Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Nghiên cứu việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.76 KB, 78 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta đã tranh thủ thời
cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức để đạt được những thành tựu to lớn
và rất quan trọng. Đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng kinh
tế khá cao, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, an
ninh quốc phòng được giữ vững. Tuy nhiên, những thành tựu đó vẫn chưa tương xứng
với tiềm năng của đất nước. Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng,
năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, công tác quy hoạch, kế hoạch
và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn
trải. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm
chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu
kém chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong
một bộ phận xã hội xuống cấp. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài
nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách
đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực,
kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để
Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy
đủ, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp có đến 60,9 triệu người sống ở khu vực nông
thôn chiếm 69,4% dân số cả nước [1].
Với một nguồn lao động dồi dào khi mỗi năm nước ta có thêm gần 1 triệu người
bổ sung vào lực lượng lao động, đây là những nhân tố then chốt đóng vai trò quan
trọng cho mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Tuy
nhiên, phần lớn lao động vẫn làm việc bằng kinh nghiệm không qua đào tạo bài bản,
thiếu tổ chức, thiếu quy hoạch, việc tiếp cận và làm chủ khoa học, công nghệ tiên tiến
của người lao động còn nhiều hạn chế dẫn đến năng suất lao động và hiệu quả sản xuất
thấp, ảnh hưởng không nhỏ đến tính bền vững của nền kinh tế và sự phát triển của xã
hội. Niên giám thống kê năm 2012, tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo của cả
nước khoảng 30%, trong đó lao động qua đào tạo nghề chiếm 12,8%. Chính vì vậy,
nhiệm vụ đặt ra ngay lúc này là cần phải chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện
đại, nâng cao chất lượng và trình độ chuyên môn cho nguồn nhân lực hiện có. Nhận


thức vấn đề này, ngày 19 tháng 4 năm 2011 Chính phủ đã phê duyệt "Chiến lược phát


triển nguồn nhân lực đến năm 2020". Mục tiêu của chiến lược là tập trung phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, đa ngành, đa lĩnh vực, tạo điều kiện cho mọi người
dân đều có cơ hội được làm việc, học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề.
Đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực nông thôn với chỉ số ước đạt 55% lao động có
tay nghề cao, có khả năng đáp ứng những thách thức của nền kinh tế thị trường trong
hiện tại và tương lai. Một trong những giải pháp quan trọng được chiến lược hướng
đến là tiến hành đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Trên những cơ sở đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách lớn về đào tạo nghề cho lao động nói chung và lao động nông thôn nói riêng. Tuy
nhiên, để chính sách mang lại hiệu quả cao, hoàn thành những mục tiêu đề ra thì việc
tổ chức thực thi chính sách đóng vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định đến sự thành
công của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Vĩnh Linh là huyện vùng cao nằm ở phía Tây của tỉnh Quảng Trị. Cùng với sự
phát triển chung của cả nước, tình hình kinh tế - xã hội của huyện dần đi vào ổn định
và có chiều hướng tăng trưởng tốt. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn là lĩnh vực sản xuất vật
chất quan trọng và cơ bản của huyện, thu hút nhiều lao động nông thôn. Trong thời
gian qua, trên cơ sở những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, việc tổ chức
thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn của huyện đã có nhiều
chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả đáng ghi nhận, bước đầu đã hoàn
thành kế hoạch đặt ra, đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của các cơ sở sản xuất kinh
doanh, dịch vụ, doanh nghiệp. Bên cạnh những kết quả đã thì vẫn còn tồn tại nhiều hạn
chế, chưa đáp ứng được nhu cầu học nghề của người lao động, thiếu hợp lý. Nhiều nội
dung thực hiện chính sách còn lúng túng, bị động dẫn đến hiệu quả mang lại không
cao. Chính vì vậy, trong thời gian tới để thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
lao động từ nền sản xuất thuần nông sang sản xuất đa ngành nghề và đẩy mạnh phát
triển công nghiệp dịch vụ thì việc thực thi chính sách đào tạo nghề cho lao động nông
thôn trên địa bàn huyện cần phải được đổi mới, chú trọng hơn nữa.

Từ thực tiễn đặt ra đó và được sự phân công thực tập tốt nghiệp của Khoa Hành
chính học - Học viện hành chính Quốc gia cơ sở TP. Hồ Chí Minh nên tác giả tiến
hành lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao
động nông thôn tại huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị”.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, có khá nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến đào tạo nghề


cho lao động nói chung và lao động nông thôn nói riêng:
- Luận văn: “Thực trạng đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp trong
bối cảnh hiện nay” (2008) của ThS. Phan Minh Hiền - Viện Khoa học Giáo dục Việt
Nam, nghiên cứu thực trạng các khía cạnh về cơ cấu trình độ đào tạo, số lượng, chất
lượng và đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực của đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu
doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay.
- Luận án Tiến sỹ “Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề tại Việt
Nam”(2008) của tác giả Bùi Tô Hiến, nghiên cứu về thực trạng và tình hình sử dụng
lao động đã qua đào tạo nghề ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng lực lượnglao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam trong thời
gian tới.
- Đề tài nghiên cứu “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn con đường ngắn
nhất đưa khoa học kỹ thuật về nông thôn” (2009) của tác giả Phan Tuấn Minh Trường Cao đẳng NN&PTNT Bắc Bộ, nghiên cứu về vai trò của quan trọng của đào
tạo nghề cho LĐNT trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỷ thuật vào sản xuất
nông nghiệp theo hướng hiện đại ở khu vực nông thôn.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu cơ sở khoa học của các hình
thức dạy nghề nâng cao kiến thức cho lao động nông thôn” (2009) của tác giả
Phạm Thanh Hải, đề tài tập trung vào nghiên cứu những lý do, căn cứ mang tính khoa
học của việc sử dụng các hình thức dạy nghề cho người LĐNT phù hợp với tình hình
thực tiễn của địa phương.
- Khóa luận tốt nghiệp“Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo
nghề cho lao động nông thôn ở huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam” (2009) của tác

giả Phạm Thị Khánh Quỳnh - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, đề tài tập trung
phân tích thực trạng của công tác đào tạo nghề cho LĐNT trên cơ sở tình hình kinh tế,
xã hội của huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp, kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo nghề cho huyện Thanh Liêm trong
những năm tiếp theo.
- Luận văn “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại huyện Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam” (2012) của tác giả Phan Văn Bình - Trường Đại học Đà Nẵng, nghiên
cứu về thực trạng đào tạo nghề cho LĐNT tại huyện Điện Bàn, trên cở sở phân tích
thực trạng đó nhằm đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho


LĐNT.
Cùng nghiên cứu về vấn đề đào tạo nghề cho LĐNT nhưng mỗi đề tài tiếp cận
dưới góc độ khác nhau. Các kết quả nghiên cứu trên về cơ bản đã có đóng góp nhất
định trong việc nghiên cứu vấn đề đào tạo nghề cho lao động nói chung và LĐNT nói
riêng cũng như đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề
cho LĐNT trong thời gian tới ở nước ta.
Ngoài ra, theo thống kê tại thư viện Học viện Hành chính Quốc gia cơ sở Tp. Hồ
Chí Minh, trong số hơn 600 luận văn cao học và gần 400 khoá luận cử nhân từ KS1KS10 chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên đề trên. Riêng đối với công tác đào tạo
nghề cho LĐNT tại huyện Vĩnh Linh, đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu
về vấn đề này. Việc nghiên cứu chỉ có một số bài báo, báo cáo của huyện nhằm đánh
giá những kết quả đạt được qua các năm triển khai thực hiện Đề án 1956 của Thủ
tướng Chính phủ về đào tạo nghề cho LĐNT.
Từ tình hình nghiên cứu như trên,việc nghiên cứu đề tài dưới góc nhìn của chính
sách là một đề tài mới, không trùng lắp, đòi hỏi việc nghiên cứu phải trên cơ sở chính
sách của nhà nước gắn với tình hình đặc thù của huyện để hoạt động thực thi chính
sách đào tạo nghề cho LĐNT có hiệu quả cao hơn trong thời gian tới.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng tổ chức thực thi chính sách đào tạo nghề cho LĐNT huyện

Vĩnh Linh - tỉnh Quảng Trị trong thời gian qua; phân tích, đánh giá những yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng đào tạo nghề cho LĐNT của huyện, từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho người LĐNT của huyện trong thời
gian tới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa về cơ lý luận và thực tiễn về tổ chức thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn tại huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
- Nghiên cứu thực tiễn quá trình tổ chức thực thi chính sách đào tạo nghề cho lao
động nông thôn trên địa bàn huyện.
- Đánh giá thực trạng chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn của huyện
Vĩnh Linh trong thời gian qua.


- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của tổ chức thực thi
chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động
nông thôn trên địa bàn huyện trong thời gian tới.
4. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu đối tượng có liên quan đến việc thực thi chính sách đào tạo nghề
cho LĐNT trên địa bàn huyện Vĩnh Linh như: người học nghề, cán bộ quản lý, giáo
viên dạy nghề; doanh nghiệp tham gia dạy nghề hoặc sử dụng lao động sau khi đào tạo
nghề trên địa bàn và một số đối tượng có liên quan.
- Nghiên cứu những vấn đề có liên đến việc tổ chức thực thi chính sách đào tạo
nghề cho LĐNT trên địa bàn huyện Vĩnh Linh như các đề án, chương trình, chính
sách, tình hình triển khai thực hiên và một số kết quả đạt được.
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1 Phạm vi về nội dung
Nghiên cứu về thực trạng triển khai thực hiện chính sách đào tạo nghề cho LĐNT
trên địa bàn huyện Vĩnh Linh theo Quyết định 1956 ngày 27 tháng 11 năm 2009 của
Thủ tướng Chính phủ về “ Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, trong

đó tập trung nghiên cứu và đánh giá các kết quả đạt được theo các nội dung của Đề án
như mô hình, hình thức, nghành nghề đào tạo…
5.2 Phạm vi về không gian
Trọng tâm là tập trung nghiên cứu về tổ chức thực hiện chính sách đào tạo nghề
cho lao động nông thôn tại huyện Vĩnh Linh.
5.3 Phạm vi về thời gian
Nghiên cứu, thu thập thông tin trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách đào
tạo nghề trong thời gian 05 năm từ 2009 - 2013, trong đó tập trung vào nghiên cứu số
liệu trong 02 năm 2012 và 2013.
6. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin (chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước về đào tạo nghề cho LĐNT. Ngoài ra, đề tài sử dụng các


phương pháp nghiên cứu sau:


Phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu

Thu thập, tìm hiểu những tài liệu phục vụ cho nghiên cứu đề tài, có liên quan đến
vấn đề đào tạo nghề, các vấn đề liên quan nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề nói
chung và chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói riêng; trong đó bao gồm
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các kết quả nghiên cứu trong và
ngoài nước và các tài liệu thống kê các cấp.
Nguồn số liệu: nguồn số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài được thu thập từ
hai nguồn sơ cấp và thứ cấp.
Nguồn số liệu thứ cấp: đây là những nguồn số liệu được thu thập từ các cơ quan
ban ngành, đã quan xử lý và tính toán. Số liệu được thu thập tại phòng LĐ-XH huyện,
các phòng, ban ngành có liên quan, … trên địa bàn huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.

Nguồn số liệu sơ cấp: đây là những số liệu thu thập được chưa qua xử lý, tác giả tiến
hành xử lý và tính toán để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.


Phương pháp điều tra phỏng vấn

Tiến hành phỏng vấn trực tiếp các đối tượng có liên quan đến việc tổ chức thực
hiện chính sách đào tạo nghề cho LĐNT trên địa bàn huyện bao gồm: cán bộ quản lý
công tác đào tạo nghề, giáo viên dạy nghề cho LĐNT, các đối tượng tham gia học
nghề, các doanh nghiệp tham gia đào tạo và sử dụng lao động sau khi đào tạo trên địa
bàn huyện. Việc điều tra phỏng vấn có thể tiến hành bằng bảng hỏi hoặc phỏng vấn
trực tiếp.


Phương pháp nghiên cứu thực địa

Nghiên cứu, khảo sát quá trình tổ chức thực hiện đào tạo nghề cho LĐNT trên
địa bàn huyện, khảo sát nhu cầu học nghề, công tác tuyên truyền chính sách, mô hình
đào tạo nghề tại một số xã, thị trấn trên địa bàn huyện.


Phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, đối chiếu

Từ những kết quả đạt được trong quá trình chức thực hiện chính sách, thông qua
những số liệu tổng hợp, tiến hành phân tích, đánh giá các kết quả. Liên hệ, đối chiếu
kết quả với một số địa phương khác hoặc giữa các xã, thị trấn trong địa bàn huyện, so
sánh những kết quả đạt được với mục tiêu đề ra.


Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo nội dung chính của

khoá luận được tổ chức làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động
nông thôn.
Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động
nông thôn tại huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách đào tạo nghề
cho lao động nông thôn tại huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.

CHƯƠNG 1: LUẬN CHUNG VỀ VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm nghề
Cho đến nay, khái niệm “Nghề” được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
Ở Pháp: Nghề là một loại lao động có thói quen về kỹ năng, kỹ xảo của con
người để từ đó tìm được phương tiện sống.
Còn ở Đức, nghề được định nghĩa: Nghề là hoạt động cần thiết cho xã hội ở một
lĩnh vực lao động nhất định, đòi hỏi phải được đào tạo ở một trình độ, chuyên môn
nhất định.


Như vậy, có thể hiểu nghề là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử phổ biến, gắn
chặt với sự phân công lao động của xã hội, với tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và văn
minh của nhân loại.
Tại Việt Nam, “Nghề” là một tập hợp những kỹ năng, kỹ xảo do sự phân công
lao động xã hội quy định mà giá trị của nó trao đổi được. Nghề mang tính tương đối,
nó phát sinh, phát triển hay mất đi do trình độ phát triển của nền sản xuất hay do sự
thay đổi nhu cầu của xã hội.
Mặc dù khái niệm “Nghề” được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, song có thể
thấy một số nét đặc trưng nhất định:
Một là, nghề là hoạt động, là công việc lao động của con người được lặp đi lặp lại.

Hai là, nghề là sự phân công là động xã hội, phù hợp với yêu cầu xã hội.
Ba là, nghề là phương tiện để sinh sống.
Bốn là, nghề là lao động kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá trị trao đổi trong xã
hội, đòi hỏi phải có quá trình đào tạo nhất định.
1.1.2 Khái niệm đào tạo nghề
Đào tạo được hiểu là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, nhằm hình
thành và phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ,…để hoàn thiện
nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có
năng suất và hiệu quả.
Đào tạo nghề là quá trình trang bị kiến thức nhất định về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận một công việc nhất định. Hay nói
cách khác đó là quá trình truyền đạt, lĩnh hội những kiến thức và kỹ năng cần thiết để
người lao động có thể thực hiện một công việc nào đó trong tương lai.
Đào tạo nghề là những hoạt động giúp cho người học có được các kiến thức về
lý thuyết và kỹ năng thực hành một số nghề nào đó sau một thời gian nhất định người
học có thể đạt được một trình độ để tự hành nghề, tìm việc làm hoặc tiếp tục học tập
nâng cao tay nghề nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của xã hội.
Luật Dạy nghề năm 2006 định nghĩa: “Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm
trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có
thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học”. Có thể thấy,


về cơ bản khái niệm đào tạo nghề và dạy nghề không có sự khác biệt nhiều về nội
dung.
Đào tạo nghề phục vụ cho mục tiêu kinh tế - xã hội, trước hết là thực hiện phân
công và chuyên môn hoá lao động, tạo cơ hội cho mọi người đều được học tập nghề
nghiệp để dễ dàng tìm kiếm việc làm hoặc nâng cao trình độ tay nghề của bản thân.
1.1.3 Khái niệm lao động
Xét về mặt từ ngữ, có thể hiểu khái niệm “Lao động” theo hai cách sau:
Theo nghĩa động từ, lao động là hoạt động quan trọng nhất con người để tạo ra

của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội.
Theo nghĩa danh từ, theo khái niệm của Liên hợp quốc thì: “Lao động là tổng thể
sức lực dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động
của con người vào cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội.
Trong từng thời kỳ, và ở mỗi một nước trên thế giới quy định độ tuổi lao động
khác nhau. Ở nước ta, theo bộ Luật Lao động, độ tuổi lao động được quy định đối với
nam từ 15 tuổi đến 60 tuổi, đối với nữ từ 15 tuổi đến 55 tuổi. Xét về khía cạnh việc
làm, lực lượng lao động gồm hai bộ phận là có việc làm và thất nghiệp.
1.1.4 Khái niệm lao động nông thôn
1.1.4.1 Khái niệm
LĐNT là những người thuộc lực lượng lao động và tham gia hoạt động sản xuất
trong hệ thống kinh tế nông thôn.
LĐNT là những người dân không phân biệt giới tính, tổ chức, cá nhân sinh sống
ở vùng nông thôn, có độ tuổi từ 15 trở lên, hoạt động sản xuất ở nông thôn. Trong đó
bao gồm những người đủ các yếu tố về thể chất, tâm sinh lý trong độ tuổi lao động
theo quy định của bộ Luật Lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có khả
năng tham gia sản xuất, trong một thời gian nhất định họ hoàn thành công việc với kết
quả đạt được một cách tốt nhất.
1.1.4.2 Đặc điểm của lao động nông thôn
Do LĐNT sống chủ yếu ở khu vực nông thôn và tham gia sản xuất trong các
ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Với những tính chất riêng của ngành nông nghiệp nên
LĐNT có một số đặc điểm như sau:


Một là: LĐNT tham gia sản xuất mang tính thời vụ, có thời kỳ căng thẳng, có
thời kỳ nhàn rỗi. Điều này ảnh hưởng đến nhu cầu sử dụng lao động trong từng thời
kỳ, đời sống sản xuất và thu nhập của người lao động nông nghiệp.
Hai là: do tính chất công việc trong sản xuất nông nghiệp mà hình thành nên
tâm lý hay thói quen làm việc một cách không liên tục, thiếu tính kỷ luật cao, thiếu
sáng tạo của LĐNT.

Ba là: LĐNT nước ta vẫn còn mang nặng tư tưởng và tâm lý tiểu nông, sản xuất
nhỏ, ngại thay đổi nên thường bảo thủ và thiếu năng động, việc tiếp cận với các tiến bộ
KH - KT còn nhiều hạn chế.
Bốn là: LĐNT có kết cấu phức tạp, không đồng nhất theo từng vùng, miền, có
năng lực và trình độ sản xuất rất khác nhau. Hoạt động sản xuất nông nghiệp được
tham gia bởi nhiều người ở nhiều độ tuổi khác nhau, trong đó có cả những người ở
ngoài độ tuổi lao động.
Năm là: thu nhập của người LĐNT còn thấp, không ổn định tuỳ thuộc vào từng
thời vụ, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, đặc biệt là tại vùng ven biển, vùng núi, vùng sâu, vùng
xa, đồng bào dân tộc thiểu số.
Sáu là: trình độ của LĐNT thấp khả năng tổ chức sản xuất kém, ngay thực tế cả
những người trong độ tuổi lao động thì trình độ vẫn thấp hơn so với lao động trong các
ngành kinh tế khác.
1.1.6 Chính sách đào tạo nghề cho LĐNT
1.1.6.1 Khái niệm
Nhà nước là chủ thể quyền lực cao nhất trong xã hội, đồng thời cũng là chủ thể
để điều hòa và giải quyết mâu thuẫn, phân phối lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội.
Để thực hiện được điều đó, Nhà nước sử dụng các chính sách như là một công cụ hữu
hiệu để thực hiện chức năng quản lý xã hội và cung cấp các dịch vụ công cho người
dân. Như vậy, chính sách công thể hiện sự lựa chọn và định hướng của Nhà nước trước
các vấn đề nảy sinh trong đời sống của xã hội.
T.S Nguyễn Hữu Hải: “Chính sách công là thái độ ứng xử của Nhà nước trước
những vấn đề phát sinh trong cuộc sống hằng ngày, được thể hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau nhằm thúc đẩy xã hội phát triển”[2].


Từ khái niệm chính sách công, có thể hiểu chính sách đào tạo nghề cho LĐNT là
một bộ phận của chính sách công, là sự lựa chọn các mục tiêu và giải pháp nhằm
truyền đạt những kiến thức, kỹ năng của một nghề nào đó cho người lao động ở khu
vực nông thôn. Từ đó tạo ra năng lực, những kỹ năng, kỹ xảo cho người lao động, giúp

họ có thể thực hiện thành công ngành nghề đã được đào tạo, đáp ứng nhu cầu của xã
hội trong khuôn khổ Hiến pháp và bộ Luật Lao động.
1.1.6.2 Vai trò của chính sách đào tạo nghề cho LĐNT
Trong quá trình thực hiện CNH - HĐH đất nước, việc ban hành chính sách đào
tạo nghề cho LĐNT có vai trò cơ bản sau:
Một là, đào tạo nghề cho LĐNT nhằm tạo lực lượng lao động có trí tuệ có trình
độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề cao
Trong nền kinh tế hiện đại, yếu tố về trí lực của người lao động luôn đóng vai trò
then chốt cho sự phát triển xã hội. Cơ cấu lao động thay đổi theo hướng lao động trí
tuệ tăng nhanh, tầng lớp trí thức, nhân viên và công nhân có trí thức ngày càng đông
đảo. Phương thức hoạt động của con người đã chuyển từ nguồn lực tự nhiên, lao động
cơ bắp sang khai thác phổ biến nguồn lao động trí tuệ. Chính vì vậy, đào tạo nghề cho
LĐNT là con đường hiệu quả nhất trong việc tạo ra một lực lượng lao động trí tuệ có
trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề cao.
Hai là, đào tạo nghề cho LĐNT giúp lực lượng lao động có lối sống lành mạnh
và bản lĩnh nghề nghiệp vững
Với trình độ dân trí thấp, cùng với việc sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ sẽ
dẫn đến một bộ phận lao động nông thôn dễ sa ngã vào các tệ nạn xã hội: ma túy, cờ
bạc, rượu chè... ảnh hưởng đến xã hội nói chung và gia đình, bản thân họ nói riêng. Vì
vậy, đào tạo nghề giúp cho người lao động biết sống cao đẹp, lành mạnh, văn minh.
Sống có ý nghĩa, tránh xa các tệ nạn xã hội, biết hướng tới cái đúng, có văn hóa nghề
nghiệp chân chính, cần cù, tiết kiệm, đoàn kết hợp tác trong lao động để nhân thêm
sức mạnh của con người và dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.
Ba là, đào tạo nghề cho LĐNT hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của xã
hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hiện đại là một quy luật tất yếu, điều này đòi hỏi cần có một lực lượng lao động
đủ năng lực và trình độ. Chính vì vậy, đào tạo nghề sẽ tạo ra một nguồn nhân lực có



tay nghề và trình độ chuyên môn giỏi, nhạy bén, thích ứng với xu thế mới của nền kinh
tế, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Bốn là, đào tạo nghề cho LĐNT góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc
làm và phát triển các ngành nghề mới ở nông thôn.
Giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực phục vụ
cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, vấn đề giải
quyết việc làm còn gặp nhiều khó khăn, đa số lực lượng lao động hiện nay có kiến
thức và chuyên môn thấp, khó có thể tìm kiếm được việc làm. Để tháo gỡ vấn đề này,
phát triển công tác đào tạo nghề sẽ là một biện pháp hữu hiệu nhằm đào tạo đội ngũ
lao động giúp họ có thể tham gia thị trường lao động. Đối với bộ phận LĐNT, thông
qua các lớp đào tạo nghề, họ có thể tự thân lập nghiệp ngay trên quê hương mình. Đây
không chỉ là vấn đề giải quyết lao động dư thừa tại chỗ mà còn là điều kiện để phát
triển ngành nghề mới ở nông thôn.
1.1.7 Tổ chức thực thi chính sách đào tạo nghề cho LĐNT
1.1.7.1 Khái niệm
Tổ chức thực thi chính sách công là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của chủ thể
trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu
định hướng [3].
Cũng như việc tổ chức thực hiện các chính sách công khác, tổ chức thực thi
chính sách đào tạo nghề cho LĐNT là quá trình triển khai thực hiện các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về đào tạo nghề cho LĐNT thông qua việc sử dụng
tổng hợp các biện pháp, nhằm chuyển hóa những mục tiêu, mong đợi của Nhà nước
thành hiện thực.
1.1.7.2 Ý nghĩa của việc thực thi chính sách đào tạo nghề cho LĐNT
Triển khai và thực hiện chính sách đào tạo nghề cho LĐNT mang lại những ý
nghĩa quan trọng cả về khía cạnh kinh tế và xã hội:
Một là, ý nghĩa về phát triển kinh tế
Đào tạo nghề cho LĐNT sẽ huy động được tối đa lực lượng lao động của xã hội
vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Phát triển lực lượng lao động thông qua

đào tạo nghề sẽ phát huy được năng lực, sở trường của từng người lao động và nhờ


vậy hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh ngày một nâng cao. Không những thế,
đào tạo nghề cho LĐNT sẽ tạo điều kiện cho việc khai thác có hiệu quả hơn các nguồn
lực về tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học công nghệ, làm cho kinh tế nông thôn
hoạt động có hiệu quả hơn.
Đào tạo nghề cho LĐNT đáp ứng được những đòi hỏi về kỹ năng, công nghệ về
quản lý trong thời đại bước sang nền kinh tế tri thức, đáp ứng được nhu cầu hội nhập
được kinh tế thế giới và toàn cầu hóa góp phần quan trọng vào qúa trình tăng trưởng
của nền kinh tế quốc dân.
Khoảng trên 90% hộ nghèo của nước ta sinh sống ở các khu vực nông thôn, vì
vậy đào tạo nghề cho LĐNT quyết định sự thành công của các chương trình xóa đói,
giảm nghèo.
Hai là, ý nghĩa về chính trị - xã hội
Đào tạo nghề cho LĐNT góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” của Đảng và Nhà nước ta.
Dân muốn giàu, trước hết phải có đầy đủ việc làm, sau đó là chất lượng việc làm ngày
ngày một nâng cao, ổn định đời sống của người dân, thu nhập của người lao động ngày
một tăng. Đào tạo nghề cho LĐNT góp phần nâng cao trí tuệ, chất lượng của nguồn
lao động, làm giảm bớt tội phạm, tệ nạn xã hội. An ninh quốc gia được giữ vững, tạo
điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.2 Trách nhiệm của nhà nước trong việc đào tạo nghề cho LĐNT
1.2.1 Trách nhiệm của nhà nước trong việc ban hành các chính sách về đào
tạo nghề cho LĐNT
Lao động là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong
Hiến pháp. Chính vì vậy, công dân có quyền học tập, nghiên cứu nhằm nâng cao trình
độ, năng lực, tay nghề của mình trong quá trình lao động sản xuất nhằm đáp ứng nhu
cầu của xã hội và nâng cao cuộc sống của bản thân, góp phần xây dựng xã hội, thực
hiện các nghĩa vụ của họ đối với gia đình và cộng đồng. Đào tạo nghề, nâng cao trình

độ tay nghề cho người lao động là trách nhiệm của Nhà nước, doanh nghiệp và của
toàn xã hội.
Nhà nước định ra các chỉ tiêu về đào tạo nghề trong các kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội trong dài hạn, trung hạn và hằng năm. Nhà nước tạo điều kiện cần thiết và
ban hành các chính sách về đào tạo nghề cho LĐNT, hỗ trợ về tài chính, sử dụng các


biện pháp khuyến khích và động viên cho các địa phương, đơn vị cá nhân thuộc mọi
thành phần tế phát triển các ngành nghề đào tạo mới đáp ứng nhu cầu học nghề của
người lao động và nhu cầu sử dụng lao động của xã hội.
Nhà nước có chính sách ưu đãi về đào tạo nghề cho lao động khu vực nông thôn
nhằm thu hút lao động tham gia học nghề và các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham
gia đào tạo nghề cho LĐNT và giải quyết việc làm để hoàn thành mục tiêu quốc gia về
xóa đói giảm nghèo.
Nghị quyết Đại hội X đã chỉ rõ: “Phát triển hệ thống hướng nghiệp và dạy nghề,
nhất là các nghề cho lao động nông thôn trong các lĩnh vực nông nghiệp; đa dạng hóa
các loại hình dạy nghề, phát triển nhanh đào tạo nghề dài hạn theo hướng hiện đại”.
1.2.2 Chủ thể hoạch định và thực thi chính sách đào tạo nghề
Chính phủ: lập chương trình quốc gia về đào tạo nghề, lập các dự án đầu tư về
phát triển kinh tế - xã hội gắn với việc đào tạo nghề tại chỗ nhằm đáp ứng nhu cầu về
lao động trong và ngoài nước; lập các quỹ quốc gia về đào tạo nghề và các nguồn
khác; phát triển hệ thống tổ chức dịch vụ đào tạo nghề. Hằng năm Chính phủ trình
Quốc hội quyết định chương trình và quỹ quốc gia về đào tạo nghề cho LĐNT.
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: lập chương trình, Đề án về đào
tạo nghề cho LĐNT trên phạm vi toàn tỉnh, thành phố, xây dựng các kế hoạch triển
khai thực hiện chính sách và dự trù kinh phí phục vụ cho công tác đào tạo nghề cho
LĐNT của địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.
Các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, các đoàn thể nhân dân và tổ chức
xã hội: trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình được phân công có nhiệm tham
gia tổ chức, phối hợp xây dựng và thực hiện các chương trình, Đề án về đào tạo nghề

cho LĐNT phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Giải quyết các vấn đề nảy
sinh, liên quan đến đào tạo nghề cho LĐNT trong quá trình tổ chức, triển khai thực
hiện chính sách.
1.2.3 Những chính sách đào tạo nghề cho LĐNT ở nước ta
Trong giai đoạn hiện nay đào tạo nghề cho người lao động nói chung và đào tạo
nghề cho LĐNT nói riêng luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước.
Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 của ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn thể hiện rõ quan điểm và
định hướng của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội đối với nông thôn Việt Nam trong


chiến lược tổng thể phát triển đất nước. Một trong những nhiệm vụ và giải pháp được
nêu trong Nghị quyết là giải quyết việc làm cho người nông dân là nhiệm vụ xuyên
suốt trong mọi chương trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước, bảo đảm hài hòa
giữa các vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn và thành
thị.
Thực hiện Nghị quyết của ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X, ngày 28
tháng 10 năm 2008, Chính phủ ra Nghị quyết số 24/2008/NĐ-CP ban hành chương
trình hành động của Chính phủ. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu trong Chương
trình hành động của Chính phủ là xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo
nguồn nhân lực nông thôn, trong đó đề ra mục tiêu “tập trung đào tạo nguồn nhân lực
nông thôn, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ,
giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn tăng lên 2,5 lần so với
hiện nay”. Tập trung xây dựng kế hoạch và giải pháp đào tạo cho bộ phận con em
nông dân đủ trình độ, năng lực vào làm việc ở các cơ sở công nghiệp, TTCN, dịch vụ
và chuyển nghề; bộ phận nông dân còn tiếp tục sản xuất nông nghiệp được đào tạo về
kiến thức và kỹ năng để thực hành sản xuất nông nghiệp hiện đại, đồng thời tập trung
đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở.
Trước đó, ngày 02 tháng 10 năm 2006, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và
xã hội đã ra Quyết định số 07/2006/QĐ - BLĐTBXH về phê duyệt “Quy hoạch phát

triển mạng lưới trường Cao đẳng nghề, trường Trung cấp nghề, Trung tâm dạy nghề
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”. Theo đó cần phải phát triển mạng lưới
cơ sở dạy nghề rộng khắp cả nước, đa dạng các hình thức dạy nghề, tạo điều kiện cho
người lao động, thanh niên, nông dân, người dân tộc thiểu số học nghề, lập nghiệp; mở
rộng quy mô, đồng thời nâng cao chất lượng dạy nghề, điều chỉnh cơ cấu ngành nghề,
cơ cấu trình độ đào tạo phù hợp với nhu cầu thị trường lao động và những tiến bộ về
kỹ thuật, công nghệ; đẩy mạnh xã hội hóa dạy nghề, khuyến khích mọi tổ chức, cá
nhân đầu tư cho dạy nghề, phát triển các cơ sở dạy nghề tư thục và cơ sở dạy nghề có
vốn đầu tư của nước ngoài, mở rộng hội nhập quốc tế về dạy nghề.
Cụ thể hóa chương trình hành động, ngày 27 tháng 11 năm 2009, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg phê duyệt “ Đề án đào tạo nghề cho
lao động nông thôn đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956). Đề án nêu rõ quan điểm
“Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng và Nhà nước, của các
cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu


cầu CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển
đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính sách đảm bảo thực hiện công bằng xã
hội về cơ hội học nghề đối với mọi LĐNT, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để
toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho LĐNT”. Đây là cơ sở tạo hành lang pháp lý để
hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT phát triển nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực nông thôn theo mục tiêu đã đề ra.
Đề án 1956 đã đề ra mục tiêu tổng quát: bình quân hằng năm đào tạo nghề cho
khoảng 1 triệu LĐNT, trong đó đào tạo, bồi dưỡng cho 100.000 lượt cán bộ, công chức
xã. Đề án có 3 chính sách gồm: chính sách đối với người học nghề trình độ sơ cấp
nghề và dạy nghề dưới 3 tháng, (chia thành 3 nhóm đối tượng, mức hỗ trợ tùy theo
nhóm đối tượng, tối đa từ 2 đến 3 triệu đồng/người/khóa học); chính sách đối với giáo
viên, giảng viên; chính sách đối với cơ sở đào tạo nghề cho LĐNT (hỗ trợ đầu tư cơ sở
vật chất, thiết bị dạy nghề, chương trình giáo trình, học liệu và bồi dưỡng giáo viên
dạy nghề). Đề án đề ra 5 giải pháp và 2 hoạt động chính để thực hiện các chính sách

trên. Tổng kinh phí thực hiện Đề án từ ngân sách nhà nước dự kiến là 25.980 tỷ đồng,
để thực hiện hai hoạt động gồm: đào tạo nghề cho LĐNT là 24.694 tỷ đồng; đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã: 1.286 tỷ đồng.
Đồng thời với Đề án 1956, ngày 04 tháng 6 năm 2010, Chính phủ có Quyết
định số 800/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2010 - 2020”. Đây là chương trình tổng thể về phát triển kinh tế xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng ở nông thôn. Để đạt tiêu chí về nông thôn mới,
một xã phải đạt được 19 tiêu chí, trong đó có nội dung đẩy mạnh đào tạo nghề, giải
quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu LĐNT. Đó là những chính sách, giải pháp
đồng bộ để phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta.
1.3 Đào tạo nghề cho LĐNT tại một số địa phương ở nước ta và một số bài học
kinh nghiệm
1.3.1 Đào tạo nghề cho LĐNT tại một số địa phương ở nước ta
1.3.1.1 Đào tạo nghề cho LĐNT tại tỉnh Hà Giang
Do điều kiện địa hình bị chia cắt mạnh, thiếu đất, thiếu nước sản xuất, trình độ
dân trí của đồng bào còn hạn chế nên tỷ lệ đói nghèo cao. Thời gian qua, nhằm trang bị
và nâng cao kiến thức làm ăn cho đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh, Hà Giang
đã triển khai nhiều chương trình, dự án thiết thực tới vùng đồng bào dân tộc thiểu số.


Trong số đó phải kể đến chương trình đào tạo nghề cho LĐNT. Quan điểm của tỉnh là
khi đồng bào “đói” kiến thức làm ăn thì phải bù lấp khoảng trống hẫng hụt đó. Với
phương châm “Các cơ sở dạy nghề là đào tạo những nghề mà người nông dân cần chứ
không phải đào tạo những nghề mà trung tâm có”. Yêu cầu đặt ra là tất cả các ngành
nghề đang đào tạo tại các cơ sở dạy nghề đều phải có chương trình, giáo trình chi tiết
cho từng nghề theo quy định chung và thường xuyên được bổ sung nội dung cho phù
hợp với tình hình kinh tế - xã hội của địa phương và nhận thức của người học. Căn cứ
theo nhu cầu thực tiễn của bà con, các trung tâm phải kiện toàn đội ngũ giáo viên có
chuyên môn để đào tạo những ngành nghề truyền thống, những ngành nghề theo nhu
cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp và thị trường lao động.
Trên cơ sở đó, Sở LĐ-TB&XH tỉnh Hà Giang đã tập trung tham mưu cho

UBDN tỉnh phát triển mạng lưới các cơ sở đào tạo nghề cho đồng bào, tích cực tranh
thủ các nguồn lực tập trung cho công tác dạy nghề. Ngoài đầu tư từ ngân sách Trung
ương, còn có thêm kinh phí của dự án “Tăng cường năng lực đào tạo nghề”, kinh phí
chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, kinh phí từ Nghị quyết 30a/CP của Chính
phủ về đào tạo nghề cho các huyện nghèo. Đến nay, mạng lưới cơ sở dạy nghề được
mở rộng xuống đến tận các huyện, thị xã. Toàn tỉnh đã xây dựng xong 15 cơ sở dạy
nghề, bao gồm 1 trường Trung cấp nghề, 12 Trung tâm dạy nghề và 2 cơ sở khác có
dạy nghề. Nhờ đó, mỗi năm tỉnh Hà Giang đã đào tạo cho nghề cho hàng chục ngàn
lao động, giúp người dân ổn định đời sống, tăng thu nhập cho người lao động, góp
phần chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
1.3.1.2 Đào tạo nghề cho LĐNT tại tỉnh Thanh Hóa
Thực hiện Đề án 1956 của Thủ tướng Chính phủ, Thanh Hóa đã sớm thành lập
Ban chỉ đạo cấp tỉnh, xây dựng kế hoạch triển khai Đề án “Đào tạo nghề cho lao động
nông thôn đến năm 2020”, lựa chọn huyện triển khai thí điểm, chỉ đạo việc tổ chức
điều tra, khảo sát nhu cầu học nghề của LĐNT, xử lý cung, cầu lao động và dạy nghề.
Đến nay, 27/27 huyện, thị xã, thành phố đã và đang tích cực triển khai thực hiện
đề án của tỉnh. Trong đó có 4 mô hình dạy nghề hiệu quả có thể nhân rộng, đó là: mô
hình dạy nghề kỹ thuật sản xuất lúa F1 tại huyện Yên Định, kỹ thuật trồng lúa cao sản
tại xã Hạnh Phúc, huyện Thọ Xuân; mô hình dạy nghề thêu ren - đính cườm tại xã
Xuân Quang, huyện Thọ Xuân; mô hình dạy nghề dệt chiếu cải tại Khu làng nghề thị
trấn Nga Sơn, huyện Nga Sơn..


Theo đánh giá, sau khi được triển khai, các mô hình này đã mang lại hiệu quả
kinh tế - xã hội to lớn, thu nhập của người nông dân được nâng lên rõ rệt, bình quân
người lao động thu nhập từ 40.000 đồng đến 90.000 đồng/người/ngày. Thanh Hóa là
1 trong 2 tỉnh thực hiện thí điểm dạy nghề cho LĐNT theo hình thức cấp thẻ học
nghề nông nghiệp do Bộ NN&PTNT làm chủ dự án. Tính đến hết tháng 11/2011 toàn
tỉnh đã có 9.280 LĐNT được hỗ trợ dạy nghề theo Quyết định 1956, trong đó tổ chức
được 197 lớp đào tạo nghề cho 6.283 LĐNT theo đề án của tỉnh.

1.3.1.3 Đào tạo nghề tại thị xã Tân Châu - tỉnh An Giang
Thị xã Tân Châu - tỉnh An Giang hiện có gần 113.407 người trong độ tuổi lao
động, trong đó lao động thành thị 42.237 người chiếm 37,25%; LĐNT 71.170 người
chiếm 62,75%. Trước tình hình đó Thị ủy nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã đề ra nhiệm vụ
trong 5 năm tới cần giải quyết việc làm cho 27.000 lao động và lao động qua đào tạo
phải đạt 47%, bình quân hàng năm là 10% . Do vậy để nâng cao hiệu quả đào tạo nghề
cho LĐNT, đòi hỏi các cấp các ngành trong toàn thị xã phải có nhiều chương trình, kế
hoạch thực hiện nghiêm túc, thực tế, khách quan; có đề ra chỉ tiêu cụ thể, đồng thời
phải có sơ kết, tổng kết, kịp thời rút ra kinh nghiệm để thực hiện công tác đào tạo nghề
ở địa phương, đơn vị ngày càng hiệu quả, chất lượng.
Với sự quan tâm của cấp ủy, sự chỉ đạo quyết liệt và sự vào cuộc mạnh mẽ của
các cấp, các ngành, các đoàn thể quần chúng như: Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội
Cựu chiến binh và Đoàn thanh niên… công tác đào tạo nghề cho lao động ở thị xã đã
từng bước được triển khai đồng bộ, đúng hướng, mạng lưới dạy nghề phát triển và đạt
được kết quả bước đầu, đã lan tỏa tới từng khóm, ấp, từng khu dân cư, đến mọi đối
tượng lao động chưa có công ăn việc làm.
Một trong những hướng đào tạo của trường trong thời gian qua, cũng như trong
năm 2011 đã và đang phát huy hiệu quả, đó là: Trường phối hợp các đoàn thể tổ chức
các buổi thông tin tư vấn về dạy nghề và giải quyết việc làm đến tận xã, phường. Có
nơi lồng ghép với các phong trào, kế hoạch vận động gia đình văn hóa, giữ gìn an ninh
trật tự xã hội, xây dựng nông thôn mới, phòng chống tệ nạn xã hội… tuyên truyền vận
động nhân dân từng bước nâng cao nhận thức về học nghề, gắn với tạo việc làm và
giảm nghèo. Những lớp dạy nghề ngắn hạn phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh
của từng nhóm đối tượng, từng địa phương, giúp người dân ngày càng nâng cao kiến
thức trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của mình như: ương cá tra giống, nuôi
lươn, nuôi cá tra thịt, cá lóc; trồng nấm các loại, hoa kiểng, làm vườn. Hoặc các nhóm


nghề phi nông nghiệp: lái xe hạng B2, may công nghiệp, xây dựng, điện dân dụng, đan
ghế giả mây xuất khẩu, kỹ thuật phục vụ quán ăn nông thôn, kỹ thuật phục vụ nhà

hàng, khách sạn, bảo mẫu, quản gia…
Thực tế cho thấy, người lao động sau khi học nghề năng suất và hiệu quả sản
xuất tăng lên rõ rệt, đáp ứng được nhu cầu sản xuất, kinh doanh tại chỗ, cũng như yêu
cầu sử dụng lao động của một số DN trong và ngoài thị xã. Năm 2011, toàn thị xã đã
tổ chức dạy nghề cho 780 lao động; giải quyết việc làm cho 5.130 lao động, trong đó
lao động ngoài tỉnh 41 người, có 02 lao động đi làm việc nước ngoài, giải quyết việc
làm mới cho 95 lao động.
1.3.2 Bài học kinh nghiệm
Trên cơ sở các những kết quả về đào tạo nghề cho LĐNT tại một số đia phương ở
nước ta trong thời gian qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
Một là: cần tổ chức thực hiện theo sát đề án mà các cấp chính quyền từ Trung
ương đến địa phương đã đề ra, đồng thời phải có các chính sách phát triển công tác
đào tạo nghề phù hợp với thực tế và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của từng địa
phương.
Hai là: tăng cường công tác tuyên truyền sâu, rộng hơn nữa về công tác đào tạo
nghề cho người lao động đến toàn thể lực lượng lao động của địa phương.
Ba là: tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở, trang thiết bị dạy nghề, cũng như tăng
cường nâng cao năng lực của cán bộ, giáo viên tham gia công tác đào tạo nghề.
Bốn là: tập trung đào tạo nghề theo nhu cầu của người học và nhu cầu của các
doanh nghiệp, đồng thời cần xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo
nghề với các doanh nghiệp sử dụng lao động.
Năm là: cần có chính sách tạo việc làm cho người lao động sau khi tham gia học
nghề để có thể vận dụng các nghề mà học viên đã học được trong việc tìm kiếm việc
làm cho bản thân và đáp ứng nhu cầu lao động của xã hội.
Sáu là: cần phân cấp rõ vai trò của việc quản lý đào tạo nghề theo ngành dọc, bảo
đảm tính chủ động trong việc triển khai công tác dạy nghề gắn với nhu cầu người học
đồng thời tạo việc làm cho người LĐNT sau khi ra trường. Đồng thời, việc xây dựng
các chương trình đào tạo nghề phát triển nguồn nhân lực cần có sự cân đối giữa số
lượng dạy nghề với việc sử dụng lao động tạo ra sự cân đối cung - cầu trong đào
tạo nghề cho LĐNT.



TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Để có thể phân tích thực trạng và đề xuất những giải pháp trong việc thực thi
chính sách đào tạo nghề cho LĐNT tại huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, cần đưa ra hệ
thống cơ sở lý luận khoa học, phù hợp và mang tính thực tiễn trong nghiên cứu, đánh
giá các nội dung liên quan đến đề tài. Xác định nội dung trọng tâm của vấn đề, chương
1 đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý thuyết các khái niệm cơ bản về nghề và đào tạo
nghề, lao động và lao động nông thôn, đặc điểm của LĐNT, chính sách và vai trò của
chính sách đào tạo nghề cho LĐNT, các vấn đề liên quan đến việc tổ chức thực thi và ý
nghĩa của việc thực thi chính sách đào tạo nghề cho LĐNT. Bên cạnh đó, chương 1
cũng chỉ ra trách nhiệm của nhà nước trong vấn đề đào tạo nghề cho LĐNT, trên cơ sở
đó để đưa ra các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đào tạo nghề cho
LĐNT ở nước ta trong thời gian qua. Với nhiệm vụ làm cơ sở lý luận cho các chương
tiếp theo, trong chương 1 còn giới thiệu một số mô hình về đào tạo nghề cho LĐNT có
hiệu quả ở nước ta trong thời gian qua, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm quý


báu có thể xem xét áp dụng trong việc thực thi chính sách đào tạo nghề cho LĐNT tại
huyện

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC TỔ CHỨC THỰC THI CHÍNH SÁCH
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI HUYỆN
VĨNH LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ
2.1 Tổng quan về huyện Vĩnh Linh
2.1.1 Khái quát chung
Vĩnh Linh là huyện miền núi, vùng cao, biên giới nằm về phía Tây của tỉnh
Quảng Trị, là một trong 10 đơn vị hành chính của tỉnh. Tổng diện tích toàn huyện là
1150,86 km2. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Bình, phía Nam và Tây giáp Cộng hoà dân chủ

nhân dân Lào, phía Đông giáp với huyện Gio Linh, Vĩnh Linh và Đakrông. Toàn
huyện có 22 đơn vị hành chính trong đó 20 xã và 02 thị trấn là Khe Sanh và Lao Bảo.
Toàn huyện có 13 xã đặc biệt khó khăn, 11 xã giáp biên với Lào, có cửa khẩu Quốc tế
Lao Bảo nằm trên trục đường Quốc lộ 9 nối liền với các nước trong khu vực: Lào,
Thái Lan, Mianma và Khu vực Miền Trung Việt Nam tạo ra hành lang kinh tế ĐôngTây, là vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, an ninh quốc phòng của nước ta. Có
đường biên giới dài 156 km tiếp giáp với 3 huyện nước bạn Lào. Với vị trí địa lý thuận
lợi, đây là điều kiện quan trọng cho việc giao lưu, buôn bán với các nước trong khu
vực, thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện ngày càng phát triển.
2.1.2 Điều kiện tự nhiên


Địa thế núi rừng Vĩnh Linh rất đa dạng, phong phú. Núi và sông xen kẻ nhau, tạo
thành địa hình chia cắt, sông suối đều bắt nguồn từ núi cao. Khí hậu mang những nét
điển hình của khí hậu nhiệt đới gió mùa, quanh năm nóng ẩm, bao gồm nhiều tiểu khí
hậu khác nhau, tạo ra những nét đặc sắc về khí hậu cho từng vùng, làm cho Vĩnh Linh
có tài nguyên thiên nhiên đa dạng, là một trong những thế mạnh để phát triển nội lực
và thu hút đầu tư vào địa bàn.
Đất đai chủ yếu có hai loại: cát pha và đất đỏ bazan, thuận lợi cho việc phát triển
nông - lâm nghiệp, đặc biệt là trồng cây công nghiệp lâu năm như cà phê, hồ tiêu, cao
su…Tài nguyên rừng và khoáng sản phong phú, có tiềm năng khai thác lâu dài. Nguồn
nước dồi dào từ những con sông: Sê Păng Hiêng, Sê Pôn, Rào Quán và hệ thống ao hồ,
hàng trăm con suối, khe nhỏ, nước ngầm, thuận lợi cho phát triển thuỷ điện và đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt, sản xuất của nhân dân.
2.1.3 Dân cư
Tính đến cuối năm 2012, dân số toàn huyện là: 78.845.000 người, 16.706 hộ,
bình quân 4,72 nhân khẩu/hộ. Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên là 1,78%. Dân cư trong
khu vực nông thôn là 57.884 người, chiếm 73,41%, tỷ lệ hộ nghèo là 23,8%, tỷ lệ
người dân chưa biết chữ là 14,6% trong đó tập trung lớn vào khu vực đồng bào DTTS.
Trên địa bàn huyện hiện có 3 dân tộc sinh sống là Kinh, Vân Kiều và Pa Cô, đồng bào
Vân Kiều, Pa Cô chiếm gần 50%.

2.1.4 Kinh tế - văn hoá - xã hội
Vĩnh Linh- mãnh đất với truyền thống dựng nước và giữ nước, bảo vệ biên
cương, là ngọn cờ nêu cao lòng kiên cường, khuất phục trước kẻ thù nào đã ghi vào
trang sử chói chang, vẻ vang muôn thuở với những chiến thắng lẫy lừng của dân tộc
như: chiến thắng Khe Sanh, đường 9 Nam – Lào, Tà Cơn… Cùng với đó là những nét
đặc sắc văn hoá riêng với cuộc sống cộng đồng và phong tục, tập quán độc đáo như:
Lễ đâm trâu, tục mừng mùa lúa mới, độc đáo hơn là tục đi sim của người Pa Kô, Vân
Kiều mà hiếm địa phương nào có được. Kết hợp với những mùa lễ hội, các phong tục,
những nhạc cụ cồng chiêng với những vũ điệu làm say đắm lòng người hoà lẫn với khí
thiêng sông núi tạo nên một Vĩnh Linh có một không hai.
Nhờ biết khai thác và phát triển phù hợp với tiềm năng kinh tế - văn hoá, đến nay
huyện đã đạt được nhiều kết quả đáng kể, với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
hàng năm đạt trên 8%. Riêng năm 2013, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9,7%. Cơ cấu


kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thu nhập bình quân đầu người khoảng
18 triệu đồng/năm.
Những năm qua, Vĩnh Linh rất chú trọng trong việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương phát triển và có ý nghĩa
quyết định trong việc thực hiện từng bước mục tiêu CNH - HĐH nông nghiệp nông
thôn. Mạng lưới điện, đường, trường, trạm không ngừng hoàn thiện, nhiều công trình
được đầu tư xây dựng và đã vào sử dụng đem lại hiệu quả phục vụ sản xuất, phục vụ
đời sống dân sinh. Tổng số vốn xây đầu tư xây dựng thực hiện trên địa bàn năm 2013
đạt 477,7 tỷ đồng. Đến nay, 22/22 xã , thị trấn đã có điện lưới quốc gia vào đến trung
tâm xã; đường giao thông vào trung tâm 22/22 xã, thị trấn; 01 bệnh viện đa khoa với
quy mô trên 100 giường bệnh. Chất lượng dạy và học được quan tâm, cơ sở hạ tầng
trường lớp học không còn tạm bợ tranh, tre, nứa lá mà được xây dựng kiên cố, khang
trang. Bưa chính, viễn thông ngày càng được đầu tư, mở rộng và hoàn thiện, 16/22 xã,
thị trấn đã có nước sạch sử dụng tại các thôn bản, làng xóm. Nhờ đó, đời sống của
người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, việc tiếp cận của người dân với các

dịch vụ công cộng ngày càng được đẩy mạnh, tỉ lệ hộ nghèo ngày càng giảm, an ninh
quốc phòng được giữ vững.
Với những thế mạnh về điều kiện tự nhiên, xã hội, những nét văn hoá phong phú
và đặc sắc cùng với đó là sự quan tâm, chú trọng đầu tư của Đảng và Nhà nước là
những điều kiện thuận lợi để Vĩnh Linh phát triển nông lâm nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ thu hút đông đảo lực lượng lao động tham gia vào nhiều ngành nghề khác
nhau. Tạo ra nhiều cơ hội trong việc lựa chọn nghề nghiệp cho người lao động, đặc
biệt là LĐNT trên địa bàn huyện.
Bên cạnh đó, với những khó khăn về điều kiện tự nhiên, trình độ dân trí và nhận
thức của người dân còn nhiều hạn chế, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên, hộ nghèo còn
cao. Phần lớn LĐNT chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, sản xuất canh tác còn lạc
hậu, việc tiếp cận và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất gặp nhiều
khó khăn. Chính vì vây, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là chất
lượng của LĐNT là một vấn đề cấp thiết mà chính quyền huyện Vĩnh Linh cần tập
trung giải quyết trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở những năm tiếp theo.
2.1.5 Tình hình về nguồn lao động nông thôn của huyện Vĩnh Linh
2.1.5.1 Tình hình về nguồn nhân lực


Theo thống kê, cuối năm 2012 toàn huyện Vĩnh Linh có 40.435 người trong độ
tuổi lao động, trong đó lao động nữ là 19.861 người, chiếm 49,1% tổng số lao động
của toàn huyện. Số lao động tham gia kinh tế là 39.324 người, lao động chủ yếu là
hoạt động trong khu vực nông - lâm nghiệp. Số lượng LĐNT là 33.937 người, chiếm
86,3% tổng số lao động của toàn huyện. Mỗi năm toàn huyện có thêm gần 2.000 lao
động từ 15 tuổi trở lên, trong đó số LĐNT bổ sung vào lực lượng lao động chiếm gần
80%. Với một nguồn lao động dồi dào, đây là một nhân tố quan trọng cho quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của huyện Vĩnh Linh theo hướng hiện trong những năm tiếp
theo.
2.1.5.2 Cơ cấu lao động nông thôn theo ngành nghề
Những năm qua, cơ cấu lao động theo ngành nghề trên địa bàn huyện có những

chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp. Trong đó, tỉ lệ LĐNT tham gia hoạt
động kinh tế trong các ngành nông - lâm nghiệp có xu hướng giảm từ 2-3%/năm.
LĐNT tham gia kinh tế trong khu vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng
và dịch vụ đều tăng từ 1-2%/năm, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng đươc nhu cầu về phát
triển kinh tế - xã hội của huyện.
Bảng 2.1 Cơ cấu lao động nông thôn theo ngành nghề kinh tế của huyện Vĩnh
Linh giai đoạn 2010 – 2012.
Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Số lượng

CC

Số lượng

CC

Số lượng

CC

(người)

(%)

(người)


(%)

(người)

(%)

NN-LN

21.508

67,3

21.069

64,9

21.380

63,0

CN-TTCN-XD

2.556

8,0

3.181

9,8


3.868

11,4

DV

7.875

24,7

8.215

25,3

8.689

25,6

KHU VỰC

(Nguồn: Phòng LĐ-TB&XH huyện Vĩnh Linh)
Dự báo đến năm 2015, số lượng LĐNT tham gia các hoạt động kinh tế trên địa
bàn huyện Vĩnh Linh là 36.500 người. Cơ cấu lao động phân theo các ngành kinh tế
như sau: Nông, lâm nghiệp 21.900 người chiếm 60%, CN-TTCN-XD là 6.570 người,
chiếm 18%; Thương mại - dịch vụ 8.030 người, chiếm 22%.
2.1.5.3 Cơ cấu lao động nông thôn theo trình độ chuyên môn
Trong thời gian qua, mặt dù đã được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm, đầu
tư. Tuy nhiên phần lớn lao động của huyện Vĩnh Linh đều chưa qua đào tạo. Đặc biệt



là LĐNT chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất cao trên 80%. Bên cạnh đó, đa số con em
đồng bào DTTS sống tại khu vực nông thôn có trình độ học vấn còn thấp, tỉ lệ chưa
biết chữ còn cao, việc tiếp cận với các tiến bộ, khoa học – kỹ thuật còn nhiều hạn chế
chính vì vậy cơ hội tìm kiếm việc làm còn gặp khó khăn.
Bảng 2.2 Cơ cấu lao động nông thôn phân theo trình độ chuyên môn của
huyện Vĩnh Linh trong năm 2010 và 2012.
Năm 2010

Năm 2012

Số lượng

Cơ cấu

Số lượng

Cơ cấu

(người)

(%)

(người)

(%)

Đại học, trên đại học

969


3,05

1.317

3,88

Cao đẳng và tương đương

772

2,43

862

2,54

Trung cấp và tương đương

883

2,78

1.578

4,65

Sơ cấp nghề

286


0,90

662

1,95

Công nhân kỷ thuật

890

2,80

1.459

4,30

27.961

88,04

28.059

82,65

Trình độ chuyên môn

Chưa qua đào tạo

(Nguồn: Phòng LĐ-TB&XH huyện Vĩnh Linh)


Người LĐNT với đức tính cần cù, chịu khó, ham học hỏi, thật thà, tiết kiệm, có
vốn kinh nghiệm sản xuất lâu năm phong phú là một điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế - xã hội của huyện. Tuy nhiên, dễ dàng nhận thấy rằng, phần lớn LĐNT
vẫn tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp - lâm nghiệp. Điều này phù
hợp với thuận lợi về điều kiện tự nhiên, trình độ lao động của người dân trên địa bàn
huyện. Là huyện có diện tích đất nông - lâm nghiệp chiếm phần lớn là điều kiện thuận
lợi cho việc sản xuất nông nghiệp.
Trong những năm gần đây, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ ngày càng thu hút đông đảo lực lượng LĐNT tham gia vào sản xuất, tuy nhiên số
lượng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu chuyển dịch kinh tế của
huyện. Lao động nông thôn trên địa bàn huyện chủ yếu là sản xuất theo thời vụ, tập
quán du canh du cư, thời gian nông nhàn còn lớn. Bên cạnh đó, phần lớn là chưa qua
đào tạo, trình độ chuyên môn, tay nghề còn nhiều hạn chế, trình độ nhận thưc và năng
lực sử dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật gặp nhiều khó khăn, tư tưởng trông chờ, ỷ
lại vào sự hỗ trợ của nhà nước còn khá phổ biến. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến
quá trình phát triển kinh tế-xã hội của huyện. Chính vì vậy, trong những năm tới,
huyện Vĩnh Linh cần đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo


×