dụng một số hình thức nghệ thuật như so sánh, nhân
hoá,… thì bài văn mới sinh động. Nếu như một bài văn tả loài vật chỉ dừng
lại ở việc miêu tả đầu, mình, đuôi, chân… thì giống như liệt kê các bộ phận
của một con vật thường gặp ở môn khoa học, không giống như một bài văn
miêu tả. Vì thế, hướng dẫn các em biết sử dụng các hình thức nghệ thuật
trong văn miêu tả là hết sức cần thiết.
a/ Sử dụng biện pháp so sánh trong văn miêu tả:
Dạy tả “Quang cảnh trường em trước buổi học”, có em nêu: “Vài
vệt nắng sớm chiếu xuống cành lá”, “Gió thổi nhẹ”. Nội dung như thế đã đạt,
câu văn gọn gợi ý. Nhưng để sinh động hơn, tôi gợi ý – học sinh có thể sửa
lại: “Vài vệt nắng sớm như ve vuốt những lá cành xanh tươi còn lấm tấm

những giọt sương đêm”. “Gió thổi nhẹ như lay động lá cành” .
Bên cạnh đó, tôi thường lấy những đoạn văn miêu tả hay trong các
bài tập đọc để học sinh tham khảo:
Ví dụ 1: Tả hình dáng người bà, tác giả viết: “giọng nói bà tôi đặc
biệt trầm bỗng nghe như tiếng chuông đồng. Nó khắc sâu vào trí nhớ tôi dể
dàng như những đoá hoa và cũng rực rỡ đầy nhựa sống” (Bà tôi – Tiếng Việt
– lớp 5 tập 1).
Ví dụ 2: Tô Hoài miêu tả chim chích bông như sau: “Hai chân xinh
xinh bằng hai chiếc tăm. Cặp mỏ chích bông tí tẹo bằng hai mảnh vỏ trấu
chắp lại” [Chim chích bông – Tập đọc lớp 3, tập 2 (cũ)].
b/ Sử dụng biện pháp nhân hoá trong văn miêu tả:
* Dùng biện pháp nhân hoá để tả hình dáng bên ngoài:

16


Ví dụ: “Cộng cộc đứng trong tổ vươn cánh như tượng những người
vũ nữ bằng đồng đang vươn tay múa. Chim gà đảy, đầu hói như những ông
thầy tu mặc áo xám, trầm tư, rụt cổ nhìn xuống chân”. (Sân chim – Tiếng
việt lớp 5 – Tập 1).
* Nhân hoá để tả tâm trạng: “Những giọt sương rơi như những giọt
lệ ai đó đang tiễn người đi xa”. “Dòng sông chảy lặng lờ như đang nhớ về
một con đò năm xưa”.
(Những bài văn hay lớp 5).
4/ Bộc lô cảm xúc trong văn miêu tả:
Bài văn hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết, không
chỉ nêu cảm xúc ở phần kết luận mà cần thể hiện trong từng câu, từng đoạn.
Điều này khi làm văn miệng, tôi luôn gợi ý để học sinh nêu cảm
xúc của mình.
Ví dụ:

- Sống trong ngôi nhà ấm cúng, đầy tình thương yêu của cha mẹ,
em nghỉ đến ai? (…Những mảnh đời bất hạnh của trẻ em mồ côi, không nơi
nương tựa, phải sống lang thang nơi mái hiên, gầm cầu…).
- Đi trên con đường làng quen thuộc, em cảm thấy thế nào? (…
hình ảnh, âm thanh của nó đã trở nên gần gủi, thân thiết với em…).
- Đứng dưới cây đa rợp bóng, em cảm thấy thế nào? (…cây đa là
niềm tự hào của làng quê em, ai đi đâu xa cũng nhớ về côi đa quê mình…).
Với biện pháp này tôi cũng không quên lấy những đoạn văn hay ở
các bài tập đọc để học sinh tham khảo.
Ví dụ 1: “Hằng năm, cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều,
lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường. Tôi quên
sao được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh

17


hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng”. (Nhớ lại buổi đầu đi học – Tập
đọc lớp 3 – tập 1).
Ví dụ 2: “Tôi đi giữa bãi dâu và có cảm giác như đang lội dưới
dòng sông cạn. Cát ở rãnh luống mềm lún. Những cành dâu, lá xôn xao đón
lấy ánh nắng chói chang, làm cho lớp cát dưới chân tôi mát rượi…” (Bãi dâu
– Tập đọc lớp 3 – tập 2 cũ).
Ví dụ 3: “Lần nào trở về với bà, Thanh cũng thấy thanh thản và
bình yêu như thế. Căn nhà, thửa vườn này như một nơi mát mẻ và hiền lành.
Ơ đấy, bà lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi để mến yêu Thanh.” (Về thăm bà–
Tập đọc lớp 4 tập 1).
Tương tự như vậy, khi dạy tập làm văn, tôi thường gợi ý, dẫn dắt
học sinh để giúp học sinh tìm ra những suy nghĩ, cảm xúc của mình trước
một sự việc, một đối tượng được tả để bài văn không còn khô khan mà tràn
đầy cảm xúc để hấp dẫn người đọc, người nghe.

Như vậy, với những biện pháp vừa nêu trên, tôi tin rằng học sinh có thêm
điều kiện để làm một bài văn miêu tả hay và phong phú. Đồng thời, đây
cũng là nền móng cho những mầm non văn học trỗi dậy và vươn lên xanh
tốt.

IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:

18


Qua ba năm liền thực hiện đề tài này, tôi thấy học sinh có chuyển
rất rõ về cách làm văn miêu tả. Thống kê kết quả ba năm như sau:
Năm 2009 – 2010:
Sỉ số

Giỏi

Khá

SL

TL

Đầu năm

25

2

%

8%

Cuối năm

25

5

20%

Trung bình

Yếu

SL

TL

SL

TL%

SL

TL%

8

%
32%


10

40%

5

20%

10

40%

8

32%

2

8%

Năm 2010 – 2011:
Sỉ số

Giỏi

Khá

SL TL%


SL

Trung bình

Yếu

TL%

SL

TL%

SL TL%

12

46,1%

3

11,4%

27%

1

3,8%

Đầu năm


26

4

15,4%

7

27%

Cuối năm

26

7

27%

11

42,2% 7

Năm 2011 – 2012:
Sỉ số
Đầu năm

24

Giỏi


Khá

Trung bình

Yếu

SL

TL%

SL

TL% SL

TL%

SL

TL%

5

20,9%

12

50%

25,1%


1

4%

Cuối năm

6

24
8
33,4% 12
50% 4
16,6% 0
Từ các bảng trên cho thấy, qua ba năm nghiên cứu và thực hiện, số
học sinh khá, giỏi tăng, số học sinh trung bình, yếu giảm. Cụ thể như sau:
Số học sinh khá giỏi tăng:
Năm 2010 – 2011 tăng từ 42.4% đến 69,2%
Năm 2012– 2013 tăng từ 70,9% đến 83,4%
- Số học sinh trung bình, yếu giảm đi nhiều.
Điều này chứng tỏ một số biện pháp thực hiện đã mang lại kết quả
khả quan. Điển hình như em Lê Hải Tú .Đầu năm em không biết miêu tả là
gì, bài văn của em lúc nào cũng đạt điểm rất thấp. Nhưng với việc áp dụng
các biện pháp trên, thi học kỳ một bài làm của em đã đạt kết quả trung bình.
PHẦN III : KẾT LUẬN

19


1. Kết luận:
Trong quá trình thực hiện và đưa vào thực tế trong phạm vi đề tài ở

tiết Tập làm văn miêu tả lớp 4,5.Bản thân tôi đã rút ra nhiều kinh nghiệm và
khẳng định đây là hình thức dạy học làm chuyển hoá quá trình học tập của
học sinh. Như vậy cần phải thực hiện một số giải pháp sau:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý: quan sát bằng
nhiều giác quan: mắt, mũi, tay, tai… qua đó học sinh phát hiện, khám phá
đầy đủ các đặc điểm của sự vật, làm cho chúng hiện ra đầy đủ, rõ ràng tránh
được những bài văn miêu tả chung chung mờ nhạt.
- Khi hướng dẫn học sinh quan sát cần gợi mở, dẫn dắt theo một
trình tự hợp lý, để học sinh tự mình quan sát, tự mình cảm nhận tính chất
muôn hình muôn vẻ của sự vật. Đây là điều kiện chủ yếu làm nền tảng giúp
cho bài viết trở nên chân thật, tự nhiên và đây cũng là cơ sở cho sự phát huy
trí tưởng tượng và năng lực sáng tạo của học sinh (sáng tạo trong cách nhìn,
cách nghĩ, cách diễn đạt nội dung…).
- Đặc biệt, giáo viên phải sử dụng tranh, ảnh trong văn miêu tả cụ
thể, từng vùng, từng miền khác nhau mà giáo viên lựa chọn tranh ảnh cho
phù hợp để cho các em quan sát tốt hơn.
- Tích luỹ và lựa chọn vốn từ ngữ khi miêu tả cũng là biện pháp
không kém phần quan trọng giúp cho học sinh nhớ lại một từ ngữ, một hình
ảnh, biết lựa chọn từ ngữ hay, thích hợp, phong phú vào bài văn để thêm
phần hấp dẫn.
- Bài văn miêu tả hay thì không thể thiếu cảm xúc của người viết,
có thể hiện được cảm xúc trong bài văn thì mới thu hút người đọc, người
nghe.
Song, để quá trình đó diễn ra tốt, đòi hỏi người giáo viên phải nắm
vững yêu cầu cơ bản và biết vận dụng linh hoạt sáng tạo trong từng tiết học

20


với từng đối tượng được tả. Bởi vậy, dạy tập làm văn giáo viên không chỉ

dựa vào sách giáo khoa mà còn cần đến những tư liệu tham khảo để mở rộng
hiểu biết về nội dung phương pháp và vốn từ ngữ trong từng văn cảnh để
cung cấp gợi ý cho học sinh. Có như vậy thì chất lượng giáo dục mới từng
bước nâng lên.
Đề tài trên nhằm giúp học sinh lớp 4,5 làm một bài văn miêu tả đạt
hiệu quả cao. Qua đó, các em còn có thể cảm thụ chất “văn” ở từng ý, từng
câu, từng đoạn trong bài văn thực tế của mình. Nó được áp dụng cho tất cá
các trường trong tỉnh Phú Thọ.
2.Những ý kiến đề xuất:
- Đối với giáo viên :
Cần giành nhiều thời gian nghiên cứu thiết kế bài dạy trước khi lên lớp .
Tham khảo thêm tài liệu
Tham gia các chuyên đề bàn về nội dung , phương pháp dạy học cho từng
phân môn Tiếng việt .
- Đối với nhà trường :
Nên khuyến khích ,động viên kịp thời những giáo viên , học sinh ,
Học sinh có thành tích cao trong dạy và học môn Tiếng việt .
-Cần tạo điều kiện về vật chất đồ dùng, thiết bị dạy học phụ vụ
môn học, có thêm các tài liệu tham khảo dành cho giáo viên.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa để rèn thêm kĩ
năng, vốn hiểu biết cho HS.
- Ban giám hiệu nhà trường cần tổ chức các chuyên đề để giáo
viên có điều kiện giao lưu, trao đổi về chuyên môn nghiệp vụ nhằm nâng cao
chất lượng dạy học.

21


Do còn nhiều hạn chế về năng lực cũng như một số điều kiện
khách quan khác nên đề tài không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất

mong nhận được những ý kiến đóng góp của các đồng chí, đồng nghiệp để
sáng kiến kinh nghiệm hoàn thiện hơn, có thể được áp dụng tốt hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Người Viết

Nguyễn Thị Như vân

TÀI LIỆU THAM KHẢO

22


1. Đặng Văn Khương – Trần Văn Sáu: Những bài văn mẫu lớp 5 – NXB
TP Hồ Chí Minh.
2. Tiến sĩ Bùi Văn Sơm – Hướng dẫn cán bộ quản lý trường học và giáo
viên viết sáng kiến kinh nghiệm.
3. Vũ Khắc Tuân: Bài tập luyện viết văn miêu tả ở tiểu học – tập 2.
4. Lê Phương Nga, Đặng Kim Nga, (2007) Phương pháp dạy học Tiếng
Việt ở tiểu học, NXB Giáo dục, NXB Đại học sư phạm
5. Sách giáo viên lớp 4, 5(2005), NXB Giáo dục
6. 150 bài văn hay lớp 5 – Nhiều tác giả.
7. Tiếng Việt lớp 5 – tập 1,2.
8. Tiếng việt lớp 4 – Tập 1, 2.
9. Tiếng Việt lớp 3 – Tập 1 ( mới ).
10. Tiếng Việt lớp 3 – tập 2 ( cũ

23


24




×